International Gathering with Supreme Master Ching Hai -Europe, Jul ~ Oct 2015 Master Tells Jokes & Buddhist Stories: A Monk Called Celestial Jewels - Aug 29,2015 Đây là câu chuyện về vị tỳ kheo tên Bảo Thiên (Châu Báu Thiên Đàng) Chính tôi được nghe. Một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ tại khu vườn lát vàng của ông Cáp Cô Đọc và Thái tử Kỳ Đà. Ở thành này có ông trưởng giả, bà vợ sinh được cậu con trai mặt mũi đầy đặn khôi ngô, giữa lúc sinh, trên trời tự nhiên châu báu rơi xuống như mưa: vàng, bạc, ngọc lu ly, ngọc xà cừ, các loại đá quý, các loại ngọc hổ phách đẹp và kim cương rơi đầy ngoài sân. Ổ, mọi người rất phấn khích. Dân làng kéo đến xem và lượm châu báu giùm. Họ lại ca tụng ông bà có nhiều phúc đức, sinh ra người con khôi ngô tuấn tú và đầy phước đức. Nên họ nói với nhau: “Đây thật sự là một hiện tượng hiếm thấy.” Nên cặp vợ chồng hoài nghi, lo lắng không biết tốt hay xấu. Người cha nghĩ: “Đây là điểm báo gì đây?” Ông bèn sai người đi tìm thầy tướng số đến nhà xem như thế nào. Thầy tưởng nói: “Dạ! Ngài bổng cháu ra đây!” Bà trưởng giả nghe thầy nói, bế con ra. Thầy ngắm nghía xem qua xem lại, xem tới xem lui một hồi lâu rồi nói: “Ồ, không tệ chút nào.” Thầy tướng nói với vợ chồng vị trưởng giả: “Thưa trưởng giả, cháu có nhiều tướng tốt của một người quý phái: Đầu tròn, mũi thẳng, tai đầy đặn và trán vuông. Bàn chân, bàn tay đầy đặn.” Rồi ông nói: “Đứa bé này sau này có thể làm lợi ích cho gia đình, xã hội, nếu là tại gia. Con nếu xuất gia sẽ được chứng quả giải thoát, ông bà cứ yên chí nuôi cháu cho cẩn thận, sẽ tốt thôi.” Vợ chồng ông trưởng giả nghe vậy rất lấy làm hoan hỷ. Rồi họ nhờ thầy tướng đặt tên cho đứa bé. Thầy tướng số nói: “Theo điềm, khi cháu sinh ra, vậy mình đặt tên cho cháu là Bảo Thiên (Châu Báu Thiên Đàng).” Rồi ông trưởng giả và gia đình cảm ơn ông rất nhiều và tạ lễ. Quả như lời thầy tướng số nói, cậu bé Bảo Thiên khi lớn lên rất thông minh và tài năng lỗi lạc. Tuy nhiên, cậu bé rất ham thích thực hành các loại học thuyết, như đạo pháp, thiền định, giáo lý của Đức Phật, v. v… Cậu bé thích sưu tầm những triết lý này. Một hôm, cậu sang chơi nhà người thân ở tỉnh khác, họ dẫn cậu đến yết kiến Phật, tới nơi thấy mọi người đều đi vòng quanh bái kiến Phật ba lần, cậu cũng làm theo như họ lễ Phật, rồi lui ngồi một bên. Cậu bé nhìn thấy Phật oai đức phi thường như thể khắp trời đất không ai sánh kịp, thần tướng vô cùng đẹp. Rồi trong lòng cậu bé bỗng dưng trở nên rất yêu quí Phật, rất là thán phục. Chỉ mong muốn xã bỏ hết cả thế gian và mọi thứ khác, theo bước chân Phật và trở thành Phật. Tới đây Đức Phật thăng tọa để mọi người đều được thấy Ngài. Rồi Ngài thuyết pháp cho đại chúng nghe nói về thập nhị nhân duyên, chúng sinh bị luân hồi chịu khổ này kia, xong buổi thuyết pháp, mọi người tạ lễ lui ra. Bảo Thiên được nghe lời vàng ngọc của Phật giáo hoa, Lấy làm sung sướng, tâm hồn khai mở và rất vui mừng. Rồi cậu bé quyết định ngay lúc đó sẽ theo bước chân Phật, quyết xuất gia tu đạo. Ngay khi về tới nhà cậu quỳ xuống, thưa với cha mẹ rằng: “Kính lạy song thân yêu quý! Được làm thân người thật sự rất là khó và quý hiếm. Nhưng được gặp Phật tại thế lại càng khó kiếm hơn nhiều nữa. Hôm qua con có cơ hội được diện kiến Phật, lại được nghe Ngài thuyết giảng chánh pháp, Chân lý, chân Pháp quý giá. Con nhận thấy chỉ có đạo Phật vào thời đó, giáo lý của Phật là tốt nhất, có thể giải thoát cho con người. Thời đó, không giáo pháp nào có thể làm được như vậy. Vậy kính xin song thân cho con xuất gia học đạo.” Ông bà thấy cậu hướng việc tu hành, vô cùng vui vẻ. Họ nói: “Được, ý con muốn xuất gia thì cha mẹ rất vui lòng.” Được sự đồng ý của cha mẹ, cậu lấy tạ ra đi tìm Phật. Khi tới nơi, cậu cuối đầu lễ Phật thưa rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn, chúng con từ vô thùy kiếp, bị luân hồi trong biển khổ, sinh tử và tuổi già, vô cùng đau đớn và phiền não. Không người cứu vớt. Giờ đây, Ngài như một chiếc thuyền đến đúng lúc cứu độ tất cả chúng con. Hôm nay con tới đây một lòng thành kính cầu xuất gia học đạo, để tìm bến bờ giải thoát trong đời này, cúi xin Ngài từ bi tế độ.” Rồi tất nhiên, Phật nói Thiện tai Tỳ kheo. Sau khi Đức Phật nói dứt lời, tóc trên đầu Bảo Thiên rụng xuống hết. Và quần áo cậu mặc hóa thành áo cà sa, y phục của tăng sĩ. Từ đó cậu theo Phật tu hành khắp nơi, vốn có trí óc thông minh sẵn, nên không bao lâu chứng được quả A la hán. Rồi từ đó trở đi, Bảo Thiên không phải luân hồi trong ba cõi. Một hôm, nhân buổi thư nhàn vấn đạo, tôi, tức là Anan muốn biết rõ câu chuyện tiền thân của Bảo Thiên, nên tôi đến trước Phật thi lễ và bạch Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn! Xin cho chúng con được rõ không hay Tỳ kheo Bảo Thiên đời trước làm phước gì mà đời nầy lúc mới sinh lại có châu báu trên trời rơi xuống. Và những món ăn nào anh ta thích tự nhiên biến hiện theo ý muốn. Cho nên, xin Ngài giáo huấn cho chúng con?” Rồi Đức Phật nói với Anan rằng: “Anan! Đời quá khứ cách đây đã lâu, lâu lắm rồi có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi.” Ngải cứu độ cho rất nhiều linh hồn được giải thoát, rất nhiều không đếm xuề. Một hôm các vị tăng, đi vào thôn làng, thành thị khuất thực. Nhiều người dân chen nhau, để cúng dường chư tăng. Lúc ấy có một người nghèo, thấy mọi người làm như vậy, sinh lòng hoan hỷ! Ủng hộ tinh thần, với tâm đơn thuần và tinh thần rộng lượng, mặc dù ông rất nghèo. Ông cũng muốn cầu chút phước báu bằng cách cúng dường Phật và Tăng đoàn. Nhưng ông không có gì. Nhưng tâm ông rất vui, hoan hỷ. Ông không biết làm sao, cuối cùng bất đắc dĩ ông hốt một nắm đá tròn và đẹp rồi ông rải đá ấy lên đường các vị tăng đi. Rồi ông rời đi, nhưng với tất cả lòng thành kính. Rồi khấn nguyện như mấy người trước rằng: “Nguyện ban phước cho con. Rồi đời này qua đời kia ông sanh ra được phú quý và trường thọ. Và được đạo giải thoát như các ngài.” Anan, ngươi nên biết! Người nghèo cúng dường đá sỏi thuở đó, cúng độ đời quá khứ có lòng tôn kính ngôi tam bảo. Bởi vì vậy, mà 91 vô lượng kiếp, người này luôn được hưởng vô lượng phước báu, sinh về xứ nào cũng bình an và giàu có, cầu gì được nấy. Cũng bởi duyên lành ấy mà nay được gặp ta và đắc quả A La Hán, giải thoát.” Nên lúc đó tất cả mọi người trong Pháp hội nghe Phật nói xong, ai nấy đều phát tâm cung kính cúng dàng, thật sự trân quý công đức mà sự cúng dàng mang tới cho họ. Rồi nhờ đó nhiều người đạt được cả quả vị tâm linh khác nhau lúc đó. Tôi nghĩ Ngài không chỉ giảng không, mà còn truyền Tâm Ấn. Nên ai nấy đều vui mừng tạ lễ Phật rồi lùi ra.
0 Comments
Bản tin 198 Tổng hợp từ Truyền hình Vô Thượng Sư, kỳ phát hình 593-595 (nguyên văn tiếng Anh) Nguyên thủy không có các loại nhạc cụ như vậy trên thế giới. Sau khi những người tu hành giỏi đi lên thiên đàng, họ nghe tiếng đàn hạc và tiếng sáo, và tất cả những tiếng đó, sự dạy dỗ trực tiếp từ Thượng Ðế, với âm thanh thật du dương. Rồi họ trở về đây, họ cố gắng làm ra nhạc cụ, và đã trở thành nhạc cụ của thời đại chúng ta. –- Thanh Hải Vô Thượng Sư khai thị Peter Sterling là một tay đàn hạc nổi tiếng, nhạc của anh đã đưa khán giả một thoáng nhìn vào cảnh giới thiên đàng. Vào năm 1994 anh nhận Giải Dĩa nhạc Ðàn Dây Hay Nhất từ Hội Quốc gia Những nhà phân phối Dĩa nhạc Ðộc lập cho CD “Ðàn hạc thần diệu” của anh. Dĩa nhạc “Giấc mơ đàn hạc” của anh trở thành số 1 trong danh sách 100 bài nhạc được phát nhiều của đài phát thanh trong 8 tuần vào năm 2004 của “New Age Reporters” khiến dĩa nhạc của anh trở thành CD Thời đại Mới được ưa chuộng nhất ở Bắc Mỹ và Âu Châu lúc bấy giờ. Tuy nhiên, Peter chưa bao giờ có một sự đào tạo chính thức nào về âm nhạc. Hành trình âm nhạc của anh bắt đầu năm 1989 khi có một tiếng nói bên trong hướng dẫn anh đến Sedona, một thành phố ở Arizona, Hoa Kỳ. Chính tại Sedona mà Peter đã trở thành một người trường chay và trải qua 3 năm “truy tìm thể nghiệm tâm linh,” nơi anh buông xuống tất cả những sở hữu cá nhân. Anh cầu nguyện Ðại Thánh linh tiết lộ mục đích cuộc đời của anh vì anh muốn là một phần của ảnh hưởng tích cực trên sự tỉnh thức toàn cầu vào thời này. Anh đi sâu vào trạng thái nhập định và trong trạng thái đó, Peter tiết lộ: “Tôi chợt bắt đầu nghe thấy những giai điệu âm nhạc rất tinh tế; tôi nghe được tiếng nhạc tuyệt vời nhất... Nhưng rồi tôi nhận ra rằng nó đến từ bên trong... Cho nên tôi cứ đi theo nó và tiếng nhạc đó dẫn tôi vào một hành trình”. Có một ngày tiếng nhạc đã nâng anh lên cao ra khỏi thân thể và đưa anh đến một nơi đầy ánh sáng, phúc lạc và trạng thái xuất thần, nơi anh thấy thiên thần quanh anh ca hát, chơi đàn hạc, vĩ cầm và thổi sáo. Anh nhận ra tiếng nhạc bất khả tư nghì này là đến từ các vị thiên thần này. Anh có một sự câu thông thần giao cách cảm với những thiên nhân này, và họ bắt đầu truyền đạt rất nhiều thông tin cho anh. Các thiên thần nói với anh rằng sứ mệnh của anh là truyền dẫn âm nhạc thiên đàng và siêu phàm mà anh đang nghe xuống thế gian bằng cách chơi đàn hạc. Họ nói âm nhạc siêu phàm này giống như một tiếng kèn thúc giục, giống như Gabriel đang thổi kèn trumpet kêu gọi tất cả các linh hồn về nhà. Tiếng nhạc trầm bổng giống như sự thăng trầm của các thời đại và bản chất của âm nhạc này là thức tỉnh mọi người để thấy một viễn ảnh rộng lớn hơn”. Một tuần sau thể nghiệm này. Peter tìm thấy chiếc đàn hạc Xen-tơ mà anh có số mệnh sẽ đàn qua một sự gặp gỡ với một tay đàn hạc ở Sedona. Ngay khi anh bắt đầu khảy phiếm đàn hạc là các thiên thần hát cho anh nghe và từ trường của họ sẽ bao bọc lấy anh và hướng dẫn tay anh lướt trên các dây đàn. “Ðây là mọi sự bắt đầu, với những dây đàn hợp âm rải bé nhỏ đơn giản này. Và sau đó cứ phát triển thành bản nhạc trong vòng mấy tuần. Những giai điệu khác biệt bắt đầu xuất hiện. Và sau 10 tháng chơi đàn hạc, chỉ tự học, các thiên thần nói: “Ðã đến lúc làm thu âm”. Trong một phòng thu âm nhỏ ở Sedona, Peter đã thu âm cuốn băng đầu tiên của mình. “Quả là một kinh nghiệm mãnh liệt đến nỗi bàn tay của tôi run rẩy và mắt tôi đẫm lệ. Ðó là năng lực tần số rất cao”. Anh đã thâu 50 bản băng thâu âm, sau đó chỉ chia sẻ với những người ở quanh Sedona, nhiều người đã hưởng ứng loại nhạc này. Anh cũng tặng một số cho các tiệm sách Thời Ðại Mới trong thị trấn, và các chủ tiệm bắt đầu bán chúng. Tuy nhiên, khi các thiên thần nói với Peter rằng nhạc của anh phải phổ biến khắp thế giới, anh không biết làm sao để làm việc này, vì vậy anh cầu ơn trên giúp đỡ. Liền sau đó, anh được ban chấp hành của các hãng băng nhạc liên lạc. Họ đã nghe thấy âm nhạc mỹ miều này trong một tiệm sách trong lúc đi nghỉ hè ở Sedona. Sau khi nghe câu chuyện của Peter, họ quyết định giúp đưa âm nhạc này ra thế giới và đồng ý cho anh một hợp đồng thâu âm với sự phân phối toàn thế giới. Nhạc của anh được phát hành ở Nhật Bản, Nam Mỹ và Gia Nã Ðại, và chỉ 3 tháng sau đó, CD của anh được chọn là dĩa nhạc đàn dây hay nhất trong năm. Peter nói: “Ðiều này cho thấy các thiên thần có thể giúp mình nhanh đến mức nào”. “Hãy cầu và ngươi sẽ nhận. Hãy gõ và cửa sẽ mở”. Từ đó trở đi, anh đã trình diễn ở nhiều nơi, Úc Ðại Lợi, Chương trình Jay Leno, và gần đây nhất trong các ngôi đền cổ của Ai Cập. Cảm ơn anh Peter Sterling đã mang hương vị của sự an bình và niềm vui thiên đàng vào đời sống mọi người qua âm nhạc và nghệ thuật phúc lạc của anh. Chúng tôi cảm kích giấc mơ của anh là tạo một thế giới tươi sáng và thiên về tâm linh hơn. Chúng tôi chúc anh tiếp tục nhận được ân điển và sự hướng dẫn của Thượng Ðế trong những nỗ lực của anh. Buddhist Stories: The Story of Lakngaisaiya - Sep 3, 2015 International Gathering with Supreme Master Ching Hai - Europe, JUL ~ OCT 2015 Một thời Đức Phật ở nước Ca Tỳ la Vệ, tại tịnh xá tên Ni Cầu Lư Đà (tiếng Việt đọc vậy). Khi đó họ hàng và người thân trong gia tộc của Phật và tất cả người dân trong thành thấy Đức Thế Tôn có nhiều lực lượng thần biến. Mọi người dòng họ Thích Ca và họ hàng, thân bằng quyến thuộc, bạn bè và người dân nhìn thấy Đức Phật đạt rất nhiều lực lượng, năng lực vô hình, cứu nhiều sinh mạng và khai ngộ cho vô số người. Họ đều rất, rất vui mừng. Họ cũng ca tụng năm người nhóm ông Kiều Trần Như, năm người đầu tiên Phật giảng pháp cho nghe và trở thành đệ tử của Ngài. Năm người đệ tử đầu tiên. Nên họ nghỉ năm người đó đối với Phật có duyên gì tốt. Các vị tỳ kheo nghe biết từ người bên ngoài. Nên họ bạch Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn! Người dân họ đương tán tụng Thế Tôn mỗi ngày, mọi nơi! Và cũng khen nhóm ông Kiều Trần Như. Họ bạch rằng: Lạy Đức Thế Tồn! Người dân họ đương tán tụng Tế Tôn và năm vị đệ tử đầu tiên. Họ muốn biết những người này có phúc lành gì mà được làm đệ tử ngay khi Ngài trở thành Phật.” Nên Phật dạy: “Các ông nên biết kiếp xưa đã lâu, lâu lắm rồi. Ta phải dùng thân thể, ý là Phật, để cứu mạng cho họ, cũng do duyên lành đó mà nay ta độ cho họ trước.” Các tỳ kheo lại thưa với Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn, đời trước Ngải cứu tính mạng họ, việc đó thế nào kính xin Ngài khai sáng cho chúng con được biết?” Rồi Phật dạy: “Các người hãy để ý nghe cho kỹ! Cách đây lâu lắm rồi. Cũng ở Châu Diêm Phù Đề nầy thời đó có một nước gọi là Ba La Nại, vua nước ấy là Phạm Ma Đạt.” Có một người, một nhà buôn, người kinh doanh. Tên là Lặc Na Sà Gia (lakngaisaiya). Hôm đó ra chơi nơi khu rừng gặp một người khóc và đang cố gắng treo anh ta lên, treo cổ tự tử. Ông tới gần. Ông tới bên cạnh hỏi rằng: “Có chuyện gì mà anh lại làm như vậy? Thân người khó đặng, mạng sống mong manh suy biến không ngừng, nay còn mai mất! Sao anh phải vội vàng như vậy?” Thôi hãy tháo dây thòng lọng ra, đừng chết chi cho uổng, muốn gì nói cho tôi nghe, nếu có thể giúp được, tôi xin giúp.” Nên người đó nói với ông là: “Thưa ông! Tôi không biết nói sao. Tôi nghèo khổ quá! Thiếu thốn đủ thứ. Vô cùng khổ sở! Không chỉ nghèo mà còn nợ nần rất nhiều, nợ người ta khắp nơi. Chủ nợ lại đòi, sỉ nhục thậm tệ, tất cả gia sản của tôi bị họ tịch thu hết rồi, nên giờ chẳng còn gì. Tuy ông có tâm can tốt, cố gắng ngăn tôi tự tử, nhưng sống không có chỗ dung thân, tôi có thể ở đâu đây. Tôi không còn gì để sinh sống. Tốt hơn tôi nên bỏ mạng nơi đây cho bớt khổ!” Anh ta nghĩ vậy. Rồi người đàn ông giàu có, người lái buôn nói: “Ô, đừng lo. Anh tháo dây thòng lộng ra đi. Bất cứ gì anh nợ, nhiều hay ít, tôi sẽ trả hết cho, đừng lo!” Anh ta vui mừng quá. Dĩ nhiên tháo dây thừng ra, rồi theo người lái buôn về nhà. Hôm sau anh ra chợ để gặp các chủ nợ, nói cho họ biết ngày mai sẽ trả, nhưng dặn là đến nhà ông Lặc Na Sà Gia. Hôm sau tất cả họ đến đông quá, ông không biết là người này nợ nần nhiều đến như vậy. Ông trả cả gia tài mà cũng chưa hết nợ. Đến nỗi vợ con ông phải đi ăn xin. Cha mẹ anh em, ai cũng ghét ông nghĩ ông là kẻ điên khùng vì ông đã phá hoại toàn bộ gia nghiệp, để vợ con đói khổ! Lúc này ông đã thấy đi vào đường cùng. Lúc đó ông mới nghĩ, đường cùng rồi không còn chỗ nào để đi nữa. Đang lúc như vậy, đột nhiên có nhóm nhà buôn, mà ông quen biết trước kia, mời ông đi với họ ra biển buôn một chuyến làm ăn. Ông nói: “Thường thì tôi là người hướng dẫn cho các ông. Nếu đi thì đáng lẽ tôi phải là người mua thuyền cho các ông đi và hướng dẫn các ông đi. Những giờ tôi không còn tiền nữa, các ông nghĩ chúng ta nên làm sao?” Họ đáp: “Chúng tôi có 500 người, xin góp tiền mua thuyền. Vậy ông đừng lo.” Sau đó họ góp lại được nhiều tiền, rất nhiều vàng đưa cho ông. Ông mua thuyền một ngàn lạng, mua lương thực ăn đi đường cho hành trình của họ hết một ngàn lạng, sắm các đồ trên thuyền một ngàn lạng. Còn bao nhiêu đưa cho vợ con, và giúp anh chàng vỡ nợ nói trên. Rồi ông này đi mua một chiếc thuyền lớn cho họ. Chiếc thuyền rất vững chắc, cứng cáp và rất mạnh. Dùng bảy dây thừng buộc neo trên bờ, rồi báo cho các nhà buôn tới tụ hộp bên bờ biển. Ông nói với mọi người rằng: “Dĩ nhiên chúng ta đều yêu thương gia đình vợ con. Nhưng nếu cần đi thì chúng ta đi, vì ra biển như vậy sẽ có rất nhiều nguy hiểm, Nào là cả ma Kiết, quỷ dạ xoa, sóng to gió lớn, đôi khi có phong ba bảo táp, có khi có cá khổng lồ có thể nuốt trọn con thuyền. Còn có rồng độc, chúng ta phải chuẩn bị mọi thứ.” Khi thuyền bắt đầu đi vào biển cả mênh mông, bỗng nhiên biển nổi sóng to gió lớn làm cho thuyền nghiên ngã chực đắm. Mọi người đều sợ hãi. Trong khi đó kẻ thì nắm lấy phao cứu mạng, người thì vớ lấy miếng gỗ, người thì nhảy xuống biển cố gắng bơi càng xa thuyền càng tốt vì lúc đó thuyền rung lắc dữ dội. Lúc đó còn năm người trên thuyền thưa với ông rằng: Vì ông mà chúng tôi theo ông đến đây. Chúng tôi tin tưởng ông, nên đến đây. Những giờ chúng ta sắp chết đến nơi rồi, mong ông cứu lấy chúng tôi!” Người hướng dẫn, người mà mọi người tin tưởng nói: “Tôi nghe nói biển cả không bao giờ chứa nạp tử thi. Nên các tử thi đều trôi dạt vào bờ. Vậy các ông nắm lấy tôi, tôi sẽ tự sát thân này cứu các ông. Các ông cứ bám vào thân tôi vì biển sẽ đẩy thân tôi vào bờ, nhờ vậy các ông sẽ được cứu sống. Và tôi nguyện đem công đức nầy hồi hướng cho quả vị Phật. Rồi một ngày tôi sẽ thành Phật. Khi đó tôi sẽ dùng con thuyền Đạo Pháp chở các ông vượt qua đến bến bờ giải thoát, đi đến Niết Bàn, vào đất Phật. Các ông sẽ là những người đầu tiên tôi cứu.” Nói xong lấy dao đâm cổ chết. Đại hải bất nạp tử thi như ông nói, thần biển dùng sức mạnh lực lượng thổi gió, thổi xác ông vào bờ. Và dĩ nhiên năm người bám vào xác ông được thoát chết. Và dĩ nhiên họ trở về với gia đình. Nói tới đây Phật nhắc lại rằng: “Tỳ kheo, các ông nên biết: Ông Lặc Na Sà Gia thuở đó chính là tiền thân của ta, còn năm người bám vào xác của ta để sống sót này là năm người nhóm ông Kiều Trần Như. Lúc đó ta cứu mạng họ, tới nay ta thành Phật, ta cũng phải cứu họ trước như đã hứa.’ Nghe câu chuyện này, ai nấy đều tán thán lòng từ bi và tình thương của Phật thật vô lượng vô biên, ai nấy đều nguyện gắng sức tu, để đền đáp lòng nhân từ của Phật, để cứu độ những người khác theo khả năng của mình. Hết truyện. Câu Chuyện Của Rumi Spoken by Supreme Master Ching Hai MP4-983 A Story from Rumi Một chàng trai hỏi Mô-sê: "Xin dạy con ngôn ngữ loài vật. Hy vọng nghe được họ nói, niềm tin của con sẽ tăng thêm." Mô-se đáp: "Khả năng này nguy hiểm, con không nên muốn." Tại sao vậy? Chàng trai nói với Mô-sê: "Sư Phụ Mô-sê. Xin đừng làm con thất vọng, đây là hy vọng cuối cùng của con." Mô-sê bèn hỏi Thượng Đế: "Con phải làm sao đây? Anh ta cứ vướng mắc vào điều này", ý nói muốn học ngôn ngữ loài vật. Thượng Đế nói: "Anh ta muốn cái gì thì dạy cái đó, nhưng khả năng đặc biệt này không thích hợp cho anh ta." Vậy mà Thượng Đế vẫn nói: "Được, cứ dạy cho anh ta", dù Ngài nghĩ điều đó không tốt cho anh ta. Ý chí tự do là vậy đó. Tôi nói rồi: quý vị muốn làm gì thì làm, đó là cuộc đời của quý vị, Thượng Đế không để tâm. Cho nên Minh Sư luôn bảo: "Đừng, đừng, đừng nghe lời Thượng Đế, hãy nghe lời ta!" "Đừng có muốn làm gì, thì làm mà hãy theo những gì ta dạy cho các con thì các con sẽ được tự do." Thượng Đế cho chúng ta ý chí tự do. Chúng ta muốn làm gì thì làm, như vậy cũng được, nhưng phải mất rất lâu mới trở về được nơi khởi thủy của mình và biết được bí mật của vũ trụ. Chỉ có Minh Sư mới dạy dỗ chúng ta. Cho nên vị Minh Sư nói: "Dạ, để con thử xem." Vì Thượng Đế nói: "Từ thuở khai thên lập địa, loài người rất bướng bỉnh. Ta chỉ tạo ra có 2 người, A-đam và Ê-va, mả còn không dạy được. Ngươi bảo ta làm sao dạy đại chúng đây? Họ sinh sôi nảy nở hoài, bây giờ ta vô phương rồi." Nghe vậy vị Minh Sư nói: "Ngài cho phép, thì con sẽ thử xem." Một lần nữa Mô-sê nói: "Điều con muốn sẽ làm con khiếp sợ. Ta nghĩ con thực sự không muốn như vậy." Mô-sê nói với người đệ tử trẻ này, hoặc tín đồ trẻ. Anh chàng vẫn nhất quyết: "Con muốn điều đó! Xin dạy con ngôn ngữ của chó và gà." Ý anh ta là sự câu thông bên trong. Thần giao cách cảm. Nhưng tại sao lại là chó và gà? Tất cả loài vật đều biết nói chuyện rất thú vị, có thần giao cách cảm. Sao lại là chó và gà? Có lẽ thời đó, Mô-sê hầu như ở trong sa mạc, phải không? Họ không có nhiều loài vật ngoại trừ chó và gà, đúng không? Do đó anh ta muốn học ngôn ngữ của những loài mà anh ta biết. Mô-sê nhượng bộ, Ngài nói: "Xong rồi." Sáng ra để thử điều này, chàng trai đứng ở ngưỡng cửa nhìn người hầu rũ khăn trải bàn. Một mẩu bánh mì từ đêm hôm trước rơi xuống đất, chú gà trống nhanh chân mổ ăn. Chú chó đứng gần đó nói: "Như vậy không công bình. Anh ăn hạt bắp, món tôi không ăn được. Anh hưởng thụ lúa mạch và các món còn lại", ngũ cốc đó, "nhưng mẩu bánh vụn đó, anh biết tôi thích những đồ vụn thừa dính dầu mỡ, lẽ ra anh phải để cho tôi miếng đó chứ, ví dù sao anh cũng có những món mà tôi không ăn được." Gà trống bèn nói: "Này, đừng than phiền, hãy im lặng. Thượng Đế sẽ cho anh món khác ngon hơn món này nhiều. Ngày mai ngựa của ông chủ sẽ chết. Ngày mai sẽ là bữa tiệc cho chó." Có lẽ là thịt. Ghê quá. Khi chàng trai, chủ nhân của chú ngựa nghe thấy vậy, anh ta dắt ngựa ra chợ bán. Anh ta bán trước khi chú ngựa chết. Bởi vì bây giờ anh ta nghe được loài vật nói cho nên anh ta biết phải làm gì, thấy không? Để xem kết cuộc thế nào. Rồi ngày hôm sau cũng như vậy, gà trống nhanh chân phổng mất mẩu bánh mì còn sót lại, và chú chó lại nói tương tự. Chó nói: "Anh nói ngựa sẽ chết, nhưng xem kìa: ngựa đi mất rồi, anh gạt tôi." Gà bèn nói: "Ngựa đã chết rồi, nhưng không chết ở đây vì người chủ đã bán ngựa đi rồi, thành ra người khác bị thiệt hại." Anh ta biết, nhưng gian lận. Bởi vì anh ta bán chú ngựa theo giá ngựa sống, nhưng khi người chủ mới đáng thương kia vừa mua về thì chú ngựa qua đời. Nghĩa là người chủ mới, người mới mua bị lỗ rất nhiều. Bởi vì người này biết, rồi gian lận. Thấy chưa? Biết ngôn ngữ này chưa chi đã sinh vấn đề rồi. Vấn đề gì? Vấn đề gì? (Gian lận.) Gian lận. Không thật thà. Bán rẻ phẩm giá của mình. Nhưng có lẽ đối với anh chàng này, điều đó không thành vấn đề. "Nhưng ngày mai, ngày mai chú la sẽ chết." La, phải không? Chú lừa sẽ chết. Ngay sau đó chú lừa cũng bị bán đi. Anh đó nghe thấy hết. Vào ngày thứ ba, chú chó nói: "Đồ nói dối, chuyên môn nói dối! Bữa tiệc bất ngờ của tôi đâu, tên nói dối?" Gà đáp: "Không, không, tôi không nói dối, tôi không nói dối, chú lừa đó thật sự chết rồi, nhưng lại bị bán đi trước lúc chú chết. Tôi đoán ngày mai, tôi luôn đoán đúng, nô lệ của ông chủ sẽ chết." Người đầy tớ của chủ ngựa và lừa sẽ chết. "Thân nhân sẽ thảy ra rất nhiều bánh mì cho chó và người hành khất." Đây là truyền thống bên đó. Như là, nếu có người chết, họ sẽ ném bánh mì khắp nơi cho chó và mấy người hành khất. Dĩ nhiên anh chàng này nghe được, nên mừng rỡ bán người nô lệ sắp chết của mình đi để có lời. Ôi, thật tệ! Đoán xem việc gì sẻ xẩy ra? Người hiểu ngôn ngữ loài vật kia dĩ nhiên là vô cùng vui sướng. Anh ta cười khoái chí và nói: "Ba lần, kể từ khi ta học được ngôn ngữ của chó và gà, ta tránh được những thiệt hại to lớn." Nhưng anh ta không nghĩ đến người khác sao? Những người mua mấy thứ của anh ta, họ bị lỗ. Một là anh ta bị lỗ, hai là người khác lỗ, phải có người lỗ. Đẩy điều này cho người khác, là điều vô cùng xấu xa. Chú chó nói với gà trống: "Lần này anh viện cớ gì nữa đây? Những mẩu thức ăn vụn mà anh tiên đoán đâu rồi? Trong tổ và trước sân cửa của anh, không có gì ngoài những lời dối trá", ý nói chú gà. Trời ơi, chú chó này triết lý quá. Gà trống nói: "Không, không! Không phải vậy! Tôi vô cùng thành thật. Tôi nói thật. Gà trống rất thành thật như linh mục cầu kinh. Chúng tôi trông chừng mặt trời và cẩn thận báo giờ giấc. Thật ra chúng tôi có mặt trời bên trong. Anh có thể úp cái chậu lớn lên thân tôi, tôi vẫn gáy vào lúc rạng đông. Biết mặt trời từ bên trong là món quà Trời cho nhân loại. Chúng tôi đánh thức con người dậy, nhắc nhở họ cầu nguyện." Chú chó không nói gì cả. Tôi nghĩ chú không tin gà nữa. Rồi gà nói: "Tôi có điều tiên đoán nữa cho anh. Ngày mai ông chủ sẽ chết." Ai sẽ đi bán người chủ đây? Ôi trời ơi. "Mặc dù ông chủ còn trẻ, nhưng người thừa kế sẽ giết bò để làm tang lễ. Đồ dư thừa sẽ đến tay anh, bánh mì mỏng, giòn như anh muốn." "Cái chết của ngựa, lừa và nô lệ tạo ra cái chết cho người chủ. Anh ta mải tìm lợi lộc cá nhân từ món quà tâm linh, mà sao lãng công việc cầu nguyện hàng ngày." Khi cuộc sống quá thoải mái, quá nhiều thành công thì mình quên tạ ơn Thượng Đế. Mình quên cầu nguyện bởi vì quá thoải mái và sung sướng, không bao giờ nghĩ chuyện gì xảy ra cho mình. "Nhưng bởi vì anh ta bán 3 lần, 2 con vật chết và 1 người nô lệ cho người khác, nghiệp chướng quay trở lại với anh ta, thành ra bây giờ anh ta mới chết yểu." Sách nói vậy. "Người làm việc không nghĩ đến sự đền đáp là người yêu dấu của Thượng Đế." Phải, hoặc là bạn của Thượng Đế. Chàng trai kia nghe lời tiên đoán của gà trống, liền chạy đến với Mô-sê. "Cứu con với, Sư Phụ! Xin hãy cứu con." Bấy giờ Mô-sê nói: "Sao ngươi không tự bán mình kiếm chút tiền nữa đi? Ngươi đã trở nên quá chuyên nghiệp trong việc tránh bị tổn thất, đẩy thiệt hại cho người khác. Ở bên kia tường gạch ta thấy được tất cả, nhưng ngươi không được ngay cả khi ngươi nhìn vào trong gương." Quý vị hiểu chứ hả? Mấy người này triết lý quá chừng! Diễn giải: Sau bức tường mà Ngài còn thấy, nhưng anh chàng này lại không thấy cho dù nó ở ngay trước mặt. Đó là sự diễn giải của tôi. Cho nên chàng trai đó vô cùng khổ sở. Anh ta nói: "Xin Mô-sê đừng chế giễu con nữa." Có nghĩa là "đừng rầy la con". "Ít ra trước khi con qua đời xin Ngài hãy gia trì cho linh hồn con." Vừa nói xong, anh ta bắt đầu cảm thấy rất khó chịu. Một cái chậu được mang đến. "Hãy gắng mửa ra sự trục lợi của ngươi." Mô-sê nói vậy. Chàng trai không trả lời nổi nữa. Anh ta được 4 người khiêng đi, hai chân vắt chéo lại. Sáng tinh mơ, Mô-sê thức dậy cầu nguyện: "Xin Thượng Đế tha thứ cho hành động vô liêm sỉ của anh ta." "Những người không kín miệng không đáng được biết những bí mật vô hình. Chỉ có loài chim biển mới sống ở đại dương, kẻ này nhất định là chim trên đất liền. Anh ta đang chìm, xin hãy giúp anh ta." Mô-sê cầu nguyện cho người tín đồ này, người mà ba lần bán kẻ khác, nhưng lại không thể tự bán mình. Thượng Đế hỏi Ngài: "Con có muốn ta làm hắn sống lại cho con không, Mô-sê? Ta sẽ làm bất cứ ai sống lại từ cõi chết." Mô-sê nói: "Thưa không, chết là điều thích đáng ở đời này. Xin ban cho anh ta và mọi người đức tin ở đời sau." Và điều ước đó đã thành. Ít ra đời sau, anh ta tin Thượng Đế, rồi sẽ không ở trong tình trạng thê thảm nữa, trong địa ngục hay gì đó. "Ta kể chuyện này để nhắc nhở các ngươi", đây là lời của tác giả Rumi, "Ta kể chuyện này để nhắc nhở các ngươi rằng sự mất mát về thể xác và tài sản là tốt cho linh hồn các ngươi. Hãy mua kỷ luật và phụng sự người khác bằng cuộc đời của ngươi." Mua. Lấy và trả tiền cho điều này. "M-U-A". "Mua kỷ luật và phụng sự người khác bằng cuộc đời của ngươi. Nếu không cầu mà kỷ luật đến thì hãy cúi đầu tri ân. Khi điều đó xảy ra, nghĩa là Thượng Đế đang đặc biệt chú ý đến ngươi, Ngài đang ôm chặt ngươi và thì thầm bên tai ngươi Ngôi Lời nguyên thủy." Buddhist stories: The Brahmin With a Single Robe – Europe, Sep 18,2015 Hãy mau làm điều lành. Phật dạy câu trên khi ngụ tại tịnh xá Kỳ Viên, liên quan đến Bà-la-môn Tiểu Nhất Y Culla Ekasataka. Thời Phật Tỳ-bà-thi (Vipassi) có một người Bà-la-môn, tên là Maha Ekasataka hay được gọi là Đại Nhất Y”. Kiếp hiện tại tái sanh ở Xá Vệ là Culla Ekasataka, giờ được gọi là Tiểu Nhất Y. Ông chỉ có một cái quần khố duy nhất. Vợ ông cũng vậy, và cả hai xài chung cái áo khố. Như vậy khi anh Ba-la- môn nầy hoặc vợ ra khỏi cửa thì người kia phải ở nhà. Một hôm người ta loan báo có thuyết pháp tại tịnh xá. Mình đi nghe pháp ban ngày hay bạn đêm?” Họ hỏi nhau như vậy. Vì chúng ta không có đủ áo khố, không thể đi cùng nhau được.” Vợ người bà-la-môn trả lời: “Anh à, em đi ban ngày.” Nói vậy rồi cô vợ mặc áo khố đi nghe pháp. Người Bà-la-môn ở nhà ban ngày. Ban đêm ông đến tịnh xá, ngồi trước mặt Đức Phật, lắng nghe Phật. Khi ông nghe Pháp, ông nhận đuoc 5 loai pháp hỷ tràn ngập khắp thân thể. Vì vậy, ông phát tâm cúng dường Phật. Nhưng tư tưởng sau đó ngăn cản ông. Ông suy nghĩ: “Nếu dâng y này đến Thế Tốn thì không còn aó khố nào cho ta và vợ ta.” Một ngàn ý niệm ích kỹ không dâng y nỗi lên bên trong, thì có một ý niệm sùng tín lại muốn dâng y. Rồi những tư tưởng vị kỷ nổi lên trong đầu ông và trấn áp tư tưởng sùng tín. Dù vậy, tư tưởng vị kỷ mạnh mẽ đã chặn lại, như thường lệ, và buộc chặc rồi đẩy tư tưởng sùng tín ra ngoài. Nên ông tranh đấu bên trong. Ta sẽ dâng y. Không, không dâng. Sẻ dâng y. Không, không dâng.” Vì anh ta cứ tranh chấp bên trong như vậy, đến khi canh một trôi qua và canh hai lại đến. Và rồi ông vẫn chưa dâng y lên Thế Tôn. Đến canh cuối, người Bà-la-môn nghĩ rằng hai canh đã trôi qua, nếu cứ giằng co mãi giữa ý niệm và sùng tín và ý niệm vị kỷ. Nếu như sự thoải mái bản thân, quan tâm bản thân và ích kỷ nổi lên thì sẽ không nhắc đầu ra khỏi bốn đường khổ.” Ít ra ông còn biết điều đó. Ta sẽ vì vậy mà cúng dường. Vì thế, người Bà-la-môn cuối cùng chinh phục được hàng ngàn tu tưởng vị kỷ và chỉ nghe theo một tư tưởng sùng tín. Lấy y đặt dưới chân Thầy, nghĩa là Đức Phật. Ông kêu to ba lần: “Ta đã chế ngự được! Ta đã chiến thắng.” Vua Ba Tư Nặc xứ Kosala tình cờ cũng đang nghe Pháp lúc đó, khi nghe người đó la lớn, ông sai thuộc hạ đến hỏi chuyện. Hỏi xem ông ta chiến thắng gì vậy? Người của vua hỏi ông Bà-la-môn câu đó và người Bà-la-môn giải thích ngọn ngành cho họ nghe. Khi nhà vua nghe được lời giải thích, vua nói: “Việc người Bà-la-môn thực hiện quả là một việc khó khăn. Ta sẽ ban ân huệ cho ông.” Thấy không, ngay lập tức nhận được phước báu về việc thiện mà anh đã làm. Thật ra Đức Phật ban ân cho ông khi Ngài nhận cái áo khố hôi hám, cũ nát chắp vá. Cho nên nhà vua nghĩ là ông sẽ ban ơn cho người Bà-la-môn, Người nói đã chiến thắng sau khi hết câu chuyện. Rồi nhà vua thưởng cho ông hai bộ y phục ngay lập tức. Người Bà-la-môn cũng dâng y phục được tặng này cúng dường Như Lai, nghĩa là Đức Phật. Vua lại tặng ông gấp đôi, lần đầu là hai bộ rồi bốn bộ, tám bộ, cuối cùng mười sáu bộ. Người Bà-la-môn dâng hết cho Đức Phật. Nhà vua lại ra lệnh tặng 32 bộ còn lại cho người Bà-la-môn. Nhưng để tránh nói, tránh nói rằng: Người Bà-la-môn không giữ bộ nào cho mình, mà cúng dường tất cả những bộ mà ông nhận được,” nên vua nói với người Bà-la-môn: “Hãy giữ một bộ cho ông và đưa một bộ cho vợ ông. Nói vậy, nhà vua muốn người Bà-la-môn giữ hai bộ và để ông cúng dường 30 bộ còn lại cho Như Lai. Dù người Bà-la-môn có dâng hết những gì ông có đến một trăm lần, vua cũng vẫn đáp ứng tương xứng. Trong một tiền kiếp Đại Nhất Y giữ hai bộ trong 64 bộ nhận được. Tiểu Nhất Y giữ hai bộ trong số 32 bộ. Ô, bởi vì ông nhỏ hơn. Vua ra lệnh cho quân hầu: “Người Bà-la-môn thật sự đã làm một việc rất khó làm, nên tìm hai cái mền trong ngự phòng của ta.” Quan hầu tuân lệnh. Vua mang tặng ông hai cái mền, mền đó trị giá đến một ngàn đồng. Nhưng người Bà-la-môn thầm nhủ: “Ta không xứng đáng được đắp những cái mền nầy. Mền đó chỉ thích hợp với giáo đoàn của Phật.” Cho nên ông lấy một cái mền làm thành cái màn che, và treo trong hương thất để che giường của Thế Tôn. Cũng như vậy, ông làm một cái màn che từ cái mền kia, và treo trong nhà ông để che nơi các tỳ kheo thường đến thọ thực. Buổi tối vua đến thăm Đức Phật, nhận ra mền bèn hỏi Phật: “Thưa Ngài, ai là người vinh danh Thế Tôn món quà chăn mền làm thành lòng như vậy?” Đức Phật đáp: “Tiểu Nhất Y cúng dường.” Vua tự nhủ: “Thậm chí khi ta có niềm tin và hoan hỉ với niềm tin đó, thì người Bà-la-môn này cũng tin tưởng và hoàn hỉ như vậy. Do đó ta tặng cho ông ta bốn voi, bốn ngựa, bốn ngàn đồng, bốn phụ nữ, bốn tỳ nữ và bốn ngôi làng tốt nhất.” Do đó nhà vua khiến cho người Bà-la-môn được Quả Bốn Món. Chà! Các Tỳ kheo bắt đầu bán tán trong Pháp đường: “Ổ! Việc làm của Tiểu Nhất Y thật kỳ diệu! Ông sớm được quà tặng mọi thứ bốn cái! Ngay khi ông làm việc thiện, phước báu đến liền.” Thế tôn đến gần hỏi: “Này các Tỳ kheo, các ngươi ngồi đây bàn chuyện gì vậy?” Khi nghe kể xong, Ngài nói: “Các Tỳ kheo! Nếu Tiểu Nhất Y cúng dường cho ta vào canh đầu, ông đã nhận được quà tặng mọi thứ mười sáu cái. Nếu ông có thể làm vậy vào canh giữa, ông đã nhận món quà mỗi thứ tám cái.” Nghĩa là tám voi, tám phụ nữ, tám nô tỳ và tám ngôi làng, vân vân… Nhưng vì để trễ đến canh cuối. Hầu như thời điểm cuối cùng của canh cuối ông mới cúng dường ta món quà, nên ông chỉ nhận mỗi thứ bốn cái. Ai làm việc thiện đừng chần chờ, mà phải làm tức khắc. Một việc công đức làm chậm trễ đem lại phước báu cũng chậm trễ. Do đó ta phải làm việc thiện ngay khi có sự thôi thúc trong lòng.” Nói xong để cho thấy sự liên kết và đạo Pháp, Ngài đọc pháp cú: “Hãy gấp làm điều lành. Ngăn tâm làm điều ác. Ai chậm làm việc lành thì ý ưa thích việc ác.” |
Archives
January 2023
Categories |