Quan Điểm, Bản tin 55, Suma Ching Hai giảng cho các thường trú tại Tây Hồ, Formosa Ngày 6 tháng 1, 1996 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa) Ngày xưa có một người ở trong một trung tâm tu hành, anh rất lười làm việc cho rằng mỗi ngày phải tọa thiền 24 tiếng không ngừng cầu nguyện Thượng Đế mới đúng và anh không chịu làm việc thế tục. Đào đất, trồng cây, nấu cơm, những công việc đó quá phàm phu, không nên làm! Người tu hành phải ra vẻ thần thánh, cao nhã. Cho nên anh đã bỏ đi đến sa mạc mỗi ngày tọa thiền. Một tuần lễ sau anh đã bỏ về, vì đói quá! Về gõ cửa. Lúc đó vào ban đêm. Sư trưởng không mở cửa, hỏi ai đó? Người đó nói tôi là chuẩn sư gì đó, sư trưởng tức thì nói: “Ô! Chuẩn sư gì đó không còn nữa! Ông đã thành Bồ Tát hoặc thiên thần, ông không còn tồn tại trên thế giới này nữa!” Sau đó sư trưởng khóa cửa đi ngủ, để mặc chuẩn sư gì gì ngồi suốt đêm bên ngoài cầu thang. Lúc đó nhằm vào mùa đông, anh vừa đói vừa lạnh. Sư trưởng sáng sớm mở cửa lại trông thấy anh. Chuẩn sư gì gì đó nhận lỗi, sư trưởng mới nói: “Khi anh vẫn còn sống trên thế giới này, vẫn còn thân xác này, là phải làm việc mưu sinh.” Anh ta đã hiểu. Chúng ta chưa phải là thiên thần mà! Dĩ nhiên lên núi Hy Mà Lập Son ăn không khí, uống nước đá cũng được (mọi người cười), một hai ngày sau sẽ biến thành băng tuyết (Mọi người cười), không có chuyện gì làm rất đơn giản. Tuy nhiên chúng ta đã chọn tu hành trong cõi hồng trần này, thì chúng ta phải cố gắng dụng công trong mọi Phương diện.
0 Comments
Chuyện Thật Về Một Đạo Sĩ & Một Cao Thủ Khí Công Pháp Môn Quán Âm Mở Viên Thông Pháp Lực Thần Thông Không Cứu Cánh Dương Sư Huynh, Hoa Lục ghi chép, Bản tin 62 Tu Hành Phải Tinh Tấn Khi cử hành buồi lễ Tâm Ấn tại Hoa Lục, đã xẩy ra một câu chuyện lạ. Có một chuẩn đồng tu đến thọ Tâm Ấn, dẫn theo một cháu bé. Cháu bé chưa lên sáu, nhưng cứ một mực muốn thọ Tâm Ấn. Vị sứ giả Quán Âm an ủi cháu, chờ thêm mấy tháng nữa rồi mới thọ Tâm Ấn. Cháu bé nhất định không nghe và bắt đầu khóc ầm lên. Lúc đó có một vị chuẩn đồng tu sáu mươi tuổi ngồi đối diện cháu bé, không rõ vì lý do gì, cũng khóc theo. Những người có mặt đều lấy làm lạ trước sự việc đột nhiên xảy ra, mới hỏi ông tại sao lại bật khóc thương tâm như thế? Ông ngậm ngùi trả lời: "Vừa rồi nhìn thấy người bạn chuẩn đồng tu nhỏ khóc, đột nhiên tôi thấy tiền kiếp của em và tôi đã từng là huynh đệ đồng môn. Hai chúng tôi, khoảng sáu ngàn năm trước, cùng bái thầy Quảng Thành Tử trên núi Không Động làm sư phụ. Tiểu sư đệ vì biếng nhác lâu ngày thành thói quen, tu hành không chăm chỉ, mỗi khi ngồi thiền hay ngủ gục, nên lần này phải luân hồi trở lại để tu hành. Nhìn thấy tình cảnh này, tôi không cầm được sự thương tâm, nên sót xa rơi lệ." Vị chuẩn đồng tu lớn tuổi rất nổi danh trong giới khí công. Ông có rất nhiều năng lực đặc biệt như trị bệnh, trừ ma, bốc quẻ, đoán kiết hung, đoán tương lai v.v... Trước khi chào đời, trong gia tộc ông có một trưởng bối tinh thông Kinh Dịch tiên đoán rằng đứa bé này về sau sẽ gặp được thánh hiền chỉ dạy, đi vào đường tu hành. Lưu sư huynh chữ nghĩa không khá, nhưng đối với cổ thư thâm sâu khó hiểu như Kinh Dịch, chỉ cần đọc qua một lần là hiểu nghĩa, không cần thầy. Mấy chục năm qua, ông tiếp tục nghiên cứu các sách vở về tu hành, ông cũng không ngừng ra công tìm kiếm các bậc thầy xứng đáng để theo học. Lúc bộ môn khí công hưng thịnh tại Đại lục, ông Lưu đã luyện qua nhiều bộ môn khí công khác nhau. Tuy đạt được những năng lực đặc biệt, nhưng tâm ông vẫn không sao thỏa mãn. Có một lần người con trai của ông mách rằng, có một ngôi mộ cổ ngàn năm, bên cạnh ngôi mộ mọc lên một cây cổ thụ rất kỳ diệu, nhiều người đã đến đó luyện công và đã đạt được những hiệu quả thần kỳ. Ông liền hiếu kỳ đi đến đó. Lần đầu tiên, trong lúc thiền định, ông thấy một vị hòa thượng mặc áo vàng, trên đỉnh đầu phát ra ánh sáng trắng dạy ông công pháp, giúp ông mở thêm thiên nhãn. Lưu sư hunh nghĩ rằng mình đã tìm được một vị chân sư nên vui mừng vô tả. Cho đến một ngày ông đang luyện dưới một gốc cây thì có một vị hắc y đạo nhân cưỡi một con độc giác thú từ hướng Đông Nam đến, mắng lớn rằng: "Tại sao ngươi dám dạy công pháp bậy bạ cho nó?" Vị hòa thượng áo vàng khi nghe tiếng liền bỏ chạy. Ông mới biết mình đã bị gạt. Vị hắc y đạo nhân cưỡi độc giác thú này chính là Quảng Thành Tử - vị đạo sư dạy Lưu sư huynh tu hành hồi sáu ngàn năm trước. Từ đó mỗi ngày, vị đạo sư này đến từ hướng Đông Nam dạy Lưu sư huynh luyện công. Bí Quyết Hiển Lộ Trong Lúc Thiền Có một ngày trong lúc thiền định, Lưu sư huynh thấy ba mặt trời, trong đó có hai cái lặn xuống và dần dần biến mất, chỉ còn lại một cái mọc từ hướng Đông Nam từ xa đến gần. Giữa mặt trời đột nhiên xuất hiện một tấm kính, trên mặt kính dần dần hiện ra mỗi lúc một rõ pháp tướng của một vị mặc vương phục ngồi trên ngai rồng. Lúc đó ông vẫn chưa biết người đó là ai. Trong một cơ duyên tình cờ, Lưu sư huynh nhận được sách biếu và băng thâu hình của Sư Phụ. Ngay đêm hôm đó, ông nằm mơ thấy có một người để những vòng ánh sáng lên trước ngực ông. Ông cảm thấy thật nhẹ nhàng thoải mái. Cơn bệnh tim lâu nay không cần thuốc mà hoàn toàn dứt hẳn. Điều khiến Lưu sư huynh cảm thấy kỳ lạ nhất là lúc đồng tu đến tìm ông. Ông thường tưởng mình thần thông quảng đại, có năng lực đoán biết nếu có người muốn đến tìm ông. Ông tin chắc rằng dù người ấy pháp lực cao cường thế nào, ông cũng cũng biết trước việc người ấy sẽ đến. Duy có lần này không những ông không sao đoán được, mà vị đồng tu còn biết ông đang tìm mội vị minh sư. Trong Bản Tin Suma Ching Hai mà đồng tu mang đến cho ông, trùng hợp có một kỳ Sư Phụ mặc vương bào. Ông nhìn qua và nhận ra Sư Phụ chính là người đã hiện ra trong ánh mặt trời. Tu Thần Thông Gặp Nhiều Chướng Ngại Từ đó ông tràn đầy pháp hỷ, mong sao ngày thọ Tâm Ấn sớm đến. Khi đồng tu thông báo cho ông biết còn ba ngày nữa sẽ được thọ Tâm Ấn, ông vui mừng khôn tả. Có ai ngờ khi đồng tu vừa rời khỏi nhà ông, thì người nhà ông thấy mặt và miệng ông méo mó. Nửa thân bên phải của ông hoàn toàn bị liệt, còn nửa bên kia cũng rất nặng nề, nhưng ông vẫn cố giơ cánh tay trái lên chỉ sách Sư Phụ đang đặt ở trong phòng thiền. Lúc này người nhà của ông đã sợ đến mất bình tĩnh. Cũng may là vợ ông hiểu được ý ông nên đem sách biếu của Sư Phụ đến trước mặt ông. Ông mới niệm được "Suma Ching Hai". Vừa niệm xong pháp hiệu Sư Phụ, miệng và mắt đang méo của ông lập tức hồi phục bình thường, thân thể bị liệt của ông cũng tức khắc cử động trở lại. Đây là kết quả của việc đùa giỡn với thần thông. Nguyên trước đây Lưu sư huynh đã từng học một loại thần thông và mượn linh thể của một chúng sinh atula, giờ dây chúng sanh này muốn đến cản trở không cho ông tu Pháp Môn Quán Âm cao đẳng để liễu thoát sanh tử. Vì nếu theo Sư Phụ tu hành sẽ vĩnh viễn không còn đọa vào vòng luân hồi. Chúng sanh atula không muốn cho ông thọ Tâm Ấn, nên không buông tha và bám lấy ông. Lưu sư huynh được thọ Tâm Ấn, nhưng chúng sanh A-tu-la họ vẫn giữ ý đồ đến quấy nhiễu sự tu hành của ông. Thậm chí muốn bắt ông vãng sanh. May mắn là Sư Phụ đã dạy chúng ta cách để bảo vệ bản thân. Ông chỉ cần niệm Phật hiệu, chúng sanh A-tu-la đó liền lập tức bỏ chạy và hứa sẽ vĩnh viễn không quấy nhiễu Lưu sư huynh nữa. Nếu không có minh sư bảo hộ, dù có dùng hết lực lượng để chống chọi, e rằng cũng không thể thoát khỏi nanh vuốt của chúng sanh A-tu-la. Lưu sư huynh hết lòng cảm ơn trời đã giúp ông có phước báu lớn lao là được theo Sư Phụ tu hành. Sau khi Tâm Ấn, có một lần trong lúc thiền định, Lưu sư huynh thấy được nhân duyên của Sư Phụ và ông trong quá khứ. Trong muôn kiếp luân hồi, có ba lần Sư Phụ muốn giúp ông giải thoát, nhưng lần nào ông cũng đam mê thần thông, không muốn theo chân Sư Phụ. Nếu bỏ qua cơ hội quý báu lần này, ông sẽ phải đợi vô số kiếp về sau. Bây giờ, đối với sự luân hồi vô tận, ông đã cảm thấy mệt mỏi, hiểu một cách ngọn nguồn là thần thông không cứu cánh, chỉ là ảo tưởng của đầu óc. Pháp Môn Quán Âm mới đích thực là pháp môn cao đẳng viên thông và vô hậu. Lực Lượng Minh Sư Bất Khả Tư Nghị Lại còn một chuyện khác cũng làm Lưu sư huynh bái phục đến cực độ về lực lượng bất khả tư nghị của Sư Phụ. Thường vợ ông chỉ quanh quẩn ở trong nhà làm việc nội trợ. Bà là một người đàn bà quê mùa, không biết ăn nói, không đọc được nhãn hiệu của thức ăn, không phân biệt được giá trị của tiền giấy, và đương nhiên cũng không biết cách dùng. Cả năm bà không nói được mấy lời, khi thấy có người đến nhà thăm, là bà lẩn trốn. Lưu sư huynh thường nghĩ rằng đẳng cấp của bà rất thấp. Không ngờ sau khi thọ Tâm Ấn, bà đã trở nên cởi mở, và khả năng về ngôn ngữ phát triển vượt bực. Có một ngày, Lưu sư huynh mở băng thâu âm của Sư Phụ, cùng lúc nhắm mắt nhìn thiên nhãn để xem cảnh giới ra sao. Mỗi cuốn băng, ông chỉ mở khoảng ba bốn phút mà thôi, rồi đổi cuốn khác. Tuy nhiên, khi đổi tới cuốn băng thứ ba, vợ ông vẻ mặt bực bội từ phòng bên, chạy qua nói: "Ông làm gì vậy? Cứ đổi tới đổi lui hoài?" Thì ra vừa rồi bà đang ngồi thiền ở phòng bên cạnh. Mỗi lần Lưu sư huynh mở một cuốn băng, bà thấy những cảnh giới khác nhau. Có lúc thấy Sư Phụ đang ở một nơi rất đẹp, chung quanh rất đông người xuất gia mặc tăng phục vàng, họ hết lòng thành tâm lắng nghe Sư Phụ khai thị. Lúc khác, bà thấy nhiều người mặc áo trắng, thân thể phát ra ánh sáng, đang cung kính lắng nghe Sư Phụ giảng kinh. Mỗi lần vừa mới được thưởng thức cảnh giới thiên nhân hợp nhất là bà nghe tiếng "cắc cụp". Khi băng thâu âm đổi đi thì cảnh giới bị đứt đoạn. Đến lần thứ ba, thì bà chịu hết nổi nên ra la ông. Lưu sư huynh nghe qua giật mình. "Làm sao bà vợ vừa mới Tâm Ấn chưa được mấy tháng, lại có công lực tu hành tương tự như mình, dù mình đã tu luyện nhiều năm như mình vậy?" Điều này khiến ông muôn vàn cảm khái, và ông càng bái phục lực lượng vĩ đại của Sư Phụ. Đêm hôm ấy, ông được đưa lên một cảnh giới cao hơn. Ông không cách nào nhớ được những chi tiết, chỉ nhớ rằng có một người nói với ông: "Những gì còn thấy được không phải là Chân Lý tối thượng." Quan Niệm Tu Hành Phải Chính Đáng Qua lần thể nghiệm này, Lưu sư huynh liễu ngộ được hai điều. Thứ nhất, Sư Phụ giảng kinh không phải chỉ cho thế giới Ta Bà nghe mà thôi, mà còn có rất nhiều thế giới và các chúng sinh khác nhau cũng đồng thời lắng nghe. Thứ hai, thể nghiệm này ấn chứng được lời Sư Phụ nói: "Bất cứ cảnh giới nào mà còn thấy được, là chỉ mới đi được nửa đoạn đường mà thôi. Cảnh giới cao đẳng thật sự là cảnh giới không còn hình tướng." Giờ đây ông đã hiểu Sư Phụ đang dạy ông đừng quá tham cầu và chấp vào cảnh giới. Nếu không, tu hành sẽ bị dừng lại ở đẳng cấp ấy, không vượt lên nổi, ngược lại nó sẽ trở thành một thứ chướng ngại. Ông bội phần cảm tạ Sư Phụ đã kịp thời nhắc nhở. Sau này ông sẽ không chấp vào cảnh giới và thể nghiệm nữa. Câu Chuyện Truyền Kỳ Của Một Vị Đạo Trưởng Hồ đồng tu Nam Đầu, Formosa kể Thường trú Tây Hồ, Formosa ghi chép, Bản tin từ 41 đến 44 Lên Thiên Đàng Sau khi thọ Tâm Ấn, đạo trưởng về trên núi, tinh tấn tu hành theo pháp môn Sư Phụ đã truyền. Có một lần trong lúc thiền định, thấy hóa thân Sư Phụ nói với ông rằng sẽ đem người chồng của một vị sư tỷ cùng làng vừa vãng sanh lên thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đạo trưởng hỏi: “Có phải đích thân Sư Phụ sẽ đến nhà bà ấy không?” Sư Phụ vẫy tay tỏ ý không phải. Đạo trưởng thắc mắc hỏi: “Vậy phải độ ông ta bằng cách nào?” Sư Phụ trả lời: “Ngươi chỉ cần chuyển lại lời của Ta là được.” Đạo trưởng bèn đem những lời chỉ dạy của Sư Phụ báo cho vị sư tỷ đó biết. Trên đường về, ông còn đặc biệt quay lại dặn dò con gái và con rể của vị sư tỷ đó: “Đêm nay quý vị hãy để ý xem có hào quang hay kim quang xuất hiện hay không, Sư Phụ tôi nói sẽ dẫn cha của quý vị lên thế giới Tây Phương Cực Lạc.” Tuy nhiên kết quả lại nằm ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Sư Phụ đã để cho đứa cháu nội bốn tuổi trông thấy Ngài. Mọi người thấy em bé nhìn lên trời vẫy tay mãi, bèn hỏi: “Con làm gì thế?” Em trả lời: “Con đang chào tạm biệt ông nội.” “Ông nội con đang nằm trong quan tài, sao con lại nói đang chào tạm biệt ông nội?” Em chỉ vào một tấm hình Sư Phụ và nói một cách ngây thơ: “Người này cầm tay ông nội và dẫn ông bay lên trời.” Ngày hôm sau vị đồng tu gặp lại đạo trưởng, kể lại câu chuyện thần kỳ về đứa cháu trông thấy Sư Phụ đưa chồng bà thăng thiên. Đạo trưởng bèn mở quan tài ra xem, và sửng sốt khi thấy nét mặt của người quá cố trong đó. Đạo trưởng còn nhớ lúc mới vãng sanh, mặt chồng bà vừa đen vừa khó coi. Bây giờ đã hoàn toàn khác hẳn. Không chỉ có nụ cười trên môi, sắc mặt đã trở nên hồng hào, điềm tĩnh như người sống đang ngủ. Quả thật là bất khả tư nghị! Một bằng chứng rõ rệt về những gì Sư Phụ đã nói: Sau khi thọ Tâm Ấn, ít nhất tổ tiên năm đời của các đệ tử sẽ được siêu sanh. Linh Hồn Đến Cung Diêu Trì Sau khi thọ Tâm Ấn được nửa năm, đạo trưởng theo Sư Phụ xuất gia. Nhưng vài tháng sau, vì vợ bệnh nặng hôn mê bất tỉnh, đạo trưởng đành phải về săn sóc. Ông đưa vợ đi rất nhiều bác sĩ khám bệnh, đến rất nhiều bệnh viện, nhưng họ đều tìm không ra nguyên nhân căn bệnh. Bà nằm liệt trên giường bệnh mười mấy ngày không ăn không uống, giống như một đống củi bất động. Đạo trưởng trong lòng xốn xan. Trong lúc tọa thiền, ông lên thiên đàng, xuống địa ngục mấy lần, nhưng tìm không thấy linh hồn của vợ. Ngày thường người ta nhờ kiếm người, hay chữa trị những cơn bệnh lạ phức tạp, đạo trưởng đều có thể hóa giải được. Tại sao khi vợ mình có chuyện, lại bó tay vô phương cứu chữa? Ông rất buồn rầu. Một số bạn bè thân hữu hay bác sĩ đều khuyên ông hãy xem bà như đã chết, chôn cất cho rồi. Nhưng đạo trưởng là người trọng tình nghĩa, suốt đời hai vợ chồng bên nhau, rất thương nhau. Thêm vào đó, ông không mê tín dị đoan, không chịu thua. Làm sao ông có thể bỏ mặc vợ mình như vậy được? Cho nên ông cứ một mực ngồi thiền, cầu Sư Phụ giúp đỡ. Một hôm, bỗng nhiên vợ ông tỉnh lại. Ông mừng rỡ vô cùng, liền hỏi: “Mấy hôm nay bà đi đâu vậy? Tôi kiếm hoài không thấy?” Vợ ông trả lời rằng: “Đến một nơi rất thích thú, rất vui. Tôi sung sướng quá không muốn về. Sau đó hóa thân Sư Phụ ‘của ông’ xuất hiện bảo tôi về. Ngài nói: ‘Đây không phải là chỗ ngươi nên lui tới. Ngươi lên trên kia mới đúng.’ Trong lòng tôi không chịu, chưa nói ra miệng, Ngài đã nắm lấy tay tôi kéo về. Sư Phụ vóc người nhỏ nhắn, sao Ngài mạnh thế! Tôi cố giãy giụa không được, sau đó thì tỉnh lại.” Đạo trưởng mừng rỡ, rốt cuộc Sư Phụ đã đem vợ ông về. (Vợ ông thọ pháp sau ông) Vài tháng sau, vợ ông bắt đầu nhắn với ông những lời kỳ cục như: “Sau này nếu tôi có chết, ông hãy hỏa táng thi hài tôi, đừng chôn cất.” Nghe vậy, trong lòng đạo trưởng cũng đoán được sẽ có chuyện, nhưng ông vẫn cố làm ra vẻ nghiêm trang, nói rằng: “Nếu bà chết, tôi sẽ chôn cất bà.” Nghe ông nói vậy, vợ ông giận không thèm nói chuyện với ông nữa. Tuy nhiên ít lâu sau, bà lại nói với ông những lời kỳ quặc như: “Ông phải đem tro hỏa táng của tôi đến tháp chứa cốt gần đây để cất giữ, số xx.” Vì những câu nói lạ lùng này, đạo trưởng để ý xem xét từng cử chỉ của vợ mình. Một buổi sáng, vợ ông đứng ở ngoài cửa như mọi khi. Ông thấy không có chuyện gì, bèn đi vào phòng, mấy phút sau trở ra, đã không thấy bóng dáng của vợ ở đâu. Ông lo lắng quá, liền chạy qua nhà hàng xóm tìm kiếm, nhưng vẫn không thấy tăm tích bà. Ông bèn gọi các con và cả hàng xóm phụ tìm bà. Nhưng bà dường như biến mất. Ông dùng thần thông, nhờ sơn thần, thổ địa giúp đỡ, nhưng vẫn biệt vô tăm tích. Sau khi vợ ông mất tích vài ngày, ông báo với cảnh sát địa phương. Ngày thường khi cảnh sát gặp trường hợp có người leo núi mất tích, kiếm không ra, thường hay nhờ ông giúp đỡ. Lần nào ông cũng giúp họ. Cho nên viên trưởng ty cảnh sát mới thấy lạ, nói với ông rằng: “Tại sao chuyện của người khác ông có thể giúp được, chỉ có vợ ông mà ông kiếm không ra?” Đạo trưởng cũng suy nghĩ mãi không biết tại sao, mỗi ngày ông phải sống trong sự lo lắng bồn chồn. Ông nghĩ chắc Sư Phụ chưa đón vợ mình đi, cho nên mới quyết định xuống âm phủ điều tra. Tuy Thành Hoàng giữ cửa tại âm phủ nói với đạo trưởng: “Vợ ông không có ở đây,” nhưng đạo trưởng nhất định phải vào trong tìm kiếm. Lần thứ hai ông lại thăm địa ngục. Lần này Địa Tạng Vương Bồ Tát xuất hiện cho ông biết rằng: “Vợ ông đã thọ Tâm Ấn với một vị Minh Sư, làm sao mà còn có ở đây!” Nhưng đạo trưởng một lòng chỉ muốn tìm lại người vợ thương yêu, cho nên không nghe. Tuy nhiên, sau khi dò xét xong, ông vẫn thất bại trở về. Khi đạo trưởng xuống âm phủ lần thứ ba, Địa Tạng Vương Bồ Tát mặt mày nhăn nhó. Tuy nhiên, thấy đạo trưởng tìm vợ tìm đến phát điên, cũng không nỡ làm khó dễ, vẫn cho ông đi vào bên trong, nhưng rốt cuộc cũng không có kết quả gì. Thật ra, trước khi vãng sanh, vợ ông đã dặn một người hàng xóm rằng: “Nếu một ngày nào đó tôi mất tích, hãy nói với đạo trưởng đừng mất công tìm kiếm. Ông kiếm không ra đâu!” Có một phụ nữ khác, nguyên là người địa phương cho biết, khi vợ đạo trưởng mất tích, vừa lúc đó cô đang đi qua trước cửa đạo cung, thấy một đóa hoa sen rất lớn bay lên bầu trời. Cô tưởng đâu mình hoa mắt. Sau mấy tháng tìm kiếm, vẫn không thấy tăm hơi người vợ. Rồi một hôm, trong lúc tịnh tọa, đạo trưởng thấy hóa thân Sư Phụ nói với ông rằng: “Vợ nhà ngươi hiện ở Cung Diêu Trì.” Linh thể của đạo trưởng liền lên đến đó. Vừa mới tới nơi, đã thấy vợ mình đang ngồi xếp bằng trong cung. Thấy đạo trưởng tới, bà mỉm cười không nói gì. Lúc bấy giờ, đạo trưởng vừa mừng vừa giận, mừng vì đã kiếm được vợ, giận là vì vợ mình lên đây mà không nói với ông một tiếng, để ông bôn ba khắp nơi tìm bà ròng rã mấy tháng trời. Ông trách móc bà: “Bà đến đây mà không nói năng gì cả, khiến tôi phải tìm kiếm khắp nơi. Địa ngục cũng xuống tìm mấy lần. Tại sao bà lại làm như vậy?” “Tôi cũng đâu biết ông ngu đến nỗi xuống địa ngục tìm kiếm, người ta làm sao mà ở dưới đó được!” Đạo trưởng lại hỏi: “Quái lạ! Bà trốn bằng cách nào, tại sao tôi kiếm không ra?” Vợ ông trêu ông: “Ông không phải có rất nhiều thần thông hay sao? Sao lại kiếm không được? Thật ra cuốn ‘Kỳ Môn Độn Giáp’ để trong nhà, tôi đã học trộm hết cả rồi. Tôi đã dùng phép tàng hình. Nếu không phải Sư Phụ giúp ông, ông không cách nào tìm ra tôi.” Lúc bấy giờ đạo trưởng mới thấu hiểu mọi việc. Ông hỏi thi hài của vợ hiện giờ ở đâu? Bà trả lời: “Tôi sợ ông đem chôn, cho nên bây giờ không thể tiết lộ được. Đợi đến khi da thịt đã rữa, ông tự nhiên sẽ thấy.” Quả thật, sau khi mất tích mấy tháng, một ngày nọ trưởng ty cảnh sát đến nói cho ông biết có một học sinh leo lên núi đã khám phá ra một xác chết gần chỗ ở của đạo trưởng, mời ông đi xác nhận. Khi đến nơi, ông thấy một thi thể ngồi xếp bằng, da thịt toàn thân đều đã khô queo, nhưng điều kỳ lạ là tại cổ tay có đeo một tràng hạt nhỏ. Đó là tràng hạt lúc sanh tiền Sư Phụ tặng (Sư Phụ tặng bà xâu chuỗi này trước khi bà thọ pháp). Còn có một sợi dây chuyền có hình pháp tướng của Sư Phụ, bà cũng cột ở cổ tay. Chỉ chỗ đó da thịt vẫn còn tươi tốt, thật là một điều kỳ lạ. Sau đó nhân viên công tác trong tháp chứa hài cốt đã đến. Ông cũng cho biết rằng ông đã làm việc tại tháp chứa hài cốt mấy chục năm, đã nhìn thấy vô số xác chết, nhưng đây là lần đầu tiên ông trông thấy một kỳ tích như vậy. Ông đề nghị đạo trưởng đừng hỏa táng, nên tráng thành kim thân để người ta lễ bái. Nhưng đạo trưởng nói rằng vợ ông đã đặt biệt nhắn nhủ nhất định phải hỏa táng, ông tôn trọng sự quyết định của bà. Sau khi hỏa táng, tro cốt được gởi trong tháp chứa cốt, con số thứ tự quả đúng là con số mà vợ ông đã cho biết trước. Còn về chỗ tìm ra thi thể, đạo trưởng và con trai đã từng đến đó tìm kiếm, còn nghỉ ngơi dưới thân cây lớn ngay bên cạnh, mà vẫn không thấy được. Cho dù không để ý, không nhìn thấy, mùi thối rữa của xác chết nhất định phải ngửi thấy chứ. Ở đời này, chuyện lạ gì cũng có thể có! “Cung Minh Hồ” giản dị và xơ xác của đạo trưởng nằm trên núi Mù Xã ở Đài Trung. Đây là một nơi phong cảnh hữu tình, non xanh nước biếc. Đàng trước đạo cung là “Minh Hồ”. Trong khoảng thời gian đạo trưởng trú ngụ, trên núi đã xảy ra nhiều chuyện ly kỳ. Ma Nước Hiện Hình Mấy chục năm về trước, Mù Xã vẫn còn là một khu núi cấm. Trước khi thọ Tâm Ấn, đạo trưởng và một số dân làng thường hay bắt cá trong hồ để làm sinh kế. Có một buổi tối, ông đi bắt cá như thường lệ, gặp một viên cảnh sát đến phạt ông. Đạo trưởng bèn nói với cảnh sát: “Ông đừng xuống đây! Vùng này nguy hiểm lắm, thường có ma nước xuất hiện và hại người.” Nghe ông nói vậy, viên cảnh sát không làm sao tin được, bèn trả lời: “Ông tưởng tôi là con nít dễ lừa gạt lắm sao? Trừ trường hợp chính mắt tôi trông thấy, nếu không dù có đánh chết tôi, tôi cũng không tin!” Đạo trưởng trả lời: “Tôi không gạt ông đâu! Nếu ông không tin, tối mai sẽ bắt một con ma nước lên cho ông xem.” Thế là hai người bèn ước hẹn với nhau. Tối hôm sau, hai người đến bờ hồ như đã hẹn trước. Đạo trưởng chuẩn bị sẵn lưới bắt cá, tay chậm rãi chèo thuyền, miệng niệm chú, thả ra một cái “lưới bát quái.” (Ghi chú: Đây là dấu hiệu của đạo sĩ). Một lát sau, quả nhiên đã bắt được một con “ma nước”. Đạo trưởng mới giao hẹn trước với viên cảnh sát rằng: “Ông đừng làm hại đến nó nghe!" Nói xong ông từ từ kéo con ma lên bờ. Khi thấy mặt ma nước, viên cảnh sát ngạc nhiên vô cùng! Ông tưởng đâu “ma nước” cũng là một thứ hồn ma không thể trông thấy được, ngờ đâu nó lại giống y như một người! Chỉ có thân hình hơi thấp, cao từ một đến hai bộ (feet). Mắt nó đỏ, cứ chớp hoài không ngừng, miệng phát ra tiếng kêu “chư chứ”, toàn thân bao phủ bởi một lớp lông ngắn. Đạo trưởng nói với ma nước: “Ngươi đừng ở đây nữa, người ta trông thấy sẽ sợ. Hơn nữa nếu chẳng may bị người ta bắt được sẽ rất nguy hiểm. Tốt nhất là ngươi nên lánh xa nơi đây một chút!” Nói xong đạo trưởng thả nó ra, và tiếp tục bắt cá. Hôm đó, đạo trưởng rất hên, lưới được rất nhiều cá. Thì ra con ma nước trong hồ đã giúp xua cá vào lưới của ông, nên ông mới bắt được nhiều như vậy. Tiền Sát Sanh Không Hưởng Thụ Được Vì luôn luôn bắt được rất nhiều cá, thâu nhập rất tốt, cho nên đạo trưởng bấy lâu nay đã lấy nghề chài lưới làm nghề phụ. Cho đến buổi trưa một ngày nọ, khi ông đang nghỉ ngơi trong nhà, Văn Thù Bồ Tát bỗng xuất hiện, nói với ông rằng: “Thời gian đã đến, ngươi không được bắt cá nữa.” Lúc bấy giờ, đạo trưởng bắt cá kiếm được từ một đến hai ngàn đồng mỗi ngày, rất phong phú, nên dĩ nhiên là không muốn bỏ. Ông bèn hỏi: “Bắt cá đâu phải là chuyện xấu, tại sao bắt tôi phải ngưng?” Văn Thù Bồ Tát trả lời: “Nay thời giờ của ngươi đã đến, không thể đánh cá nữa. Nếu không nghe lời trung ngôn của ta, cứ tiếp tục chài lưới, mắt ngươi sẽ bị mù. Ngươi hãy tự quyết định, muốn đánh cá, hay là làm một người mù.” Đạo trưởng không tin: “Làm sao có chuyện như vậy được! Mắt tôi rất tốt, làm sao có thể mù được?” Văn Thù Bồ Tát thấy ông không nghe, bèn biến mất. Ai ngờ đến ngày hôm sau, bỗng có một luồng khí đen xông tới trước mặt ông, không biết là gì. Ông tránh không kịp, đôi mắt đau nhói như bị người ta ném cát, nước mắt cứ trào ra mãi. Ngày hôm sau đạo trưởng nói với vợ: “Mắt tôi sắp hỏng, không nhìn thấy gì nữa.” Ông mới đem câu chuyện Văn Thù Bồ Tát kể lại với vợ. Vợ ông liền dẫn ông đi khám bác sĩ nhãn khoa, nhưng hai vị bác sĩ nhãn khoa đều nói rằng mắt của ông rất bình thường, họ khám không thấy gì cả. Đạo trưởng mới hiểu ra đó là bệnh nghiệp chướng, bèn về nhà cầu thần Phật trong đạo thất: “Xin các Ngài hãy khôi phục lại đôi mắt cho con, việc bỏ nghề đánh cá con sẽ suy nghĩ lại.” Tối hôm sau, Văn Thù Bồ Tát lại xuất hiện nói với ông rằng: “Ta là Văn Thù Bồ Tát. Ta có duyên thầy trò với ngươi. Bắt đầu từ ngày hôm nay, ngươi không được đánh cá tạo sát nghiệp nữa. Ngươi phải đem hết tài năng đã học trong đời đi cứu nhân độ thế.” Đạo trưởng hỏi lại: “Mỗi ngày đánh cá tôi có thể kiếm được một, hai ngàn đồng, bây giờ bỏ nghề chài lưới, tôi lấy gì sinh sống?” Văn Thù Bồ Tát trả lời: “Ngươi đừng lo, tự nhiên sẽ kiếm được cách sinh sống.” (Lúc đó đạo thất của ông mở cửa, với những người đến xin giúp đỡ, ông thường không lấy tiền. Có khi gặp người khốn khó, ông còn tự động giúp đỡ tiền bạc cho họ nữa.) Lúc bấy giờ, đạo trưởng bèn hứa với Văn Thù Bồ Tát là sẽ chấm dứt việc chài lưới, và xin Ngài cho đôi mắt ông được trở lại bình thường, để ngày hôm sau ông có thể đi dọn dẹp đồ nghề: chiếc thuyền và lưới cá. Văn Thù Bồ Tát liền thảy vào miệng ông một viên thuốc màu vàng, bảo ông nuốt và về nhà nằm nghỉ. Ngày hôm sau tỉnh lại, quả nhiên đôi mắt ông đã trở lại bình thường. Đạo trưởng mừng rỡ đến bờ hồ, kéo chiếc thuyền và dụng cụ chài lưới lên đốt đi, chấm dứt cuộc sống đánh cá. Đạo trưởng hồi tưởng lại rằng: “Tiền kiếm được từ nghiệp sát không hưởng được!” Ông nói thế, bởi tiền ông đánh cá, hầu hết đều chi vào tiền bệnh viện lúc vợ ông đau. Còn chi phí sinh sống ngày của ông, thật ra, là từ tiền kiếm được qua việc bán bông ly ly phơi khô hay đào măng. Đạo trưởng nói rằng, tiền kiếm được từ sự sát sanh sẽ không có kết quả tốt. May thay, Văn Thù Bồ Tát hiện linh độ ông, nếu không, không biết ông còn tạo thêm bao nhiêu nghiệp chướng nữa! Bảo Vệ Kinh Sách Một Cách Dũng Cảm Sau khi thọ Tâm Ấn không lâu, có một lần ông cùng vợ xuống núi làm việc. Trên đường về đi qua một ngôi chùa, thấy nhiều người đem rất nhiều sách để trước cửa chùa. Đạo trưởng hiếu kỳ, bèn nói với tài xế ngừng xe để ông xuống xem những quyển sách đó có phải là sách Đạo tùy hỷ hay không, ông muốn lấy về đọc cho biết. Khi đến gần xem kỹ, thì hóa ra là sách biếu của Sư Phụ! Đạo trưởng cảm thấy có điều không ổn, tại sao sách lại vất đống dưới đất như vậy? Ông bèn hỏi những người dọn sách: “Những quyển sách này quý vị lấy ở đâu vậy? Tại sao chồng chất sách ở đây?” Người dọn sách trả lời: “Đây là những cuốn sách mà đệ tử của Thanh Hải Vô Thượng Sư phát. Chúng tôi thu gom lại không để người ta đọc. Chúng tôi sửa soạn đốt hết những cuốn sách này.” Nghe nói như vậy, đạo trưởng giận quá, liền hỏi: “Đây là sách của Sư Phụ tôi, tại sao quý vị lại đem đốt? Không được đốt sách của Sư Phụ tôi!” Rồi ông kêu vợ và viên tài xế lại, chuẩn bị đem sách lên xe mang về nhà. Lúc bấy giờ, một thanh niên la lên rằng: “Quý vị làm gì thế!” Đạo trưởng một lòng hộ pháp, không chịu được nữa, nên mới trả lời anh: “Chú la hét gì vậy? Đây là sách của Sư Phụ tôi, tại sao chú lại đem đốt đi?” Người thanh niên kia trả lời: “Sư Phụ ông là ma.” Nghe vậy, đạo trưởng càng giận thêm: “Sư Phụ tôi dạy người ta giữ năm giới, mỗi ngày ngồi thiền tịnh hóa thân khẩu ý, chưa bao giờ dạy người ta làm chuyện xấu, truyền pháp không lấy tiền, không phê bình người khác bậy bạ, làm sao là ma cho được! Chú đốt sách, phê bình người khác như vậy mới là hành vi của ma quỷ. Thầy nào dạy chú như vậy? Một vị thầy mà dạy dỗ đệ tử như vậy mới thật sự là ma!” Nói xong ông bắt đầu dọn sách lên xe. Người thanh niên giận quá định đánh đạo trưởng. May thay lúc đó có nhiều người ở bên cạnh giữ anh lại, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục chửi bới. Đạo trưởng mới chỉ vào mặt anh nói rằng: “Chú có gan thì kêu sư phụ của chú ra đây. Nếu cũng hung dữ như chú thì tôi sẽ vẽ bùa đem đốt trước mặt “Công Bá Tánh” (miếu cô hồn). Nếu muốn lấy mạng sư phụ chú thì chỉ ba ngày là đủ, còn chú thì một ngày là xong!” Anh thanh niên nghe nói vậy, lửa hờn càng thêm sôi sục, nhưng lúc đó bên cạnh có một cụ già địa phương, đến gần nói với anh rằng: “Này chú, chú đừng nên xem thường, người này là chủ trì của Cung Minh Hồ. Những lời ông nói đều là thật. Ông có khả năng làm được những điều đó. Chú đừng đụng đến ông là tốt nhất. Những cuốn sách đó hãy để ông ta mang về.” Sau khi nghe những lời của cụ già, anh thanh niên đó như trái banh xì hơi, không dám mở miệng nữa. Đạo trưởng và vợ đem mấy ngàn cuons sách biếu này về đạo thất, phân phát cho những người hữu duyên, để họ có cơ hội biết đến Chân Lý mà Sư Phụ đang truyền bá. Đạo trưởng xúc động nói rằng: “Thật ra những người đó ganh với Sư Phụ. Thấy Sư Phụ càng ngày càng nổi tiếng, đệ tử càng ngày càng đông, bèn đi phỉ báng khắp nơi. Người tu hành nên đối xử ôn hòa với nhau, bao dung lẫn nhau, tu hành càng lâu tâm càng khai mở, càng độ lượng mới đúng. Vì không có pháp môn đúng đắn, không có minh sư tốt dạy dỗ, cho nên mới có những người cực đoan trong tôn giáo không dung nạp được người khác như vậy. Tuy nhiên vàng thật không sợ lửa. Nếu Sư Phụ không phải là một vị Cổ Phật đại minh sư chân chánh hạ sanh độ thế, nếu chỉ là một phụ nữ ở Formosa, lại không có bạn bè thân thuộc, không có kinh tài hậu thuẫn, làm sao có thể đứng vững giữa những đả kích phỉ báng? Càng bị tấn công Ngài càng dũng mảnh. Không những Sư Phụ nổi tiếng vang lừng tại Formosa, mà còn lan rộng khắp nơi trên thế giới. Nếu đệ tử của Ngài không thật sự đạt được lợi ích và thể nghiệm tốt từ pháp môn Ngài dạy, thì khi nghe thấy những lời phỉ báng như vậy đã hoảng sợ bỏ chạy mất hết từ lâu rồi, đâu còn hỗ trợ và tin theo Sư Phụ như vậy!” Câu Chuyện Truyền Kỳ Của Một Vị Đạo Trưởng Hồ đồng tu Nam Đầu, Formosa kể Thường trú Tây Hồ, Formosa ghi chép, Bản tin từ 41 đến 44 Trí Huệ Sẵn Có, Thiên Nhãn Khai Mở Thuở nhỏ Hồ Đạo Trưởng sống trong một gia đình rất đặc biệt. Ông nội và cha đều là những vị đạo sĩ rất nổi tiếng đương thời, tinh thông địa lý, biết vẻ bùa niệm chú, biết trừ ma đuổi quỉ. Lúc Đạo Trưởng còn nhỏ được cha truyền cho pháp thuật, thuở thiếu thời đã mở thiên nhãn, thấy được thế giới vô hình và câu thông được với chúng sanh vô hình. Suốt cả cuộc đời, Đạo Trưởng đã tốn hết công sức và tiền bạc để tìm minh sư học Đạo. Trước sau Đạo Trưởng đã thọ giáo với hai mươi vị thầy. Nhưng ông kết luận chỉ có ba vị thật sự là người đắc Đạo có lực lượng. Một vị là đệ nhất kỳ nhân của đạo gia Formosa, Tổ Sư Lưu Bội Trung, thuộc tông phái Côn Lôn Tiên. Một vị là cao tăng Phật giáo, Quảng Khâm Lão Hòa Thượng (Trong một lần thiền định, ông thấy thân thể của Quảng Khâm Lão Hòa Thượng phát ra ánh sáng màu hoàng kim dầy khoảng sáu tấc, theo lời ông nói những người có thể phát ra ánh sánh như thế đều là những bậc dị nhân đắc đạo). Còn một vị nữa chính là Thanh Hải Vô Thuợng Sư. Vào năm 1940. Tổ Sư Lưu Bội Trung thuộc phái Côn Lôn Tiên từ Đại Lục tới Formosa. Hồ Đạo Trưởng là một trong nhóm đệ tử đầu tiên của Tổ Sư, gồm hơn mười mấy người. Và lúc ông mới có mười chín tuổi. Tổ Sư Lưu Bội Trung tinh thông thiên văn địa lý, võ công, các loại pháp thuật, bốc thuốc, và thuật tàng hình. Tổ Sư có lòng từ bi cứu thế, không phân biệt giàu nghèo, dạy dỗ đệ tử hết sức nghiêm khắc. Thành Tài Ẩn Cư cứu Thế Sau khi Hồ Đạo Trưởng theo học với Tổ Sư được một năm. Một đêm, như thường lệ, thầy trò quây quần bên nhau, có một vị đệ tử viết một lá thơ thỉnh ý Tổ Sư Lưu Bội Trung. Lúc đó Tổ Sư mới bảo các đệ tử có mặt, (có khoảng chín mươi người) hãy ngồi thiền, sau đó đoán xem trong thư viết gì. Trong tất cả các đệ tử hiện diện, chỉ có Hồ Đạo Trưởng là người duy nhất nói đúng nội dung lá thư. Tổ Sư Lưu Bội Trung nghe xong, lạnh lùng nói với Đạo Trưởng rằng: "Ngươi về nhà thu xếp hành lý, ngày mai đừng đến nửa!" Ông giật mình hỏi lại: "Thưa Sư Phụ, con đã phạm phải lỗi lầm gì, mà sao bảo con đừng đến nữa?" Tổ Sư Lưu trả lời: "Sư Phụ phái ngươi ra ngoài xây một ngôi chùa mới và cứu độ chúng sanh. Người hãy ở đó và chuyên tâm tu hành, về sau sẽ rõ." Lúc bấy giờ, đệ tử thuộc phái Côn Lôn Tiên không có mấy người đi ra dựng chùa mới, vã lại qui luật rất nghiêm khắc. Thứ nhất, trong vòng ba năm không được nhận bất cứ cúng dường nào. Thứ hai, tất cả tiền lộ phí phải tự túc. Thứ ba, không được làm phiền người khác lo cơm nước cho mình, đi giúp việc phải ăn rồi mới đi. Thứ tư, không được thoái thác từ chối giúp đỡ người khác. Thứ năm, sau ba năm mới được nhận cúng dường, và lúc làm việc không được trả giá, ai cho bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu, gặp những gia đình nghèo khổ thì phải tìm cách giúp đỡ. Cho nên, lúc Tổ Sư Lưu Bội Trung còn tại thế, được rất nhiều người kính trọng, và số môn đồ cũng ngày càng nhiều. Sau khi Tổ Sư Lưu Bội Trung qua đời, Hồ Đạo Trưởng vẫn tiếp tục ở trên núi, vừa tu hành phục vụ đại chúng vừa đi khắp nơi tìm kiếm minh sư. Trước sau ông đã gặp hơn hai mươi vị thầy, lần nào cũng đều thất vọng trở về. Cuối cùng ông quyết định không lãng phí tinh thần và tiền bạc để tìm thầy nữa. Ông vào núi bế quan khoảng mười lăm năm, không màng đến thế sự. Hồ Đạo Trưởng từ nhỏ bẩm tính đơn thuần, lạc quan, thông minh, nghịch ngợm, nhưng yêu chính nghĩa, ghét sự bất công, thích giúp người bị đối đãi bất công. Ngay cả bây giờ, tuổi đã cao mà vẫn không thay đổi, thật là "Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời". Có lẽ vì bản tính như vậy nên suốt cuộc đời, ông lập một đạo thất để giúp đời, một công việc tốn nhiều công sức mà sự đền bù rất ít. Hợp Với Ma Lấy Một Trăm Đồng Trong những chuyện xảy ra trong đời ông, có những câu chuyện ông nhớ và thích kể lại, trong đó có câu chuyện "Hợp Với Ma Lấy Một Trăm Đồng" khi ông còn nhỏ. Trong làng của ông có một hồ gọi là "Thủy Quỷ Đàm", hồ này có một đám ma da thường hay phá phách, người trong làng không ai dám bén mảng đến gần. Nhất vào ban đêm, nơi đây trở thành cấm địa của người dân quê. Có một đêm, dân làng tụ tập với nhau như thường lệ, uống trà nói chuyện gẩu. Họ kể cho nhau những câu chuyện về ma. Có một phú ông nói rằng: "Ai dám đi tới Thủy Quỳ Đàm hái lá cây sung ở nơi đó đem về, thì mỗi lá tôi cho năm cắc." Người dân làng đương nhiên là không dám mạo hiểm (vào thời đó người Nhật cai trị Formosa, và năm cắc lúc đó có giá trị rất lớn). Đạo trưởng vì lúc nhỏ thường hay tiếp xúc với chúng sinh vô hình, cho nên không sợ ma, ông liền nói với ông phú hộ: "Ông dám hứa chắc không?" Ông phú hộ trả lời liền: "Đương nhiên!" Hồ đạo trưởng liền đi đến Thủy Quỷ Đàm, quyết hái lá cây sung ở nơi ấy. Khi đến nơi, ông thấy rất nhiều ma da đang tụ tập tại đây. Đạo trưởng mới nói: "Đêm nay tôi đến đây để hái lá sung, vì một người dân trong làng nói rằng, hái một lá thì được thưởng năm cắc, cho nên xin quý vị giúp đỡ cho tôi. Cây này cao quá, tôi lại nhỏ, hái không tới, quý vị giúp kéo cành cây xuống cho tôi hái, ngày mai có tiền tôi sẽ mua nhiều tiền giấy và bánh kẹo đến để đãi quý vị." Thế là ông cùng với ma kiếm được trên một trăm đồng bạc. Đây là một số tiền khó quên trong cuộc đời "bần đạo" của ông, nhất là trong lúc ông chỉ mới hơn mười tuổi. Lòng Nghĩa Hiệp Đuổi Khách Gian Hùng Lúc nhỏ, nhà của đạo trưởng thường hay có khách giang hồ đến thăm. Người tốt kẻ xấu, ai cũng có thể đến nhà. Một ngày nọ, có một người khách từ Đại Lục sang, gọi là "Đường Sơn Khách", người này là một cao thủ chuyên dùng độc. Trong thời gian ông khách này sống tại nhà đạo sĩ, thường đi đến những tửu lầu, tìm những cô kỷ nữ để hạ độc. Ông chờ cơ hội bỏ chất độc vào khăn mặt của họ, khiến cho những người này vô tình dùng khăn lau mặt rồi bị nhiễm độc. Khi mặt của họ bắt đầu lở loét, ông mới đi rao lên rằng ông có thể chữa được chứng bệnh ấy, ai muốn chữa thì đến tìm ông. Những người kỷ nữ dựa vào nhan sắc để lôi cuốn người khác, nếu dung nhan bị tàn phá, họ rất lo sợ, nên dù tốn bao nhiêu tiền họ cũng chịu. Dần dần về sau, mọi người đều biết đây là quỷ kế của tên Đường Sơn khách bày ra để kiếm tiền, nhưng ai cũng sợ hắn ta hạ độc nên chỉ rủa thầm sau lưng mà thôi. Vì tên Đường Sơn khách ở trong nhà của đạo trưởng, cho nên gia đình của đạo trưởng cũng bị liên lụy tai tiếng. Có một ngày, đạo trưởng chịu không được nên mới hỏi cha: "Ông bác sống trong nhà chúng ta lòng dạ rất xấu, ra ngoài hại người để kiếm tiền, tại sao lại để ông ta sống trong nhà mình?" Cha ông bèn trả lời một cách miễn cưỡng rằng: "Cha không biết ông ta làm những chuyện như thế. Hỏi ông, ông không nhận. Cha cũng không thể đuổi một người bạn mà không có bằng chứng." Sau đó, đạo trưởng bắt đầu lén theo dõi ông Đường Sơn khách về sự bí mật trong việc hốt thuốc và chế thuốc giải. Khi học xong, đạo trưởng thường ở nhà đợi những kỷ nữ đến xin chữa trị, thì tự bốc thuốc miễn phí cho họ, không cho ông Đường Sơn khách biết. Ông Đường Sơn khách vì không kiếm được tiền, nên chẳng bao lâu sau đó cũng bỏ đi. Sư Phụ có lần nói một cách dí dỏm rằng: "Khen tặng người khác không cần thiết cũng là một cách cho thuốc độc, đầu độc lòng khiêm tốn của người ta, khiến cho lòng kiêu ngạo và ngã chấp của họ nổi lên, rồi cuối cùng lại làm phiền đến Tôi phải đi giải độc." Cho nên, Sư Phụ yêu cầu đồng tu đừng làm giống như người thế tục bên ngoài, khen qua, khen lại. Lẽ ra phải bảo vệ cho nhau mới đúng! Sau này, đồng tu Tây Hồ thấy đồng tu nào hay nói chuyện ngọt ngào, thích khen người, thường ghẹo họ và phong cho họ là đàm chủ của "Đàm Độc Long". Sư Phụ Báo Trước Đến Thăm Đạo Thất Ba Lần Vào năm 1989, vài tháng sau khi đạo trưởng gặp Sư Phụ lần đầu, trong một lần thiền định, ông lại một lần nữa thấy được hóa thân Sư Phụ. Trong thiền, ông nói với Sư Phụ bao giờ có thời giờ xin mời đến thăm ông, Sư Phụ nói: "Nội trong ba ngày ta sẽ đến thăm ngươi." Quả nhiên đến ngày thứ hai, Sư Phụ dẫn một đoàn đệ tử xuất gia cùng đi gặp ông. Hôm ấy, đúng vào lúc đạo thất của ông có rất nhiều khách. Khi thấy Sư Phụ đột nhiên giá lâm, ông hết sức kinh ngạc, vội vàng tiễn những vị khách trong nhà đi để tiếp Sư Phụ cùng đoàn tùy tùng hơn ba mươi vị xuất gia. Bắt đầu từ năm ấy, Sư Phụ chính thức công khai giảng kinh, hoằng pháp, số người theo Sư Phụ tu hành cũng gia tăng nhanh chóng, nhưng Hồ đạo trưởng lúc đó vẫn chưa chính thức thọ Tâm Ấn. Mấy tháng sau lúc Sư Phụ đến thăm đạo trưởng tại Cung Minh Hồ vào lần thứ ba. Khi ông gặp Sư Phụ liền hỏi: "Mấy hôm trước trong khi tọa thiền, tôi thấy hóa thân Sư Phụ nói vài hôm nữa sẽ đến, tôi hỏi vào khoảng lúc nào? Hóa thân Sư Phụ cười xua tay không đáp, nên lần này tôi không biết khi nào Sư Phụ sẽ đến." Sư Phụ trả lời: "Ta muốn cho ngươi biết thì ngươi biết! Không muốn cho ngươi biết, thì ngươi không biết. Tại sao lần nào cũng phải nói trước cho mọi người nghe!" Mọi người hiện diện đều cười rộ. Nhân Duyên Chín Mùi Gia Nhập Phật Môn Không lâu sau sau khi Sư Phụ thăm viếng lần thứ ba Cung Minh Hồ của đạo trưởng, trong một hoàn cảnh không chuẩn bị trước, ông đã chính thức thọ Tâm Ấn. Đạo tràng Tây Hồ vào những ngày sơ khởi, ngoài đồng tu ra, không mở cửa cho khách thập phương. Sư Phụ làm như vậy để bảo vệ bầu không khí thanh tịnh cho đạo tràng, giúp cho đồng tu khi đến cộng tu tọa thiền được chuyên tâm, nhận được lực gia trì tốt. Sư Phụ không muốn đạo tràng biến thành một nơi ngoạn cảnh như các chùa chiền bên ngoài, đông du khách hiếu kỳ dạo tới dạo lui, làm đạo tràng bị ô nhiễm bởi bầu không khí ăn thịt, uống rượu, và hút thuốc, như thế đồng tu làm sao an ổn tọa thiền. Nhưng công chúng tại Formosa đã sẵn có quan niệm không đúng về các trung tâm tu hành. Họ không biết tôn trọng bầu không khí tu hành thanh tịnh của đạo tràng. Cho nên đạo tràng Tây Hồ mới quyết định đặt ra quy luật không cho người ngoài viếng thăm. Vì thế đã tạo nên sự ngộ nhận từ một số người bên ngoài và thân nhân của đồng tu. Họ cho rằng nơi đây chắc có gì bí mật không thể tiết lộ công khai. Để tránh những ngộ nhận vô cớ ấy, Sư Phụ đã cho mở cửa đạo tràng và khách bên ngoài được đến thăm vào ngày Chủ Nhật. Đạo tràng mở cửa được ít lâu, có một ngày Chủ Nhật, đạo trưởng cùng vài đồng tu đến Tây Hồ thăm Sư Phụ. Đúng vào ngày hôm ấy, Sư Phụ cho tổ chức lễ Truyền Tâm Ấn. Một đồng tu khuyên ông hãy nhân cơ hội quý báu này ghi danh thọ pháp. Ông lúc ấy chưa chuẩn bị gì hết, trên người chỉ mang theo $5.000 tiền Formosa, cho nên ông nói với vị đồng tu: "Chết chưa! Tôi không biết là hôm nay có thể làm lễ bái sư thọ Tâm Ấn, cho nên không chuẩn bị tiền cúng dường." Đồng tu cười trả lời: "Sư Phụ truyền Tâm Ấn cho đệ tử, xưa nay chưa bao giờ nhận bao lì xì (tiền)." Ông nghe rồi vẫn không tin, bèn đi dọ hỏi các đồng tu khác cho rõ hư thực? Lẽ dĩ nhiên câu trả lời là thật như vậy. Lúc đó, ông mới an tâm đến ghi danh. (Theo lời đạo trưởng trong suốt cuộc đời ông đã bái sư hơn hai mươi lần, chỉ có tổ sư Con Lôn Tiên Lưu Bội Trọng và Sư Phụ Thanh Hải truyền pháp cho đệ tử là không nhận bao lì xì (phục vụ miễn phí). Thấy Thiên Cơ Khóc Cho Thầy Ngày thọ Tâm Ấn, các đệ tử đến cầu pháp đều ngồi chờ Sư Phụ tại nơi truyền pháp. Lúc đó đạo trưởng cũng nhắm mắt tọa thiền ngồi chờ với mọi người. Đột nhiên ông thấy một cảnh giới kiến ông đau lòng rơi nước mắt. Ông nhìn thấy Sư Phụ vì truyền Tâm Ấn, gánh vác nghiệp chướng cho đệ tử, khiến những oan gia nợ chủ của những người đến thọ pháp này xuất hiện đánh đập hóa thân của Sư Phụ bầm tím, chết đi, sống lại. Đạo trưởng nhìn thấy, không cầm lòng được liền muốn ra tay giúp đõ, nhưng Sư Phụ cản ông mà nói rằng: "Đây là điều Ta phải làm cho đệ tử, ngươi đừng xen vào." Đạo trưởng chỉ còn biết ngồi đó nhìn Sư Phụ bị đánh đập. Đạo trưởng nói rằng trong suốt cuộc đời, ông rất ít khi khóc. Ngay cả lúc cha ông qua đời, ông cũng không nhỏ một giot lệ. Nhưng lần này trong lúc thiền, ông đã khóc hơn một tiếng đồng hồ. Cho đến khi Sư Phụ đến hội trường, mọi người vỗ tay đón tiếp Sư Phụ, ông vẫn không biết, nước mắt ông vẫn tiếp tục rơi. Đến khi Sư Phụ đi ngang qua bên cạch ông, vỗ vai ông nói: "Sao ngươi khóc thê thảm như thế? Đừng khóc nữa." Lúc đó ông mới giật mình ngừng khóc. Sau khi truyền pháp xong, Sư Phụ tung quà gia trì cho đồng tu. Mấy trăm người lúc ấy đều lo chụp lấy những phần quà gia trì của Sư Phụ. Lúc đó đạo trưởng nhìn thấy nhiều người giành giựt gói quà gia trì, ông không sao hiểu nổi. Ông nghĩ không biết quà gia trì là gì, cũng không biết tại sao những hạt bắp trong túi chẳng ngọt ngào và cũng chẳng có mùi vị gì, lại quý như thế? Ông cảm thấy tò mò nên mới nhắm mắt "xem xét" thử. Khi vừa mới nhắm mắt, ông liền thấy Văn Thù Bồ Tát đang ngồi trên bửu tọa của Ngài, dùng tay phát hào quang gia trì nơi phát bắp. Những hạt bắp được gia trì đều phát ra những tia hào quang màu trắng. Lúc đó ông mới hiểu rõ "quà gia trì" là gì và cũng hiểu tại sao đồng tu lại quý và giành nhau lấy gói bắp rang như những kho tàng như vậy. Rồi không để lỡ cơ hội này, ông cũng nhào vô chụp lấy những gói bắp gia trì đang bay trên không. Có lẽ thần thông ông quảng đại, hoặc là do "lòng tham lam" bất khả tư nghị của ông nổi dậy, nếu không làm sao một ông già hơn sáu mươi tuổi, chưa bao giờ có kinh nghiệm giành quà gia trì, cuối cùng lại nhẹ nhàng chụp được hai gói?! Từ khi đạo trưởng thọ Tâm Ấn, ông tu hành rất chăm chỉ. Đồng thời ông cũng thường tỏ ra hết sức kính trọng những lời dạy dỗ của tổ sư Lưu Bội Trọng. Nếu không có tổ sư nói trước thiên cơ, an bài cho ông lên núi tu hành, ngày nay làm sao gặp được Sư Phụ Thanh Hải, lại còn nhận được Pháp môn Quán Âm vô thượng?! Ông cho biết hai vị Sư Phụ mà ông được gặp này là thật sự có bản lãnh, và cũng thật lòng dạy dỗ đệ tử vô điều kiện. (Xem tiếp phần 2) BMD 782 The Merits of Turning Back to Goodness Có một người kia, hãy gọi anh ta là A Cheng. Sau khi cha mẹ qua đời, anh thừa hưởng một gia tài lớn. Nhưng anh rất tử tế, rộng lượng. Người nào đến mượn tiền, anh không bao giờ từ chối. Cho nên nhiều người nợ anh nhiều lắm, nhưng không ai trả. Anh cũng không thèm đi đòi tiền lại. Trong bụng anh nhủ thầm tiền đó coi như là tặng thay vì cho người ta mượn. Số tiền anh cho mượn không bao giờ trở lại. Vì anh rộng rãi quá, cứ cho tiền ra hoài mà không ai trả đồng nào. Cuối cùng anh túng quẩn. Sau khi bị phá sản, thì những người vay tiền anh hồi trước biến đâu mất hết. Họ không bao giờ trở lại gặp anh. Họ cũng biết anh sẽ không đòi tiền lại. Nên họ yên lặng giống như là chưa bao giờ mượn tiền anh cả. Ngoại trừ một ông ngư phủ. Ngư phủ là người đánh cá. Chỉ có ông ngư phủ nầy thú nhận là có mượn tiền của anh này, những vì nghèo quá nên thật tình ông ta không có tiền để trả. Nhưng mỗi lần đi đánh cá, nếu có bắt được con rùa nào là ông mang đến cho A Cheng, vì rùa rất hiếm. Ông ta mang về nấu cho anh kia ăn. Tuy nhiên, một bữa nọ, ngư ông bắt được một con thật lớn. Nó rất đẹp; mai của nó rất đẹp. Mai rùa bóng láng và rất đẹp, như là có ai đánh bóng, chăm sóc nó chu đáo, thoa dầu làm cho nó thật là đẹp. Trên đầu nó có một chấm trắng. Loại rùa hiếm có này chưa hề thấy bao giờ. Mai của nó rất có màu sắc, óng ánh, đầy những đường nét đẹp vô cùng. A Cheng có cảm giác là rùa này không phải rùa bình thường, và anh không nên ăn. Thế là anh thả nó tự do, rồi cũng quên hẳn chuyện đó. Anh vẫn nghèo lắm nhưng cảm thấy không sao cả. Một ngày kia, A Cheng đang đi bộ trên đường. Đó là một đường đê hẹp chỉ đi được một người thổi. Anh đang đi vừa ngắm phong cảnh. Bỗng nhiên nhiều người đang từ phía bên kia đi tới. Người trưởng nhóm trong hung hãn lắm. Ông ta ra lệnh cho thuộc cấp bảo A Cheng phải nhường đường cho họ. Không cần biết A Cheng phải bò, miễn là ông qua trước. A Cheng không nhường, vì thái độ thô lỗ của người đàn ông kia làm anh tức tối. Anh nói: “Tôi sẽ không tránh ra, coi ông làm gì tôi.” Tên trưởng nhóm rất giận dữ, ra lệnh cho thuộc hạ bắt A Cheng và đánh đập anh ta. Nhưng trước khi đánh A Cheng, ông muốn biết tên của người liều mạng không biết sợ một kẻ dữ tợn như ông. Ông ta hỏi tên anh là gì. Anh nói: “Tôi là A Cheng. Tôi sống ở đây.” Anh không sợ. Nói tên mình ra một cách thách thức. Vì anh anh không làm gì sai cả. Bỗng nhiên, người kia trông rất giàu có, cung cách có vẻ vương giả ra lệnh cho thuộc hạ ngừng tay, sau khi nghe thấy tên A Cheng. Ông ta cung kính quỳ xuống nói: “Ô! Là anh, vị ân nhân của tôi. Thật xin lỗi, thật xin lỗi. Tôi mới đi họp xong, trong buổi họp, một số người đã làm tôi tức giận. Không ai đồng ý với tôi. Họ còn chống tôi nữa, làm tôi bực quá, cho nên tôi mới nỗi giận khi nhìn thấy anh. Anh là ân nhân của tôi thì sao tôi dám hại anh. Thành thật xin lỗi.” A Cheng không biết sao người đàn ông này lại gọi mình là ân nhân, anh cũng không nói gì nhiều. Chỉ nói: “Thôi không sao vì ông đã biết lỗi.” Rồi nhân vật quan trọng này nói: “Tôi là hoàng tử thứ tám của Long Vương. Tôi rất là quyền lực, bây giờ tôi muốn đền đáp ân huệ của anh. Tôi có viên ngọc trai, nếu anh đeo nó vào người, anh sẽ nhìn thấy xuyên qua nước xuống tận đáy biển. Anh nhìn được sâu dưới đất và tìm thấy mọi kho tàng dưới đó. Anh sẽ nhìn thấy và biết được bất cứ gì cất giấu dưới đó. Anh có thể trở nên giàu có, không phải nghèo nàn như vậy nữa.” Nói xong, ông ta bấm A Cheng một cái. A Cheng kêu: “Á! Á!” Rồi hoàng từ cúi đầu giả biệt A Cheng trước khi trở lại long cung. A Cheng vẫn còn bối rối về những gì đã xảy ra. Tuy nhiên, sau khi đi vài bước, anh thấy một viên ngọc trai sáng rực rỡ, rất lớn, nằm dưới đất. Anh đào đất lên, đào sâu hơn một chút và lấy được viên ngọc trai. Anh sung sướng quá mang viên ngọc đó về bán lấy tiền sinh sống. Về sau, bất cứ đi đâu anh cũng thấy kho tàng. Anh đào được rất nhiều thứ dưới đất. Sau đó mua được nhiều nhà, căn nào cũng trang hoàng tuyệt đẹp. Anh trở thành tỷ phú. Một hôm, anh đào lên được một chiếc gương rất đẹp. Chiếc gương này rất đặc biệt, nếu một mỹ nhân soi gương đó dung nhan xinh đẹp của nàng sẽ giữ lại bên trong và không biến mất cho đến khi một mỹ nhân khác soi gương, rồi dung nhan của nàng sẽ được giữ lại đó. Nghe giống như máy quay phim hay máy chụp hình, phải không? Hình như thời Trung Hoa cổ xưa họ đã có máy chụp hình. Sau khi thấy chiếc gương, anh mê vẻ đẹp của nó quá nên quyết định giữ làm gia bảo. Không bán mà cũng không cho ai. Chỉ có anh mới biết bí ẩn tuyệt vời nầy. Một hôm anh được biết nàng công chúa nước đó sắp sửa đến làng bên du ngoạn. Nơi đó có một suối nước ấm và phong cảnh rất đẹp. Công chúa muốn tắm ở đó và thưởng ngoạn phong cảnh. Mọi người ở quốc gia kế cận ai cũng nói rằng công chúa đó vô cùng xinh đẹp. Ai nhìn thấy nhất định sẽ tương tư. Chưa bao giờ có mỹ nhân nào mà đẹp như vậy. Anh nghe nói ngày nào đó công chúa sẽ đến nơi đó. Nên anh trốn gần con suối nơi công chúa sẽ tắm, rồi anh dùng tấm gương thâu hình ảnh của nàng. Tấm gương thâu hình nàng xông, anh đem về nhìn gương mỗi ngày. Dần dần sinh bệnh tương tư. Nhưng anh không thể làm gì hơn. Sau khi công chúa trở về, có người báo cho vua hay rằng một môn sinh đã thu hình công chúa và mỗi ngày nhìn nàng ở nhà. Đó là điều xúc phạm hoàng gia. Nghe vậy nhà vua giận quá. Tên này thật cả gan. “Bắt hắn!” Sau khi bắt anh ta, vua hỏi có đúng là anh đã làm điều đó không. Anh trả lời: “Thưa phải, hạ thần có làm. Nhung bệ hạ giết thần cũng chẳng ích gì. Nếu bệ hạ tha cho thần, thần có tấm gương nầy, có viên ngọc trai, thần có thể nhìn thấy tất cả những kho báu dưới đất, thần sẽ mang về cho bệ hạ, và bệ hạ sẽ giầu hơn nữa.” Nhà vua không thèm nghe. Ông giầu rồi, gạt qua lời đề nghị của anh ta, hét lớn: “Không! Người xúc phạm đến công chúa, ta phải giết ngươi. Ngươi sẽ bị xử trảm ngay tức khắc.” A Cheng tiếp tục năn nỉ, đưa ra nhiều lý do. Nhà vua nguôi giận, đỡ giận nhiều lắm, vô phòng uống một ly Cô-ca Cô-la hay gì đó cho nó dịu xuống. Có thể đó là nước trái cây. Nhà vua gặp công chúa ở đó. Công chúa quỳ xuống, xin vua cha đừng giết A Cheng. Vua hỏi nàng sao lại tha cho hắn. Thật ra công chúa đã lén nhìn A Cheng rồi, biết anh ngưỡng mộ nàng từ lâu, nên mới liều mạng chụp hình nàng như vậy. Kết quả là anh sẽ bị xử tử, nên nàng đến nhìn mặt anh. Một cảm giác rung động chợt đến. Nàng lén nhìn thì thấy anh khá khôi ngô, thích hợp với lý tưởng của nàng. Quý vị nên biết rằng công chúa ít khi được ra ngoài gặp gỡ ai. Ra ngoài là phải che mặt lại và nhiều cận vệ chung quanh. Xuống xe ngựa là phải vào trong lập tức. Không thể trà trộn với người ngoài hay là gặp đàn ông. Đa số đàn ông nàng gặp trong triều đều có vợ, chỉ người xấu trai mới được vào hoàng cung. Hầu hết các vua đều sợ các vị quan tuấn tú, chỉ có thái giám mới được ở đó. Cho nên công chúa không được gặp nhiều người. Có lẽ họ có duyên nhìn nhau là đã thương rồi. Cho nên nàng năn nỉ nhà vua đừng giết. Có một chuyện tương tự như vậy ở Âu Lạc (Việt Nam) nhưng hơi khác một chút. Nhà vua nói: “Sao con muốn cha tha cho nó? Nó xúc phạm đến con, ta phải giết nó.” Công chúa nói giết anh ta cũng không có lợi gì, vì anh ta đã thấy nàng rồi. Mới đầu, hồi xưa, nếu một người nam thấy một cô gái, thì người đó phải kết hôn với cô ta, nhất là thấy lúc nàng tắm. Anh ta nhất định phải cưới nàng. Một cái nhìn trộm cũng không được. Ồ! Nếu phụ vương không cho con kết hôn với chàng, người ta sẽ nhạo báng con.” Nhà vua nói: “Ta không cần biết nhạo báng gì cả, ta sẽ giết bất cứ ai xúc phạm công chúa của ta.” Vì công chúa đã yêu chàng, nên nàng cương quyết nói: “Nếu cha không cho con kết hôn với chàng, con sẽ nhịn ăn cho đến chết.” Nàng thật sự đã nhịn ăn, thật sự làm những gì nàng nói. Nhà vua không tin nàng sẽ làm như vậy nhưng ông cũng có phần lo lắng. Nên ông hoãn việc xử tử, tạm đình chỉ vài ngày. Rồi cho người âm thầm theo giỏi công chúa. Thật đúng như vậy, công chúa không ăn, không uống, như đã thể. Giống như người đã ở Âu Lạc đã làm. Không ăn, không uống gì cả, thời gian ngắn sau, nàng trở nên gầy gò và lâm bệnh. Ngự y cũng phải bó tay. Nhà vua chỉ có một công chúa. Dĩ nhiên nàng muốn gì ông cũng cho. Ông chưa bao giờ từ chối bất cứ lời yêu cầu gì của nàng. Chỉ cần nũng nịu một chút là cái gì muốn cũng được. “Phụ hoàng ơi! Con muốn cái này! Con muốn cái kia!” Sao có thể để nàng chết được? Cuối cùng nhà vua nhượng bộ và gã nàng cho Ả Cheng. Rồi! nhà vua ưng thuận. Thế là A Cheng về nhà, bảo người làm mỗi người mang một hủ lớn đầy vàng bạc, châu báu, kim cương, đủ các báo vật. Một trăm người, mỗi người bê một hủ, đến hoàng cung làm quà hứa hôn dâng lên cho vua. Nhà vừa nhìn anh, một chàng rể thật là giàu có. Ông hài lòng lắm. Được, tốt, tốt! Hôn lễ linh đình, chàng và nàng sống bên nhau trăm năm hạnh phúc. Một ngày nọ, hoàng tử thứ tám của Long Vương trở lại thăm Ạ Cheng. Thầy A Cheng, ông vui mừng cúi đầu chào, rồi nói: “Thưa ngài, bây giờ ngài không cần viên ngọc trai của tôi nữa, tôi lấy lại được không?” Nói xong, hoàng tử bấm anh kia một cái, cũng chỗ đó. Rồi hoàng tử đi mất. Từ đó trở đi, A Cheng không thấy được dưới mặt đất cũng như dưới mặt nước. Hết thấy được, nhưng thật ra cũng chằng cần. Phải không? Anh ta có vợ đẹp và giàu có như vậy, cần gì nữa, phải không? Câu Chuyện Thần Kỳ Của Đàn Anh Hắc Đạo "Tí Què" Ngô đồng tu Đài Nam, Formosa kể Thường trú Tây Hồ, Formosa ghi chép, Bản tin 48 Trong thời kỳ hoằng pháp thuở ban đầu, Sư Phụ thường dành thời giờ đến nhà tù thăm các tù nhân, an ủi và khích lệ họ trên phương diện tinh thần, cũng nhân tiện đem một số bánh kẹo phân phát cho họ. Vì sự khao khát, thỉnh cầu chúng sanh khắp nơi trên thế giới, Sư Phụ ngày càng bận rộn, thường bôn ba ở nước ngoài hoằng pháp, cho nên đã không thể thăm viếng nhà tù. Nhưng sự quan tâm của Sư Phụ đối với tù nhân vẫn không thay đổi, vì vậy Ngài đã chỉ thị đồng tu nếu có thời giờ thì thay mặt cho Sư Phụ đi thăm họ. Các đồng tu đã từng sống trong nhà giam cũng đi theo để kể lại quá trình thay đổi, hướng thiện của mình, hầu khích lệ các tù nhân. Vì vậy chúng tôi đã tìm đến Ngô sư huynh. Không ngờ khi vị sư huynh đảm trách công việc thăm tù nhân cho Ngô sư huynh biết rõ ý định của chuyến đi thăm nhà tù và nhờ Ngô sư huynh đến đó thuyết trình. Ngô sư huynh đã từ chối. Liên tiếp mấy lần sư huynh vẫn không ưng thuận. Sư huynh sợ sau khi thuyết trình trong nhà tù, vạn nhất sau này phải trở lại giang hồ, sẽ bị người ta chê cười mất mặt. Sư huynh đã viện mọi lý lẽ để từ chối như là rất mắc cở khi nói chuyện trước đám đông. Sư huynh đảm trách công việc thăm tù nhân đành báo cáo với Sư Phụ. Sư Phụ thấy sư huynh không biết quý trọng công việc thiêng liêng nầy, bèn cho người nói với sư huynh rằng: "Đây là dịp may lần cuối cùng trong suốt đời sư huynh để làm công việc như vậy. Sư huynh phải nắm lấy cơ hội tốt nầy, đừng quên sứ mạng của mình. Trong lúc làm việc phải khiêm tốn, tuyệt đối không được ngạo mạn." Nhận được chỉ thị của Sư Phụ, sư huynh không dám từ chối nữa. Để hoàn tất công việc cho tốt, tập thuyết trình cho quen trước công chúng, sư huynh thường nhờ vợ con làm thính giả. Nhưng mỗi lần nói xong, phản ứng mà sư huynh nhận được đều là: “Khó nghe quá!” Sau mấy lần như vậy, sư huynh cũng không nở hành hạ vợ con nữa, đành đợi đến lúc nửa đêm vắng người, âm thầm tập trước cột điện trước nhà, có thời giờ thì ở nhà tọa thiền, cầu Sư Phụ gia trì ban cho nguồn cảm hứng. Có một ngày sư huynh cảm thấy thất bại quá, bèn phàn nàn với vợ: “Đến bây giờ vẫn chưa tập xong, anh không muốn đi nữa!” Nghe qua, vợ sư huynh liền dạy chồng: “Đây là công việc Sư Phụ giao phó, làm sao có thể không đi được. Ngày thường thấy anh nói chuyện phiếm rất giỏi, sao bây giờ có cơ hội cho anh diễn đạt, anh lại nói không nên lời.” Vì là công việc Sư Phụ giao phó, sư huynh không dám phàn nàn nữa, mà mau mắn di tọa thiền cầu Sư Phụ giúp đỡ. Ngày hôm sau Sư huynh dám trách công việc thăm nhà tù lại đến truyền đạt chỉ thị của Sư Phụ: “Sư Phụ nói sư tỷ cũng có thể đi nhà tù phái nữ để thuyết trình.” Vợ sư huynh vừa nghe mặt đã xanh như tàu lá, cũng hồi hộp không kém sư huynh. Sáng hôm sau, Ngô sư huynh và những nhân viên làm việc đến nhà tù Đài Bắc theo đúng giờ đã hẹn. Nhân viên công tác nhà tù dẫn mọi người đến phòng khách nghĩ ngơi. Sau đó chia làm hai nhóm, một nhóm thăm nhà tù phái nam, một nhóm thăm nhà tù phái nữ. Đối với Ngô sư huynh, chuyến đi nầy gây cho anh rất nhiều cảm nghĩ. Trước đây mỗi lần đến một nhà tù, sư huynh thường đến với tư cách của một tù nhân, lần này thì anh đến với tư cách của một giảng viên cao quý. Chuyện đời biến đổi vô thường, thật khó mà biết trước. Dọc đường hồi tưởng lại những ngày trong ngục tù khi xưa, thoáng chốc đã đến địa điểm thuyết trình lúc nào không biết. Khi Ngô sư huynh lên bục giảng thuyết trình, lúc đầu các tù nhân đều nhìn sư huynh bằng cặp mắt lạnh lùng, không hoan nghênh, tiếng vỗ tay cũng như máy móc. Cả hội trường tràn ngập một bầu không khí quái lạ, dường như có một áp lực vô hình đè nặng lên người sư huynh, khiến sư huynh nói không ra lời. Sư huynh lập tức cầu Sư Phụ gia trì, rồi đầu óc sư huynh mới được ổn định. Sư huynh bình tĩnh thuật lại cặn kẻ bản thân mình trầm luân trong hắc đạo như thế nào, hướng thiện tu hành ra sao, và gặp cuối cùng đã gặp Suma Ching Hai trong trường hợp như thế nào. Sau một thời gian, không khí tại hiện trường bắt đầu thay đổi. Mọi người đều chú ý lắng nghe một cách thích thú, nét mặt trở nên thân thiện. Khi Ngô sư huynh nói xong, toàn hội trường nhiệt liệt vỗ tay, biểu lộ một sự khích lệ và đồng ý từ phía thính giả. Lúc giải tán, có người nói một cách kín đáo: “Thuyết trình hay quá!” Có người tự động giúp nhân viên công tác dọn dẹp. Vài tù nhân quen biết Ngô sư huynh đến chào anh. Có một người đến gần nói với sư huynh: “Anh Tí, sau này khi ra khám, tôi sẽ đến đạo tràng của Suma Ching Hai thăm anh.” Ngô sư huynh vui mừng nói rất hoan nghênh họ. Sau khi chấm dứt buổi thuyết trình lần đầu tiên trong nhà tù, nỗi vui mừng của Ngô sư huynh thật khó diễn tả. Thật không thể tưởng tưởng được mình lại có thể hoàn tất công việc rất có ý nghĩa này một cách trôi chảy và thành công như vậy. Đối với sư huynh, đây là một thử thách bất khả tư nghị, nếu không có Sư Phụ dạy dỗ chỉ bảo, sư huynh không làm sao có dũng khí và lực lượng sửa đổi phẩm chất không thể làm việc thiện, lợi ích người khác cũa mình. Hơn nữa còn khắc phục được tính nhút nhát không dám nói trước đám đông. Điều quý hơn nữa là, trong lúc làm việc sư huynh luôn luôn cảm nhận được niềm vui đồng nhất thể với Suma, được hưởng tình thương bao la vô tư của Ngài. Chẳng hạn như khi đi thuyết trình trong nhà tù Đại Nam, ngồi trong xe nước mắt sư huynh cứ rơi mãi. Chính sư huynh cũng cảm thấy hổ thẹn, thầm nghĩ trước đây trong ngục tù, dù bị trừng phạt nghiêm khắc trong nhiều ngày cũng chưa từng rơi một giọt lệ. Tại sao bây giờ lại như vậy? Có lẽ như Sư Phụ đã từng nói, linh hồn bên trong chúng ta biết chúng ta bây giờ đi đúng đường, nên mừng quá mới khóc! Khi thuyết trình tại nhà tù Gia Nghĩa, một đồng tu khác đi theo Ngô sư huynh đã thấy một luồng ánh sáng phủ quanh người Ngô sư huynh trong lúc sư huynh thuyết trình. Trong ánh sáng đó sư huynh trông rất trẻ, và đằng sau sư huynh là hóa thân Sư Phụ.Hèn chi sư huynh thường cảm thấy rằng: Càng làm công việc lợi ích người khác, thân tâm càng sản khoái nhẹ nhõm, cảm giác tội lỗi càng tiêu tan. Thì ra hóa thân Sư Phụ luôn gia trì và rửa nghiệp cho sư huynh. Thật đúng như câu danh ngôn chí lý mà Suma thường nói: "Giúp đỡ người khác thật ra là giúp đỡ chính mình." Việc xin cho Ngô sư huynh thuyết trình tại nhà tù thiếu niên Tân Trúc đã gặp nhiều khó khăn. Đồng tu tại địa phương này nộp đơn rất lâu nhưng chưa được chấp thuận. Có một lần, trong lúc Ngô sư huynh thuyết trình tại nhà tù Hoa Liên, một vài tù nhân nói với sư huynh rằng: “Anh Tí! Buổi thuyết trình của anh cảm động quá! Anh nên đi đến Nhà Tù Thiếu Niên Tân Trúc một lần. Tình trạng bên đó rất nghiêm trọng. Anh nên kể lại câu chuyện hôm nay cho họ nghe, chúng tôi nghĩ sẽ cảm động được rất nhiều người, và sẽ thức tỉnh họ trở lại con đường tốt.” Những lời phó thác đầy tình thương của họ càng thúc đẩy sư huynh muốn đi thăm nhà tù Thiếu niên Tân Trúc. Có lẽ vì lòng thành, và cũng là sự an bài khéo léo của Sư Phụ. Môt hôm, khi anh đang thuyết trình trong nhà tù Yến Sào, thì nhằm lúc bộ trưởng bộ tư pháp Mã Anh Cửu đến thanh tra. Thấy sư huynh thuyết trình, ông bèn đến bắt tay cổ võ sư huynh một cách thân mật. Chẳng bao lâu, đồng tu Tân Trúc đã nhận được hồi âm của Nhà Tù Thiếu Niên Tân Trúc, cho họ đến thuyết trình. Thì ra bộ trưởng Mã Anh Cửu đã đích thân gọi điện thoại cho nhà tù Thiếu Niên Tân Trúc, chỉ thị họ mời Ngô sư huynh đến thuyết trình. Cũng may là chính phủ Formosa anh minh, và thật sự quan tâm đến các tù nhân. Nhờ vậy những thiếu niên lầm đường lạc lối mới có phước báu kết duyên với một vị minh sư tại thế. Ngô sư huynh đã đi một lượt khắp các nhà tù toàn quốc thuyết trình. Đối với một người hay bị say xe như sư huynh, đi đường xa quả thật rất khó chịu. Thêm vào đó, bệnh cũ có khi tái phát, nên càng cảm thấy mệt mỏi. Có một lần đi thuyết trình tại nhà tù Nghi Lan, Sư huynh đã thầm phàn nàn là mệt quá. Tuy nhiên, lúc trên xe, anh nghe một vị sư huynh kể lại tình cảnh Sư Phụ khi còn đi lang thang hoằng pháp khắp nơi vào lúc ban đầu. Lúc đó Sư Phụ vì muốn cứu độ chúng sanh, ngay một đạo tràng để an cư hoằng pháp cũng không có, mà phải dựng lều khắp nơi. Sư huynh nghe cảm động đến rơi nước mắt, không còn phàn nàn trong lòng nữa. Ngô sư huynh trước sau đã thuyết trình tại các nhà tù Đài Bắc, Đào Viên, Cao Hùng, Yến Sào, Gia Nghĩa, Đài Nam, Nghi Lan, Hoa Liên, Lộc Đào, và Tân Trúc. Đi đến đâu cũng được mọi người hoan nghênh. Mỗi lần nói xong, trong lòng lại thầm nghĩ: “Cơ hội chuộc tội lần sau không biết ở đâu?” Sư huynh cảm nhận được một cách chân thật: Làm việc phụng sự cho đại chúng, làm lợi ích người khác, mới là hạnh phúc thật sự. Câu Chuyện Thần Kỳ Của Đàn Anh Hắc Đạo "Tí Què" Ngô đồng tu Đài Nam, Formosa kể Thường trú Tây Hồ, Formosa ghi chép, Bản tin 47 Tí Què họ Ngô, từ nhỏ tính tình ương ngạnh, ham thích ấu đả, khi còn đi học tại trường tiểu học, vi phạm phải tội đánh thầy nên đã bị đuổi học. Mấy chục năm trước trong xã hội nông thôn bảo thủ, đây là một hành vi phạm thượng rất nặng. Mười mấy tuổi đã bắt đầu xông vào trong hắc đạo, mỗi ngày đều sống trong sự chém giết. Vài năm sau nhờ tính tình hung bạo tàn ác mà đảm trách công việc bảo vệ các chốn về đêm, gồm các quầy rượu và quán cà phê, sống bằng số tiền bảo vệ. Trong lúc này, hắn cùng với một người bạn giết chết một thiếu tá hải quân lục chiến, nên đã bị mười mấy năm tù. Trong tù hắn không biết hối cải, thường hay đánh lộn, gây chuyện, không phục tùng nhân viên giáo huấn, hành vi bất hảo, cho nên không được phóng thích sớm hơn bản án, trước sau đã bị giam trong các nhà tù Đài Nam, Đài Trung, Cao Hùng, Cơ Long, Bành Hồ v.v... Sau khi ra tù, hắn càng tệ hơn, dưới sự ủng hộ của nhiều anh em hắc đạo, đã bắt đầu làm chủ các sòng bài. Hàng ngày ăn uống chơi bời, cờ bạc rượu chè, sống trong sự trụy lạc. Mấy chục năm trời qua, hắn mang bệnh tật đầy mình và sắp chết. Sau đó, nhờ bạn bè giới thiệu, Tí Què đến chùa Cung Vạn Niên tại Diêm Trinh, Đài Nam lễ Phật, và bước vào đường tu hành. Lúc nào có thời giờ anh đều đến Vạn Niên Cung lễ Phật, và bước vào đường tu hành. Lúc nào có thời giờ anh đều đến Vạn Niên Cung lễ Phật, giúp đỡ trong công việc tu sửa hoàn cảnh môi sinh, chăm sóc một số hoa cỏ cây cối. Quán Âm Bồ Tát Thị Hiện Báo Trước Minh Sư Sẽ Đến Mấy năm sau, vào một buổi chiều nọ cũng như lần trước, anh đi Cung vạn Niên cầu nguyện, bông trước mặt anh xuất hiện một luồng ánh sáng màu trắng. Nhìn kỹ lại là Quán Âm Phật Tổ hiện hình. Ngài nói với anh rằng: "Ngộ đệ tử, nhiều năm qua con rất thành tâm hướng thiện tu hành, Ta rất mừng. Hôm nay đặc biệt đến chỉ thị con một điều này, con phải ghi nhớ chớ quên. Sang năm sẽ có một vị pháp sư từ nước ngoài đến, là người nữ. Ngài sẽ giảng kinh thuyết pháp. Ngài là một vị minh sư chân chánh, và cũng là Sư Phụ tương lai của con, con phải cố gắng nắm lấy cơ hội chớ quên lời ta dặn!" Sau đó Ngài đã biến mất. Sau khi trông thấy hiện tượng là này, anh không dám nói cho ai biết, sợ người ta cười là đầu óc anh không bình thường. Quả nhiên, như lời tiên đoán, qua đến năm sau, Sư Phụ bắt đầu hoằng pháp khắp nơi tại Formosa. Anh thầm nghĩ “Suma Thanh Hải này không biết có phải là vị minh sư mà Quán Âm Phật Tổ đã nói không?” Lúc Sư Phụ đến giảng kinh tại Thực Tiễn Đường ở Đài Bắc, với sự khích lệ của vợ, anh đã cùng cả gia đình đi nghe kinh. Lúc mới bắt đầu, có một nhóm người trên lầu trong hội trường vô cớ gây chuyện làm ồn. Lúc đó Sư Phụ chỉ tay vào đám người đó và nói: “Ma, ma, ma, tất cả quý vị đều là ma.” Sau khi Ngài mắng xong, nhóm người đó bỗng im bặt, không làm ồn nữa. Sự uy nghi và khí thế của Sư Phụ khiến lãng tử xông xáo trong hắc đạo quân bạt mạng nầy kinh ngạc. Nhưng điều khiến anh kinh ngạc hơn cả là gương mặt của Sư Phụ lúc đó bỗng đổi thành Thích Ca Mâu Ni Phật. Lúc bấy giờ anh đã biết Sư Phụ không phải là tầm thường, cho nên càng chăm chú lắng nghe lời khai thị của Sư Phụ. Tiếp theo đó, anh lại thấy gương mặt Sư Phụ biến thành Quán Âm Phật Tổ, Lão Tử, Văn Thù Bồ Tát, sau đó mới trở lại diện mạo của Sư Phụ. Lúc này anh mới tin chắc rằng Sư Phụ chính là vị mình sư năm trước Quán Âm Phật Tổ đã nói đến. Từ đó, anh bắt đầu theo Sư Phụ tu hành. Cả Nhà Tu Hành, Con Chó Cũng Ăn Chay Trong những ngày đầu, anh cứ bị ám ảnh bởi quá khứ bất hảo của mình, do dự mãi không dám chính thức bái sư thọ pháp, vì nghe nói sau khi thọ Tâm Ấn, Sư Phụ phải gánh nghiệp chướng cho đệ tử. Sợ tội lỗi của mình sẽ liên lụy đến Sư Phụ, cho nên sau khi vợ con đã thọ Tâm Ấn mấy tháng, anh mới mạnh dạn hỏi Sư Phụ: một người tội lỗi nặng nề như con, Sư Phụ có truyền Tâm Ấn không? Sư Phụ trả lời: “Chỉ cần anh thành tâm thực sự muốn tu hành, từ giờ trở đi giữ năm giới không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm, không uống rượu hút sách v.v.., suốt đời ăn chay, nếu làm được như vậy thì có thể đến thọ Tâm Ấn.” Sau khi Tâm Ấn, về đến nhà anh nói với con chó mà anh đã nuôi nhiều năm rằng: “Ta bây giờ đã được Sư Phụ thọ Tâm Ấn, từ nay bắt đầu ăn chay, ngươi cũng phải ăn chay.” Lạ thay, con chó nầy vốn mỗi ngày ăn cá ăn thịt, ngày thường không có thịt thì không ăn. Ngờ đâu sau khi đổi qua ăn chay, nó cũng có thể thích ứng với thức ăn chay, không có trở ngại gì cả. Ngô sư huynh lúc đó thầm nghĩ: “Ngay cả chó cũng có thể ăn chay, nếu mình không ăn được thì thật không bằng cả con chó.” Từ đó sư huynh càng quyết tâm cố gắng tu hành. Lúc đó, Ngô sư huynh có một đứa con tám tuổi, đang học lớp một. Vì Ngô sư huynh từ nhỏ không có đi học, cho nên lớn lên mới trụy lạc trong hắc đạo, cho nên đối với việc học hành của con, anh rất quan tâm. Từ tiểu học năm thứ nhất đã mướn thầy giáo tư đến nhà dạy kèm. Nhưng chẳng may đứa con cũng giống như cha, không cảm thấy hứng thú học hành, đã học một năm tiểu học mà không nhận ra số một đến số mười. Mỗi lần thi đều được chỉ năm điểm, mười điểm, nhiều lắm cùng cũng không quá 20 điểm. Thấy vậy Ngô sư huynh đau lòng, cho rằng sở dĩ con mình như vậy là vì ngày xưa mình mở sòng bạc khuyến khích người ta cờ bạc, làm tan nát rất nhiều gia đình, nên con anh giờ mới chịu khổ. Đây là sự trừng phạt mà trời đã dành cho anh. Anh nghĩ bây giờ hối hận đã quá trễ, nên chỉ biết chấp nhận vận số này. Nhưng khi đứa con lên lớp hai, bỗng thay đổi hẳn. Bài thi lúc nào cũng từ 70 đến 80 phần trăm, thậm chí nhiều khi còn lên đến 90, 100 phần trăm nữa. Thấy vậy Ngô sư huynh rất ngạc nhiên, bèn hỏi con: “Có phải con gian lận chép bài thi của người khác mới được kết quả tốt vậy?” Đứa con nói: "Không phải.” Đứa con không chịu nói, sư huynh cũng không biết làm sao. Liên tiếp mấy lần thi đều như vậy. Mặc dù trong lòng rất vui, nhưng Ngô sư huynh vẫn không tin con mình có khả năng như vậy. Có một ngày, nhân cơ hội đứa con đang vui, Ngô sư huynh bèn hỏi con vì sao thành tích bỗng khá lên, lúc bấy giờ đứa nhỏ mới cho biết rằng: “Sư Phụ ngồi hoa sen đến dạy con.” Rốt cuộc mọi việc đã sáng tỏ. Nhưng từ khi đứa nhỏ đem bí mật đó nói ra, bài vở lại trở về tình trạng cũ. Vì vậy Ngô sư huynh đã đặc biệt xin Sư Phụ giúp đỡ, để con mình có thể nghiệm tốt như khi trước. Sư Phụ nói: “Lúc thọ Tâm Ấn Sư Phụ đã đặc biệt nhắn nhủ, là sau khi tu hành bất cứ thể nghiệm bên trong bên ngoài đều không được khoe ra cho người khác biệt, nếu không thể nghiệm sẽ bị mất (trừ trường hợp Sư Phụ cho phép). Quý vị không nghe chỉ thị của Sư Phụ, bây giờ thể nghiệm không còn nữa, tự mình phải gánh lấy hậu quả, đừng trách Sư Phụ không giúp đỡ.” Ngô sư huynh đương nhiên không trách Sư Phụ. Anh chỉ tự trách mình quá lắm miệng, kêu con nói ra thể nghiệm. Nhưng vì vậy, sư huynh lại càng cảm kích Sư Phụ đã âm thầm chăm sóc con mình. Bởi vậy sau khi bàn với vợ, sư huynh quyết định cùng cả nhà dọn lại Tây Hồ thường trú, xa rời đời sống hắc đạo và để tập trung vào việc tu hành. Sau khi đến đạo tràng Tây Hồ thường trú, Ngô sư huynh đã nghĩ đến việc làm những công tác phục vụ đại chúng để đền bù những tội ác trong quá khứ. Nhưng vì không biết chữ, từ nhỏ lại không học một nghề gì. Trong mấy chục năm sống một đời sống lãng tử phiêu bạt, lại ngoài việc đánh nhau, mở sòng bạc, lên vũ trường làm quen với bạn gái, cờ bạc rượu chè, không còn biết làm gì. Đang lúc phân vân khó nghĩ, Sư Phụ đã có giải pháp đúng lúc. Sư Phụ biết Ngô sư huynh ngày xưa thích trồng cây, trồng hoa cỏ, cho nên bèn để cho Ngô sư huynh làm công tác trông coi vườn tược, mỗi ngày tưới nước, trong nôm cỏ cây, để sư huynh có việc làm, không cảm thấy chán. Vì muốn đền bù ác nghiệp đã tạo trong quá khứ, Ngô sư huynh rất chân thành và tận tâm trong việc trông nom hoa viên. Anh muốn chăm sóc vườn hoa cho thật đẹp, để Sư Phụ vui, và đồng tu khi đến sẽ có một môi trường thoải mái để tĩnh tọa tu hành. Đáp Ứng Lời Cầu Của Đệ Tử: Hóa Giải Yêu Ma Bằng Chỉ Vài Lời Lúc mới đến đạo tràng, mỗi ngày sáng sớm bốn giờ phải thức dậy ngồi thiền ba tiếng. Trước đây Ngô sư huynh quen lối sống về đêm, thói quen ngủ trễ. Và tính ưa nói chuyện phiếm vẫn chưa sửa được. Đời sống tu hành trong rừng núi, Ngô sư huynh cũng không quen. Mỗi buổi sáng thấy đồng tu yên tĩnh ngồi thiền, trong khi mình quá lắm chỉ được 15 hay 20 phút. Sau đó Ngô sư huynh tự cảm thấy xấu hổ, không dám đến đại điện cùng mọi người tọa thiền nữa, mà âm thầm tự ngồi trong lều tập. Có một ngày trong lúc tỉnh tọa, Ngô sư huynh bỗng thấy xuất hiện rất nhiều yêu ma quỷ quái, thân hình chúng dài hơn một trượng. Tất cả chúng đều muốn xé xác Ngô sư huynh thành từng mảnh nhỏ, nuốt vào trong bụng. Mặc dù trước kia làm tay anh chị trong hắc đạo, hung bạo có tiếng, ngay cả cảnh sát, nhân viên hình sự cũng dám chém giết, nhưng khi trực diện với đám ma quỷ cao lớn mắt xanh răng nanh, hơi sức gì Ngô sư huynh cũng không còn nữa! Trông thấy họ từ từ tiến đến gần, Ngô sư huynh hoảng hốt la lên: “Sư Phụ cứu con!” Vừa hét lên như vậy thì thấy một luồng ánh sáng màu trắng. Trong ánh sáng, anh thấy Sư Phụ ngồi trên tòa sen, có hai vị xuất gia đứng hai bên, từ trên trời xuống. Sư Phụ nói với đám ma quỷ đó vài lời, sau đó lấy tay chỉ một cái, đám ma quỷ biến mất hết. Ngô sư huynh lúc bấy giờ cũng tỉnh lại, toát mồ hôi lạnh đầy mình. Hồi tưởng lại tình cảnh rùng rợn vừa qua, trong lòng càng thấy hối hận. Nghĩ đến trước kia mình mở sòng bạc hại người, gây chuyện thị phi khắp nơi, khiến cha mẹ, người thân đau lòng. Bây giờ muốn buông dao đồ tể tu hành, nghiệp chướng ác nghiệt liền xuất hiện ngay. May được Sư Phụ cứu rỗi, Ngô sư huynh thầm nghĩ từ nay càng phải cố gắng, nỗ lực sửa mình hướng thiện, tu hành cho tốt để khỏi phụ lòng ân nghĩa cứu mạng của Sư Phụ. Do đó Ngô sư huynh đã thêm can đảm, quay trở lại đại điện cộng tu cùng mọi người. Mặc dù muốn tọa thiền như mọi người, nhưng thói quen tĩnh tọa đâu phải một ngày hai đêm có thể thành tựu được. Cho nên tuy trong lòng muốn yên tĩnh ngồi xuống tọa thiền, nhưng mông như mọc kim, ngồi không được, năm mười phút sau là phải đứng dậy đi dạo khắp nơi. Nhưng đi hoài tự mình cũng cảm thấy xấu hổ. Cuối cùng Ngô sư huynh đành lấy một cái thùng lật ngược lại để trong cầu tiêu, ngồi luôn trong đó, đợi giờ thiền chấm dứt mới ra. Tiến Bộ Vượt Bực Sau Khi Được Sư Phụ Tặng Trái Cây Cho đến một ngày, trong lúc Ngô sư huynh đang dọn dẹp hoa cỏ thì Sư Phụ đi qua. Thấy Ngô sư huynh đang làm việc, Ngài hái một trái cam lớn đưa cho Ngô sư huynh: “Ngô sư huynh, cái này tặng cho Ngô sư huynh. Anh phải ăn nhé!” Ngô sư huynh mừng rỡ trả lời một cách lễ phép: “Cảm ơn Sư Phụ.” Nhưng khi vừa đón lấy trái cam, Ngô sư huynh đã phải cau mày, thầm nghĩ: “Loại cam đầu cọp này chưa chín, vừa đắng vừa chua, làm sao ăn được!” Tuy nhiên, sư huynh vẫn cắt thành từng miếng, cho đường vào, nấu thành canh để uống. Đêm hôm đó, Ngô sư huynh cùng mọi người tọa thiền trong đại điện như mọi khi. Nhưng một lát sau khi mở mắt ra, trong đại điện không có lấy một người. Ngô sư huynh thầm nghĩ: “Hay là họ khinh tôi, không thích ngồi chung với tôi, đã kéo nhau đi chỗ khác thiền?” Ngô sư huynh vừa nghĩ vẩn vơ như vậy, vừa bước ra đại điện. Khi đi qua nhà bếp nhìn đồng hồ, thì ra đã mười giờ rưỡi. Ngày thường buổi tối giờ thiền là từ 7 giờ đến 9 giờ, lần nào Ngô sư huynh cùng ngồi không yên, nhìn trái ngó phải, nếu không thì trốn trong cầu tiêu. Đêm nay sao vừa ngồi xuống đã ba tiếng rưỡi, không hay biết gì cả, Ngô sư huynh không hiểu tại sao. Sáng hôm sau khi Ngô sư huynh thức dậy tọa thiền lúc 4 giờ cũng ngồi luôn đến 7 giờ. Ngô sư huynh mừng quá, không ngờ mình lại tiến bộ nhanh đến thế, trước đây 10, 20 phút còn ngồi không nỗi. Chỉ trong vòng mấy tháng đã tiến bộ đến hễ ngồi xuống là hai ba tiếng. Ngô sư huynh mới đem sự thay đổi bất khả tư nghị này nói với mấy vị đồng tu thường trú. Trong đó có một đồng tu biết Ngô sư huynh đã ăn trái cam Sư Phụ cho, nên nói rằng: “Ngô sư huynh, đừng dại dột. Sư huynh tiến bộ nhanh như vậy là vì Sư Phụ cho sư huynh ăn trái cam đó. Sau khi sư huynh ăn rồi mới được như vậy.” Lúc bấy giờ Ngô sư huynh mới hiểu. Thì ra Sư Phụ đặc biệt quan tâm và gia trì, để Ngô sư huynh càng vững niềm tin đi trên con đường tu hành. Mặc dù Ngô sư huynh nhiều lần được Phật Bồ Tát hiện hình dạy bảo gia trì, nhưng định lực tu hành vẫn chưa đủ. Có một lần trong lúc làm việc, sư huynh lại nghĩ đến đời sống thoải mái ngày xưa trong lúc còn làm đàn anh trong hắc đạo. Mỗi ngày ngủ trong khách sạn sang trọng, lái xe nhập cảng quý giá, ăn tại nhà hàng cao cấp, nhàn rỗi thì đi vũ trường khiêu vũ. Bây giờ đến đây, cứ ngủ trong rừng núi hoang dã, ngủ trong lều nhỏ, lại phải theo đủ thứ quy luật, nghĩ lại thấy mình sao ngu quá, ở trong nầy chịu khổ, mỗi ngày làm những công việc nặng nhọc. Trong lòng Ngô sư huynh thầm tính toán hôm sau về Đài Nam kiếm anh em ngày trước xong xáo dễ qua ngày hơn. Mới nghĩ như vậy, bỗng thấy Sư Phụ từ trên núi bước nhanh xuống, vừa thấy Ngô sư huynh, Sư Phụ bảo: "Ngô sư huynh, Ngô sư huynh, sư huynh đừng chạy trốn nhé!” Nghe vậy Ngô sư huynh sửng sốt, liền trả lời: “Đâu có Sư Phụ, con đâu có chạy trốn.” Sư Phụ liền nói: “Vậy tốt! Sư huynh không chạy trốn. Đó là chính sư huynh nói đó nghe!” Ngô sư huynh trả lời một cách không suy nghĩ: “Vâng, con xin hứa, con không chạy trốn.” Sau đó, Sư Phụ vội vã đi ngay. Ngô sư huynh sững sờ trước những câu vấn đáp vừa qua, tựa như một đứa nhỏ đang chuẩn bị làm việc xấu, bị cha mẹ bắt được quả tang. Một lần khác, mấy tháng sau đó, có một lần vì có chuyện hiểu lầm với sư huynh khác. Ngô sư huynh giận quá, toan thu xếp hành lý dẫn con về nhà. Lúc bấy giờ Sư Phụ đang hoằng pháp ở Mỹ, sư huynh vừa thu dọn hành lý vừa nghĩ: "Lần trước muốn rời đạo tràng, bị Sư Phụ bắt quả tang. Lần nầy Sư Phụ không có ở nhà, nhân cơ hội này ra đi, sẽ đỡ ngượng hơn. Trừ trường hợp Ngài có thiên vạn ức hóa thân, có thể hiện hình trước mặt tôi, tôi mới ở lại.” Vừa nghĩ xong, bỗng thấy con mình vứt hành lý xuống, chạy nhanh lên núi. Ngô sư huynh cũng chạy theo. Chạy được khoảng mấy chục thước, bỗng thấy phía trước dưới cây ổi lớn xuất hiện một người mặc chiếc áo bào dài, đầu đội nón trắng, tay cầm quạt, điệu bộ ung dung tao nhã, đứng ở đó nhìn Ngô sư huynh cười, thì ra là Sư Phụ. Ngô sư huynh sợ quá, cơn thịnh nộ ban nãy giờ đây đã đổi thành e lệ sám hối. Lại bị bắt quả tang! Ngô sư huynh liền chắp tay xin lỗi với Sư Phụ, nói rằng: “Sư Phụ, con xin lỗi Ngài, lần sau con không dám chạy trốn nữa.” Sư Phụ cười, sau đó đã biến mất. Ngô sư huynh tự hiểu, chỉ cần mình trở lại đời sống cũ, trước sau cũng sẽ trụy lạc trong xã hội hắc đạo, trầm luân trong bể khổ sinh tử. Một người nghiệp chướng đầy mình như Ngô sư huynh, Sư Phụ đã nhiều lần hiển linh cứu đội. Nếu Ngài không phải là một minh sư chân chánh, ai có lòng thương như vậy, ai có lực lượng có thể độ Ngô sư huynh cải tà quy chánh? Tuy biết rõ sau này sẽ còn nhiều chướng ngại cản trở mình tu hành, nhưng nghĩ đến lực lượng Sư Phụ luôn luôn ở một bên bảo hộ, trong lòng Ngô sư huynh tràn đầy niềm tin và dũng khí. Suốt mấy chục năm lăn lộn trong giới hắc đạo, Ngô sư huynh cảm thấy may mắn nhất là mình không bị kẹt trong việc hút sách. Ngô sư huynh cho biết trong ngục tù sư huynh có quen với một người bạn bị nghiện ma túy. Người bạn này vì việc nghiện thuốc đã làm tan nát một gia đình đầm ấm. Nhiều lần cai thuốc đều thất bại. Khi lên cơn ghiền, toàn thân như có hàng ngàn hàng vạn con sâu lúc nhúc trong xương, trong mạch máu, và bắp thịt, ngứa một cách khủng khiếp. Có một lần trong thời kỳ cai thuốc phiện, khi cơn ghiền phất lên, vì muốn giảm bớt đau khổ, ông bạn đã cố ý lăn từ cầu thang trên lầu hai xuống, cuối cùng đã bị gẫy tay, nhưng vẫn cai không được. Thấy vậy Ngô sư huynh sợ thuốc phiện như sợ bệnh dịch, không dám đụng tới. Ngô sư huynh cũng khuyên các bạn trẻ ngày nay: Đừng vì lòng hiếu kỳ nhất thời, hay vì muốn bày tỏ khí thế anh hùng của thiếu niên mà mắc bệnh ghiền ma túy. Cái giá phải trả quả thật quá lớn, quá khủng khiếp. Cao Thủ Thái Cực Quyền Và Chân Sư Của Thời Đại Khưu đồng tu, Miao Li, Formosa kể Thường trú Tây Hồ Formosa ghi chép, Bản tin 49 Khưu sư huynh là môn đệ xuất sắc của cao thủ Thái Cực Quyền Lưu Tích Hanh. Trong giới cảnh sát Formosa, nhiều người đã đến thọ giáo với sư huynh. Tuy sư huynh đạt được đẳng cấp võ thuật khá cao sau hơn 20 năm dầy công luyện tập, nhưng không thể siêu vượt, cho đến khi gặp được Suma Ching Hai tu Pháp Môn Quán Âm mới tiến lên đẳng cấp cao hơn. Có một lần, Sư Phụ mời Khưu sư huynh cùng nhau tập quyền. Khưu sư huynh may mắn được dịp trao đổi vài chiêu với Sư Phụ, kết quả khiến sư huynh rất kinh ngạc. Sư Phụ tuy là lần đầu tiên thử Thái Cực Quyền, nhưng bất luận trên phương diện vận khí hay chiêu thức, đều đã thấm nhuần tinh hoa của Thái Cực Quyền. Người khác dầy công luyện tập mấy chục năm chưa chắc đã có thành quả như vậy. Điều này đã khiến cao thủ võ thuật Khưu sư huynh phục sát đất, chứng tỏ vị đại sư tâm linh Suma Ching Hai quả thật là một vị cao thủ hiếm thấy trong giới võ thuật. Sư huynh từ đó càng thành tâm theo Sư Phụ tu hành, gặp ai cũng nói Pháp Môn Quán Âm mới là võ công thượng thừa. Xuất Thân Dòng Dõi Võ Thuật Khưu Sư huynh từ nhỏ sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi võ thuật, các thành viên trong gia tộc đều rất thích tập võ. Lúc thiếu thời, cha và các chú vì muốn học nhiều môn võ thuật, thường tốn rất nhiều tiền mời các cao thủ võ lâm từ Hoa Lục đến dạy. Ròng rã hơn mười năm, vì phải chi tiền sinh sống và lệ phí cho các võ sư này, tất cả gia tài mà tổ tiên để lại hầu như đã bán hết mà vẫn còn không đủ, ngay cả những người anh em kết nghĩa (cũng là sư huynh đệ) của các chú bác cũng phải bán nhà cửa mới đủ chi phí. Chính vì hoàn cảnh khó khăn như vậy, cho nên tất cả thành viên trong gia tộc đều rất kính trọng và siêng năng học võ. Trong đại viện của gia tộc, tiếng luyện võ vang lên không ngừng, như một trường võ thuật. Cha và các chú bác thường phải song đấu với nhau. Khưu sư huynh còn nhớ trong nhà có một căn phòng kín, chỉ có một động nhỏ ra vào mà thôi, cha và các chú bác thường bị ông nội hoặc thầy dạy võ gọi vào trong đó, tập đánh nhau trong phòng tối. Một đám đông người như vậy, không ai nhận ra người nào là người nào, ai đánh thua hay chịu không nỗi thì tự mình đi ra. Sự huấn luyện rất nghiêm khắc. Khưu sư huynh từ nhỏ vốn yếu đuối và thường bị bệnh. Lúc còn học tiểu học năm thứ nhứt, thường bị bệnh, một niên khoá nghĩ bệnh hết cả chục ngày, ốm yếu đến nỗi đứng ngoài nắng một lát cũng muốn xỉu. Chính vì nguyên nhân đó mà sau này đã thúc đẩy Khưu sư huynh tinh tấn hơn người khác trong việc tập võ. Lúc thiếu thời, Khưu sư huynh chuyên tập Thiếu Lâm quyền, mười bốn tuổi đổi qua tập Karate. Dưới sự huấn luyện nghiêm khắc của của vị thầy Karate người Nhật, mới đầu học viên đồng khóa khoảng 500 đến 600 người, nhưng không đầy hai tháng chỉ còn lại được một nửa. Sau một năm rưỡi, chỉ còn lại 50 người mà thôi. Trong thời kỳ huấn luyện, võ sư rất nghiêm khắc, nếu vô cớ không đến trường, ngày hôm sau trở lại sẽ bị thầy đánh bằng cây côn. Trong lúc huấn luyện, mỗi thế phải tập 500 lần, hơn nữa thường phải luyện tập đánh nhau, bị đánh đến mặt mày sưng húp là chuyện thường. Các ngón tay đều biến đổi hình dáng vì tập chặt gạch bằng tay không. Lần Đầu Tiên Biết Đến Thái Cực Quyền Trong thời kỳ học võ tại trường võ thuật, Khưu sư huynh không bao giờ vắng mặt. Sư huynh cho rằng bất luận học gì, đều phải một lòng một dạ, chuyên tâm học tập, không nên sợ khó hay thiếu lòng nhẫn nại, như vậy mới thành công. Vì thế, mới chỉ vài năm sư huynh đã lên đệ tam đẳng huyền đai. Trong thời kỳ tập võ này, sư huynh thường đi khắp các trường dạy võ ở Formosa tìm người thử tài. Năm 20 tuổi, có một ngày đến một nơi dạy Thái Cực Quyền xem người ta tập võ. Sư huynh thấy chiêu thức và đường quyền Thái Cực đều mềm mại, không có hơi sức, bèn sinh lòng khinh khi, thầm nghĩ Thái Cực Quyền có hay gì đâu, sao mọi người lại tôn sùng đến thế. Đợi đến khi vị thấy đó dạy xong, Khưu sư huynh không chịu được nữa, bèn thỉnh giáo với vị thầy Thái Cực Quyền này. Không ngờ Karate cương mãnh khi tiếp xúc với Thái Cực Quyền mềm dẻo, hơi sức như đã chìm đái biển, đều bị hóa giải thành vô hiệu lực. Tất cả chiêu thức đều bị khống chế, đã bị vị thầy Thái Cực Quyền dạy cho một bài học thích đáng. Sau trận thi thố võ nghệ này, Khưu sư huynh thua nhưng rất phục, không ngờ Thái Cực Quyền lại thâm hậu kỳ diệu như vậy, có thể lấy sức của bốn lạng phá thế ngàn cân, thật bất khả tư nghị. Sư huynh thấy vậy bèn muốn bái vị thầy Thái Cực Quyền này làm sư phụ. Thầy Thái Cực Quyền thấy sư huynh rất thành tâm, bèn nói với sư huynh rằng: “Nếu anh quả thật muốn bái sư, tôi sẽ giới thiệu anh học với sư huynh trưởng môn của tôi.” Thế là Khưu sư huynh đã bái sư thọ giáo với cao thủ hạng nhất Thái Cực Quyền, Lưu Tích Hanh. Lúc mới nhập môn, sư huynh đã được thầy Lưu ân chuẩn cho tập chung với các chú bác của thầy. Sư huynh vừa mừng vừa lo, mừng là tập với họ sẽ tiến bộ nhanh chóng, lo là Thái Cực Quyền khác hẳn với Karate. Thái Cực Quyền dùng nhu thắng cương, điều cần nhất là phải thả lỏng, nhu, mềm. Còn Karate thì lấy cương khắc cương, phải hùng mạnh, cứng rắn. Bây giờ đổi qua học Thái Cực Quyền, tất cả những gì đã học trước đây đều không sử dụng được. Đây là một điều cực kỳ khó khăn, sư huynh sợ không thể thích ứng được. Tuy nhiên chỉ cần thành tâm muốn học, khó khăn cách mấy cũng có thể khắc phục. Khưu sư huynh cho biết lúc nào cũng rất cẩn thận. Cho đến giờ sư huynh chưa bao giờ dùng qua một chiêu Karate nào trong hơn 20 năm nay, một lòng nghiên cứu sự thâm thúy của Thái Cực Quyền. Điều này y như lời khai thị của Sư Phụ: "Chúng ta tu hành, có thể tự do lựa chọn pháp môn và vị thầy mà mình cho là lý tưởng nhất, cần thiết nhất. Nhưng một khi đã quyết định học bất cứ pháp môn gì, thì phải một lòng một dạ, chuyên tâm tu tập pháp môn đó, tuyệt đối không thể một dạ hai lòng, hay hai chân trên hai chiếc thuyền, đó là thái độ tu hành không đúng đắn, lực lượng không thể tập trung. Như vậy tu hành sẽ không tiến bộ, thậm chí còn xảy ra chuyện rắc rối.” Dầy Công Luyện Tập, Thành Quả Vượt Bực Lúc bắt đầu tập với các sư thúc sư bá, sư huynh gặp rất nhiều khảo nghiệm. Có khi tập tay đôi với họ, họ cố ý ra tay rất nặng, thường xô mạnh sư huynh ngã trái ngã phải, để làm giảm bớt lòng ngạo mạn của sư huynh. Có khi cố ý nói xấu thầy của sư huynh, nói võ nghệ của thầy cũng chẳng ra gì, để xem sư huynh có giận hay không, hay có mất niềm tin mà bỏ đi tìm thầy khác hay không. Với nhiều khảo nghiệm như vậy, sư huynh càng nhất tâm. Anh cương quyết mỗi ngày dầy công luyện tập ít nhất là 13 tiếng, đắm chìm trong thế giới Thái Cực Quyền. Anh không bao giờ đi dạo phố, không bao giờ đi coi hát, hay đi ăn nhà hàng, tất cả mọi sinh hoạt, giải trí ở thế gian đều không tiếp xúc. Một năm nói không đến mấy câu. Các đồng nghiệp và người thân đều cho sư huynh là một quái nhân. Nhưng cũng chính vì vậy, chưa đầy hai năm công lực của sư huynh đã ngang hàng với các sư bá sư thúc. Và nhờ vậy cũng được thầy Lưu đặc biệt chiếu cố. Thường sau giờ học, thầy Lưu bảo các sư bá sư thúc về trước, còn sư huynh thì được ở lại để thầy đặc biệt dạy thêm, giải thích nhiều chi tiết và những điểm quan trọng, những thế đánh. Nguyên nhân không có gì, thầy Lưu cho biết: “Những đệ tử không thật sự muốn học, thầy thà không dạy. Chỉ cần anh thành tâm thật sự muốn học, thầy sẽ tận tâm hướng dẫn. Nếu không đủ thành tâm, không cố gắng, thí dụ thầy có dạy, cũng không lãnh hội được.” Điều này không khác gì lời nói của Sư Phụ: "Sư Phụ thà dạy một vài đệ tử thành tâm thật sự muốn tu hành, còn hơn lãng phí thời giờ và tinh thần để dạy cả chục ngàn đệ tử chỉ biết ồn ào náo nhiệt mà không thật sự muốn tu hành.” Quán Ậm Mới Thật Là Võ Công Thượng Thừa Sau khi sư huynh âm thầm dày công luyện tập gần 20 năm, tuy đã đạt tới một đẳng cấp rất cao. Tuy nhiên, sư huynh bị ngưng lại ở chỗ đó, không có cách nào tiến thêm một bước vượt qua được. Lúc đó sư huynh nghĩ chắc có thể nhờ vào phương pháp tu hành tịnh tọa, để siêu vượt tầng số thể xác, tiến lên tầng sổ tâm linh cao đẳng hơn. Lúc bấy giờ, có một vài pháp sư thường tự động muốn nhận sư huynh làm đệ tử, nhưng sư huynh không ưng thuận. Có một ngày, qua sự giới thiệu của người thân (đồng tu), sư huynh đọc sách Sư Phụ, vừa đọc đã rất thích, sư huynh thầm nghĩ đây mới là đạo sư tâm linh mà anh muốn tìm kiếm. Cách đó không lâu, Sư Phụ thuyết pháp trong hai ngày liên tiếp tại Kỳ Niệm Đường Quốc Phụ ở Đài Bắc. Ngày thứ nhất sư huynh đã đi dự thính, ngày thứ hai vì trong nhà có việc nên không đi được, nhưng người thân cũa sư huynh (đồng tu) nói với sư huynh rằng: “Niệm pháp hiệu của Sư Phụ rất linh.' Hôm đó, sư huynh niệm mãi pháp hiệu của Sư Phụ một cách thành tâm. Tối đến, trong lúc sư huynh đang châm cứu cho bệnh nhân, bỗng thấy Sư Phụ đang thuyết pháp trong một hội trường rất đẹp và trang nghiêm, Sư Phụ mặc quần áo màu gì, kiểu áo như thế nào, anh đều trông thấy rất rõ rệt. Thấy cảnh giới trong lúc làm việc như vậy, đối với sư huynh đây là một chuyện đáng kinh ngạc! Đợi đến khi vợ sư huynh nghe kinh xong về đến nhà, sư huynh bèn hỏi đêm hôm đó Sư Phụ mặc quần áo kiểu gì, màu sắc ra sao, và hội trường được trang trí như thế nào, kết quả không sai chút nào, y như sư huynh đã thấy. Khi sư huynh thọ Tâm Ấn để chính thức làm đệ tử của Sư Phụ, thể nghiệm rất nhiều. Sư huynh tự thấy mình kiếp này quá may mắn, học võ, tu hành đều kiếm được pháp môn và thầy tốt nhất. Sau khi Tâm Ấn không bao lâu, nhân dịp Sư Phụ tổ chức Thiền Thất, sư huynh cũng đến tham dự. Ngày thứ ba, trong lúc làm Quán Âm, sư huynh bỗng cảm thấy một lực lượng bất khả tư nghị từ sau lưng tràn lên đầu như một bánh xe lớn đang xoay hay như làn sóng biển lớn, toàn thân cảm thấy thật nhẹ nhõm, tinh thần sáng suốt vô cùng. Trước đây, tập võ luyện khí công hai mươi mấy năm, chưa bao giờ có được một phát hiện nào như vậy. Lại có một lần, Sư Phụ đào sông Cam Lồ tại đạo tràng Tây Hồ. Buổi tối ngày đầu, trong lúc ngủ, sư huynh trông thấy rất rõ rệt Sự Phụ cùng mọi người đào sông Cam Lồ. Sư huynh thấy mình cũng ở đó. Sư Phụ nói: “Đi, chúng ta lên lấy một số đá đẹp về đây.” Nói xong, Sư Phụ dẫn sư huynh và một vài thường trú đến thiên đàng tìm đá đẹp. Có một vài cục đá hình dáng đặc biệt, khi sông Cam Lồ hoàn thành, sư huynh đi tham quan hãy còn nhận ra được. Hèn chi đồng tu lấy nước Cam Lồ về uống, đã có nhiều thể nghiệm thần kỳ. Thì ra ngay cả vật liệu xây cất cũng được lấy từ cảnh giới cao đẳng trên thiên đàng. Cao Thủ Võ Lâm Núp Sau Cây khóc Một năm trước khi Khưu sư huynh đến thọ Tâm Ấn, Sư Phụ bổng rất thích tìm hiểu về võ thuật, đặc biệt là Thái Cực Quyền. Trong hơn một năm, Ngài nói mãi với các đồng tu địa phương có ai là cao thủ Thái Cực Quyền, có thể đến dạy các thường trú. Sau khi thọ Tâm Ấn, có một ngày sư huynh tự đến yêu cầu được dạy các thường trú tập võ, Sư Phụ liền chấp thuận! Cũng vì vậy sau nầy sư huynh có rất nhiều cơ hội gần gũi Sư Phụ, nhận biết Sư Phụ nhiều hơn. Theo lời thuật của sư huynh, mỗi lần nhìn thấy Sư Phụ, sư huynh đều có cảm giác vui mừng, như một đứa bé gặp lại cha mẹ đã xa cách từ lâu. Sư huynh thường cảm động đến rơi nước mắt. Mỗi lần xúc động như vậy sư huynh liền núp ở đằng sau một gốc cây khóc. Lòng tôn kính của sư huynh đối với Sư Phụ thật không thể diễn tả được. Sư Phụ từng nói về sư huynh: “Lần đầu tiên trông thấy sư huynh, mặt mày rất nghiêm nghị, dường như đã mấy năm không cười. Sau khi tu hành được mấy tháng, sát khí trong ánh mắt đã tan biến dần, và bắt đầu cười!” Sư huynh đã quên là đại trượng phu không khóc, càng tu hành càng đơn thuần như một đứa trẻ. Ngày thường sư huynh có ngày không nói một câu, nhưng khi đồng tu đến thăm, hễ nhắc đến Sư Phụ là sư huynh nói không ngừng. Khi Sư Phụ chỉ thị sư huynh dạy Thái Cực Quyền tại đạo tràng, đối với sư huynh đây là một sứ mạng thiêng liêng. Để chuyên tâm làm công việc này cho tốt, sư huynh đã bỏ hết tất cả những sinh hoạt dạy mướn ở ngoài, đem hết những gì mình đã học ra cống hiến. Khưu sư huynh cho rằng tập võ đối với việc tu hành rất có ích lợi, nhất là Thái Cực Quyền lấy nhu khắc cương, càng khác hẳn với các môn võ thuật khác, không dùng bạo lực. Luyện tập cho thân thể khoẻ mạnh, tinh thần minh mẫn, lúc ngồi thiền mới không hôn trầm, không đau lưng, như vậy mới dễ tập trung, dễ nhập định, mới có thể hưởng niềm vui của sự tọa thiền. Đối với sư huynh, Tâm Ấn là một bước chuyển quan trọng trong cuộc đời của anh, bất luận là nâng cao về đẳng cấp võ thuật, hay thay đổi về tính tình v.v... đây là niềm vui khôn tả. Về phương điện tu hành, sư huynh cũng đã từng có những thể nghiệm nội tại mà trên kinh sách ghi nhận là không thể tả được. Trong mấy năm theo Sư Phụ tu hành, điều khiến sư huynh khó quên nhất, là có một lần Sư Phụ la mắng sư huynh trước mặt mọi người tại Hồng Kông. Sư huynh kể lại rằng: “Lúc đó Sư Phụ bỗng la lớn lên, tôi giật mình nhảy ra phía sau. Phản ứng này đối với người khác có lẽ là một điều không đáng kể, nhưng đối với một người luyện Thái Cực Quyền, còn có một ý nghĩa khác.” Bấy lâu nay sư huynh tự cho mình võ nghệ cao cường, mấy người đàn ông cao lớn hợp lại cũng không cách nào xô ngã được sư huynh, nhưng bây giờ chỉ một tiếng hét, cái rễ của hai mươi mấy năm dầy công luyện tập, đã bị nhổ hẳn lên. Tiếp theo đó, Sư Phụ la mắng không ngừng, khiến sư huynh không biết phản ứng ra sao. Trong suốt cuộc đời, sư huynh chưa bao giờ bị la mắng như vậy. Bấy lâu nay sư huynh vẫn tự cho rằng mình làm gì cũng đúng đắn và cố gắng nhất, và điều khiến sư huynh cảm thấy hãnh diện nhất, là mình là một người theo chủ nghĩa hoàn mỹ, không bao giờ chấp nhận mình có khuyết điểm. Đối với Sư Phụ rất tôn kính, tự cho mình là đệ tử tiêu biểu nhất, nghĩ hoài sư huynh không sao hiểu nổi tại sao Sư Phụ lại la mắng mình như vậy. Sau khi về đến Formosa, trong khoảng thời gian hơn sáu tháng, mỗi ngày trong lòng đều dằn vặt mãi. Sư huynh muốn tìm hiểu tại sao Sư Phụ lại mắng mình, và sư huynh vẫn tự thấy mình không có lỗi lầm gì cả, vẫn tự cho mình là hoàn mỹ. Mặt khác trong thâm tâm, sư huynh vẫn hiểu vị Sư Phụ mà sư huynh tin cậy nhất, kính trọng nhất không thể nào vô cớ la mắng mình. Gặp Cao Thủ Cao Đẳng Vừa biết rằng Sư phụ tuyệt đối không sai, nhưng tự mình lại không chịu chấp nhận lỗi tại mình. Trong tâm trạng phức tạp như vậy, sư huynh thường không chịu nổi khúc mắc tháo không ra này mà bật khóc lên trong lúc hành thiền, thậm chí còn tự đánh mình để trừng phạt. Một buổi tối nọ, thị giả cho Sư Phụ có chuyện đến kiếm sư huynh. Trong lúc trò chuyện sư huynh này kể cho Khưu sư huynh nghe một câu chuyện về sư huynh này theo Sư phụ tu hành. "Có một lần, Sư Phụ dẫn tôi và mấy vị sự huynh đệ khác đến bờ sông Tam Địa Môn ở Bình Đông bế quan nghĩ ngơi. Tôi thấy Sư Phụ rất thương các sư huynh đệ khác, đã sinh lòng ganh tỵ, thậm chí còn hiểu lầm Sư Phụ. Khi trong lòng tôi nổi lên những ý nghĩ không tốt như vậy, lập tức bị Sư Phụ la mắng, và cấm không cho tôi ở bên cạnh Ngài. Lúc đó, tôi chẳng phạm phải lỗi lầm gì, cho nên các sư huynh đệ khác không hiểu tại sao Sư Phụ lại la tôi, chỉ có tôi hiểu một cách âm thầm. Thật ra tôi cũng biết, tôi không nên có lòng ganh tỵ như vậy, nhưng lại không tự kiềm chế được. Có nhiều lần Sư Phụ không muốn phá hoại bầu không khí bế quan thanh tịnh, nên cho tôi làm vài việc bên cạnh Ngài. Nhưng chỉ cần tôi khơi dậy từ trường xấu đó, Sư Phụ lại lập tức đuổi tôi ra. Mỗi ngày cứ bị đuổi đi đuổi lại, lúc bây giờ tôi thấy Sư Phụ quả thật sử dụng thần thông, nếu không Ngài làm sao có thể hiểu được một cách rõ rệt tôi đang nghĩ gì? Tôi cũng rất cố gắng muốn khắc phục phẩm chất xấu nầy, nhưng Sư Phụ càng la mắng tôi, tôi lại càng ganh tỵ. Liên tiếp trong mấy ngày, tôi muốn cười cũng cười không nỗi. Mỗi ngày cảm thấy thân tâm nặng trĩu như có đá đè lên người, nặng đến nỗi tôi sắp chịu không được nữa. Có vài lần tôi có ý định rời khỏi Sư Phụ, không muốn giằng co mãi trong tâm nữa. Khoảng một tuần lễ sau, có một đêm, tôi ngồi trên một tản đá ở bờ sông tọa thiền, sám hối. Sắp đến nửa đêm, bỗng trong lòng như khai ngộ, những khúc mắc trong tâm trong mấy ngày đã được giải tỏa, thân tâm đột nhiên khai mở, những cục đá nặng vô hình đè nặng lên người tôi đều biến mất trong lúc đó. Hai giòng nước mắt tôi tuôn trào, lúc bấy giờ tôi mới cảm thông với Sư Phụ, vì sao Ngài đã phải chịu đựng biết bao ngộ nhận cùng sự ngược đãi về tinh thần của các đệ tử? Lúc đó tôi thầm nghĩ, sáng sớm hôm sau tôi nhất định phải đi tìm Sư Phụ xin lỗi với Ngài, nói cho Sư Phụ biết là mình đã vượt qua rồi. Đêm đó tôi háo hức, mong sao trời sáng ngay. Sáng sớm ngày hôm sau, khi bình minh vừa ló dạng, tôi bỗng cảm thấy bên ngoài lều có người đang đi lại, nhìn ra mới biết thì ra là Sư Phụ. Tôi liền xông ra lều. Lúc bấy giờ, Sư Phụ mắt đượm nụ cười, thảnh thơi ngồi trên chiếc vòng ở gần đó. Tôi mừng rỡ chạy đến bên cạnh Ngài và nói với Ngài rằng: “Sư Phụ! Tối hôm qua con đã suy nghĩ thông suốt. Mấy ngày nay làm phiền Sư Phụ quá nhiều, con xin lỗi Sư phụ!” Sư Phụ cười nói một cách vui vẻ: “Nửa đêm hôm qua, Ta đã nhận được thông điệp này rồi. Ta biết ngươi đã khắc phục được chướng ngại, Ta còn mừng hơn ngươi nữa. Tối hôm qua Ta đã tính qua đây thăm, nhưng trời quá khuya, Ta không muốn làm phiền, cho nên trời vừa sáng Ta mới qua.” Sư Phụ tiếp tục nói: “Mấy ngày nay, trong tâm ngươi giằng co mãi, rất đau khổ, không phải Ta không biết. Thậm chí Ta cũng lo, sợ ngươi chịu không nỗi, bỏ nữa chừng. Lúc đó Ta có thể tha thứ cho ngươi, không la mắng ngươi, nói chuyện ngọt ngào với ngươi, nhưng Ta không thể làm như vậy được, vì nếu làm vậy nhà ngươi sẽ không bao giờ học được bài học này. Ta muốn ngươi tự siêu vượt tập quán không tốt đời đời kiếp kiếp của mình. Lúc đó Ta còn hồi hộp hơn nhà ngươi nữa.” Nghe xong những lời nói này cậu Sư Phụ, tôi đã ràn rụa nước mắt, quên luôn cả việc cảm ơn Sư Phụ. Nội Công Thêm Thâm Hậu Sau khi nghe xong câu chuyện của sư huynh này, Khưu sư huynh rất cảm động, cũng đem câu chuyện mình giằng co mãi trong hơn sáu tháng nói với vị sư huynh nầy. Khưu sư huynh cho biết: “Sau hơn sáu tháng dằn vật, tối hôm qua trong lúc tọa thiền, tôi mới gỡ được khúc mắc trong tâm. Tôi mừng khôn tả. Tình trạng này giống y như sư huynh vừa mới kể. Không ngờ hôm nay sư huynh đột nhiên đến kể cho tôi nghe câu chuyện của sư huynh. Nếu sư huynh đến sớm mấy ngày, tôi sẽ nghe không vô, và sẽ không hiểu. Sao mà trùng hợp như vậy! nhất định là sự an bài của Sư Phụ. Tôi bây giờ hễ nhắc đến Sư Phụ là muốn khóc, thật quá hổ thẹn!” Khưu sư huynh nói tiếp: "Thật ra, từ lúc đầu, việc tôi tìm lý do tại sao Sư Phụ la tôi là đã không đúng rồi. Dù Sư Phụ có la oan tôi, tôi cũng không nên giận. Đối với những người thường đã không nên làm như vậy, huống chi là Sư Phụ của mình. Cũng vì tôi tự cho mình là quá quan trọng nên mới buồn và để ý đến chuyện bị rầy la như vậy. Tôi chưa vượt qua được danh tiếng và sự khen chê. Người tu hành phải tu đến tám ngọn gió cũng không lung lay được mới là đúng. Đây mới chỉ là một cơn gió nhẹ, mà tôi đã rung rinh hơn sáu tháng. Trước đây tôi thường tự cho mình là người thích sự hoàn mỹ, cái gì cũng hơn người ta, không để cho mình phạm một lỗi lầm nhỏ, tự trói buộc mình, quá để ý đến mình. Đây mới chính là một sự không hoàn mỹ. Bây giờ tôi đã thấy sự thật, tự thấy mình vô tích sự, và thấy bất cứ người nào cũng hơn mình. Tuy nhiên tôi cũng cảm thấy vui vẻ hơn, nhẹ nhõm hơn. Sau khi khắc phục được sự giằng co trong nội tâm lần này, chẳng bao lâu đã gặp phải tình trạng tương tự. Tôi phải giúp đỡ thu xếp một vài công việc khó khăn, có khi bị mắng đến phải trốn khóc một mình, nhưng tâm trạng buồn bã thoáng chốc đã qua. Từ khi bị Sư Phụ la một lần, tôi như đã được miễn dịch!" Hèn chi trước đây Sư Phụ đã từng nói đùa: “Quý vị chỉ cần chịu được tiếng hét sư tử của Sư Phụ, sau này đi đến đâu, gặp tình trạng nào cũng có thể vượt qua được.” Không ngờ trong mấy tháng ngắn ngủi, công lực chịu đựng la mắng của Khưu sư huynh đã tiến bộ nhiều như vậy, vượt hẳn thành quả tích luỹ được trong suốt ba mươi năm luyện tập võ thuật. Sư huynh nói: “Còn nhớ trước đây theo thầy Lưu Tích Hanh học Thái Cực Quyền, có khi thầy Lưu dạy một thế, tôi tập dượt, nhưng không làm sao cho được chính xác, cũng không nắm vững được trọng điểm. Thầy Lưu ở một bên cũng không sửa lại động tác sai lầm của tôi. Tôi lại ngại không dám hỏi, tôi thử hết mọi phương pháp và cố gắng hết sức, nhưng vẫn không xong. Mấy ngày sau thầy Lưu mới đến chỉ dẫn cách làm đúng hơn, và lúc đó tôi mới hiểu! Tôi nghĩ, rất nhiều bài học đều phải tự mình thể nghiệm, tìm hiểu, học hỏi từ nhiều trường hợp khác nhau. Đợi đến khi thời cơ thành thục, và với sự hướng dẫn chính xác của vị thầy, chúng ta mới thật sự nắm được trọng điểm. Một năm trước đây nghe nói cao thủ Thái Cực Quyền sư thúc Huỳnh Tịnh Hiển đã qua đời, tôi ngơ ngác như người mất hồn. Sư thúc suốt đời nghiên cứu Thái Cực Quyền, công lục cao siêu không ai sánh kịp. Nhưng bây giờ chỉ còn lại hư danh, ngoài ra cũng không còn gì nữa. Bỗng tôi thấy mình thật may mắn, đã gặp được Sư Phụ, theo Ngài tu hành trước khi cuộc đời tôi chấm dứt. Cho nên bây giờ, tôi sẽ không sống cuộc đời này một cách vô nghĩa.” BMD 978 The Tailor and the two Zen Masters Có người thợ may, tên là Hồ Đình Giảo. Anh ta đến gặp vị thiền sư, tên là Bảo Thọ. Rồi khi anh diện kiến ngài, vị thiền sư mời anh ta uống trà này kia, mọi việc đều tốt đẹp, rồi anh ta xin được thưa chuyện với thiền sư, bởi vì anh ta nói có việc quan trọng thưa với thiền sư. Vì vậy thiền sư cho anh ta vào phòng của ngài nói chuyện. Vị thiền sư hỏi anh thợ may: “Có phải ngươi là thợ may nổi tiếng rất chuyên nghiệp và may rất nhiều quần áo đẹp cho những người quanh đây không?” Anh ta nói: “Dạ, dạ. Thật tội lỗi. Là con ạ.” Anh ta tỏ ra khiêm tốn. Rồi thiền sư Bảo Thọ tiếp tục hỏi anh: “Được rồi, người hãy cho ta biết làm sao có thể vá được hư không? Nhưng anh chàng này không phải là thợ may thường. Anh ta có đầy kiến thức, chắc là vậy. Anh chàng này trả lời ngay tức khắc: “Vâng, sư phụ. Nếu ngài có thể phá vỡ hư không thì con có thể vá lại cho ngài.” Có lẽ anh ta đã học thuộc lòng và lập lại sự trống rỗng mà không hiểu gì cả. Ngài lấy cây gậy đánh anh ta tơi bời. Đánh thật mạnh. Rất giận dữ. Đánh anh ta từ đầu đến chân, đánh bầm tím, đánh rất đau, đau đến nỗi anh thợ may quỳ xuống sàn, che người lại và nói: “Làm ơn, xin sư phụ đừng đánh nửa! Xin ngài làm ơn, nếu ngài muốn phá vỡ hư không thì ngài cứ làm. Sao ngài lại đánh con?” Nghe vậy vị thiền sư còn nỗi giận hơn nữa, và nói: “Tạm thời ta không giải thích cho ngươi. Ta tiếp tục đánh người, Nếu thật sự muốn biết thì phải đợi cho tới khi có ai, có thiền sư lắm chuyện khác giải thích cho ngươi.” Nghĩa là có một số thiền sư thật sự giải thích điều đó. Một số người chỉ làm phiền mình. Bất kể mình nói gì đi nữa, họ vẫn chấp trong khuôn khổ của họ. Họ cứ không thấy không hiểu nên chỉ còn biết nói: Ồ xin mời đi nơi khác, đối với ta ngươi quá giỏi đại khái vậy. Thật vậy, tôi ngạc nhiên có người tu hành lâu rồi mà vẫn còn quá chấp vào một điểm nào đó, có lẽ cởi mở đôi chút nhưng chưa hoàn toàn, nên đối phó với những người như vậy thì có thể rất bực bội, hiểu không? Anh thợ may này bị đánh bầm tím, cảm thấy rất nhục nhã, bối rối, không biết phải làm gì, chạy ra khỏi phòng vị thiền sư. Thời gian lâu sau anh ta gặp một vị thiền sư khác, anh ta đến hỏi tại sao vị thiền sư kia đánh anh ta thê thảm đến vậy. Đây là một trong những thiền sư lắm chuyện. Vị thiền sư nầy tên là Triệu Châu hỏi: “Ngươi có biết tại sao ngươi bị đánh không?” Anh chàng thợ may sợ rồi. Anh ta nói: “Dạ không, thưa thầy, thật sự con không biết gì. Cho đến giờ, con đã suy nghĩ đi nghĩ lại mà con cũng không biết con đã làm gì sai để đáng bị đánh thê thảm như vậy.” Triệu Châu nháy mắt với anh ta thế này, rồi nói: “Ngươi biết không, vì người là vết nứt trong hư không.” Quả là chướng ngại, đi đến đâu anh ta cũng làm rạn nứt mọi thứ. Đẳng cấp thấp mà hay tranh luận. Đến tìm vị thiền sư mà còn phô trương như vậy. Kiến thức thật sự không đạt được qua việc đọc sách, mà cần phải tự mình liễu ngộ. Cũng như đôi khi quý vị thiền hoặc có chuyện gì xảy ra và bất chợt quý vị thoáng thấy chân lý đằng sau đó, mà có lẽ không liên quan gì tới điều đó. Quý vị hiểu được chân lý của cuộc đời, cái hư không thật sự, ít nhất cũng thoáng thấy chân lý. Sau khi anh thợ may nghe lời giải thích của thiền sư Triệu Châu, bỗng nhiên thức tỉnh. Nhưng đây không phải là lời giải thích làm anh ta hiểu, mà là cách vị thiền sư nói với anh ta. Đồng thời vị thiền sư nầy có lực lượng cho nên lời của ngài mang lực lượng thức tỉnh anh ta. Ngài gia trì cho anh ta trong vô hình. Linh hồn lạc bước trong bóng tối đã trở về con đường tu hành khai ngộ Sư huynh đồng tu Kim, Busan, Hàn Quốc kể (nguyên văn tiếng Ðại Hàn) - Ban Báo chí Hàn Quốc ghi chép BẢN TIN 173 Từ khi 15 tuổi, đồng tu Kim đã vào tù ra khám, nơi anh bị đánh đập tàn nhẫn. Mỗi lần ra khỏi tù, anh lại tiếp tục lang thang, không có một sự dẫn dắt nào để biết được điều hay lẽ phải, và do đó càng ngày càng khó cho anh hòa đồng với xã hội và bị người đời coi thường phỉ báng. Anh học thói móc túi, và từ đó mấy chục năm sau, đời anh bị giam hãm trong tù ngục vì nhiều lần phạm tội móc túi, bạo động, hút sách, v.v... Tới năm 35 tuổi, anh lại bị bắt một lần nữa và bị kết án 9 năm tù, anh đau khổ vô cùng e rằng vợ và con trai sẽ bỏ anh trong thời gian dài trong khám. Anh cũng lo đứa con trai lớn lên sẽ nghĩ xấu về cha nó. Nhà tù đã trở thành một nơi quen thuộc, và vì anh biết cách sống làm sao để được dễ chịu ở đây, nên anh không sợ trải qua nhiều năm nữa trong tù. Tuy nhiên, nghĩ đến việc không ở bên gia đình, không thể làm gì để nuôi nấng người thân, anh vô cùng đau đớn. Hối hận quá khóc ròng, ngày ngày anh hồi tưởng lại quá khứ và những việc làm không tốt của mình. Không những nhớ tới các nạn nhân bị mình hại, anh còn nhớ tới cha mẹ, đối với họ anh cũng rất có lỗi. Mấy năm trôi qua trong những tháng ngày buồn khổ. Kim muốn kiếm tìm sự bình an trong tâm hồn, rồi anh bắt đầu nghiên cứu kinh điển, đạo pháp, triết học, tìm một sự dẫn dắt cho cuộc đời. Một hôm anh đến dự một cuộc họp mặt về tâm linh, khi có vài vị tăng đến viếng trại giam. Một trong những vị này giới thiệu Pháp Môn Quán Âm và chiếu băng Sư Phụ Thanh Hải thuyết pháp. Lúc đó phụ đề quá nhỏ không thấy rõ được trên màn ảnh bé xíu kia, nên anh không hiểu vị thầy đó nói gì. Nhưng anh nhận thấy một điều gì đó hơi khác thường về vị thầy trong cuốn băng ấy. Một ý tưởng thoáng qua, anh chợt nghĩ vị này chắc phải là một người đại khai ngộ như Chúa Giê-su hay Phật Thích Ca Mâu Ni Phật, do đó anh rất thích Sư Phụ Thanh Hải và môn pháp mà Ngài đang dạy. Cảm nhận một sự thôi thúc trong lòng, anh đi đến một nhân viên cai tù sau buổi họp để mượn những quyển sách các vị sư kia để lại. Sau khi đọc xong cuốn thứ hai, anh quyết định rằng nội dung cũng giống như những cuốn kinh mà anh đã học. Nên anh ngừng đọc và từ đó không còn nghĩ nhiều tới nó nữa. Thời gian thấm thoát trôi. Một hôm Kim thấy một người bạn đang mặc đồ chỉnh tề, vội vàng đi. Anh hỏi đùa: "Bộ có hẹn hay sao vậy?" Bạn anh trả lời anh ta là học viên của một lớp Quán Âm pháp, được mở thường xuyên trong tù, và đó là hôm có lớp. Nghe vậy, Kim giật mình nhớ lại mấy cuốn sách và băng của Sư Phụ từ trước đã lâu. Anh quyết định đi theo, gia nhập vào nhóm học sinh để ghi danh xin học thiền. Sau khi học pháp Phương Tiện, Kim được những thể nghiệm tốt bên trong, và tin rằng Sư Phụ Thanh Hải quả thật là một đấng khai ngộ. Anh phải phấn đấu giữ trường chay, để được thọ trọn pháp từ Sư Phụ. Những bữa ăn trong tù gồm có cơm, một chén canh và hai món phụ. Canh và hai món phụ thì đa số lúc nào cũng có thịt. Suốt mấy năm, anh phải cố gắng hết sức để ăn chay tinh khiết, chọn món nào có ít chất động vật nhất, rửa qua rửa lại mấy lần, rồi mới ăn. Tuy bị nhiều trở ngại trong việc ăn chay và không có người nào hiểu sự tu hành của anh, nhưng anh vẫn kiên quyết và có nhiều thể nghiệm tâm linh tốt. Anh mơ tưởng nếu được thọ Tâm Ấn thì sẽ giống như có được cả một trời thế giới, nhưng còn ba năm nữa mới mãn tù. Lòng khát khao thọ pháp, Kim khóc lóc khẩn cầu Sư Phụ Thanh Hải và nhiệt thành viết một lá thư gửi Ngài. Ngạc nhiên thay, ngay hôm sau khi anh viết xong, bức thư chưa kịp gửi thì Sư Phụ xuất hiện trong lúc anh ngồi thiền, gọi tên anh với giọng nói rõ ràng. Anh đáp lời Sư Phụ thì Ngài nói ngắn gọn hai chữ "Tâm Ấn", rồi anh được thể nghiệm Tâm Ấn ngay lúc đó. Một cảm giác tuyệt vời, mặc dù lúc đầu anh chưa hiểu thể nghiệm đó là gì. Chỉ vào thời gian rất gần đây anh mới hiểu, sau khi nghe Sư Phụ nói trong một cuốn băng rằng: "Lễ truyền Tâm Ấn chỉ là để giải thích sự việc cho quý vị, còn Tâm Ấn thật là sự truyền pháp ở bên trong". Sau khi nghe những lời này, anh mới ngộ ra rằng thể nghiệm mười năm trước trong tù là lúc Sư Phụ truyền Tâm Ấn cho anh. Từ đó về sau, Kim nghĩ đến Sư Phụ mỗi ngày, từng phút giây những lúc nào không ngủ anh đều niệm danh Ngài, cho tới khi mãn nhiệm tù. Ra khỏi tù, anh được Tâm Ấn, nhưng dù mãn nguyện về việc này, anh vẫn phải đối diện với vấn đề sinh nhai ngay trước mắt. Anh phải kiếm tiền nuôi gia đình và một lần nữa lọt vào cạm bẫy tội lỗi của thời gian trước kia. Vì lòng tự hào, anh không muốn làm việc tầm thường, và cuối cùng đã trở lại hành nghề trộm cắp và buôn bán cổ phần. Một hôm, Kim đến Trung tâm cộng tu, nơi đây anh trông thấy một tấm bảng đề chữ: "Những ai lừa bịp Sư Phụ và đồng tu thì không được vào Trung tâm". Cho rằng thông điệp đó đang nói về mình, anh hổ thẹn tận trong lòng, không thể bước vào Trung tâm nữa. Mỗi lần móc túi, anh cảm thấy dằn vặt đau khổ, tự ghét mình đã làm hành động đó, nhưng không ngưng được. Cuối cùng anh bị cảnh sát bắt vào khám một lần nữa. Thật kỳ lạ, lúc đó anh lại có cảm giác tự tại, vui vẻ. Trở vào tù với tâm hồn an bình thoải mái, anh sẵn sàng trả nợ cho những hành động xấu của mình, thậm chí còn xin ở xà lim nhỏ dành cho một người. Mỗi ngày đều tu hành, ăn năn hối cải. Thời gian sau, anh biết được tù nhân cạnh phòng anh cũng đang mong cầu giải thoát, và anh đã giúp người này học thiền. (Tù nhân này hiện đang tinh tấn tu pháp Phương Tiện, chờ ngày Tâm Ấn sau khi mãn tù.) Lần này, Kim ra khỏi tù, anh hoàn toàn bỏ được lỗi lầm xưa, chịu làm việc vặt vãnh kiếm tiền. Kim cám ơn Sư Phụ đã tha lỗi cho anh, anh cầu nguyện thế giới một ngày sẽ trở thành nơi chốn an bình, đẹp đẽ, và anh đã cống hiến tất cả sức lực vào việc truyền bá giáo lý Sư Phụ và thông điệp Lối Sống Mới. Anh cùng đi với đồng tu thăm những trại tù, giúp tù nhân nào đang ăn năn hối cải muốn khởi sự một cuộc đời mới. Anh muốn cho họ biết rằng thiên đàng và sự giải thoát linh hồn là hiện hữu, quan trọng hơn cả đời sống vật chất ở thế giới ta bà. Ðể giúp những tù nhân muốn ăn chay, anh gửi tiền cho họ mua đồ chay và mời đồng tu ủng hộ. Anh làm việc đó là bởi vì anh tin rằng mỗi tù nhân đều hết sức cần sự quan tâm nhiệt thành của các đồng tu. Tù nhân ở các trại tù thành phố Daegu, Andong, Chungsong và Busan, những người nào đã học pháp Phương Tiện, liên lạc với đồng tu địa phương qua thư từ về những ước mơ và hy vọng của họ cũng như nỗi niềm ăn năn về những việc mà họ đã làm trong quá khứ. Kim đảm trách công việc với nhà tù Daegu, đọc thư từ của tù nhân trong phạm vi làm việc của anh và khuyến khích họ qua những bức hồi âm. Thông hiểu được nỗi đau khổ dày vò trong tim họ, anh tiếp tục cầu nguyện một ngày nào đó họ sẽ tìm được niềm vui và sự giải thoát vĩnh hằng trong tình thương hoàn mỹ của Sư Phụ, và làm lợi ích cho chính họ và thế giới, khi họ tìm được chân ý nghĩa của cuộc đời. |
Archives
January 2023
Categories |