20150808-Karma of Being Unfair Có một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ, tại tịnh xá Kỳ Đà, khu vườn lát vàng và giảng pháp trước đại pháp hội về nhiều điều khác nhau. Trong thành đó có một gia đình rất giàu có năm cô con gái nhưng không có con trai. Đang lúc vợ ông mang thai thì ông vãng sinh. Lúc ấy trong nước đó nếu gia đình nào không có con trai sau khi cha mẹ qua đời thì tất cả tài sản sẽ thuộc về chính phủ, trở thành tài sản công. Nghĩa là họ tịch thu tất cả tài sản của gia đình nào không có con trai. Đây là pháp luật thời đó. Vì vậy, sau khi ông trưởng giả chết, chính quyền địa phương đến muốn tịch thu tất cả tài sản. Người con gái lớn trong gia đình đó đến tâu vua: “Tâu bệ hạ cha con mới chết, nhà con không có con trai. Nhưng vào lúc này, mẹ con đang mang thai. Vậy xin bệ hạ hoãn việc tịch thu lại cho tới khi mẹ con sinh em bé được không? Ai biết được? Có lẽ đó là bé trai. Nếu vào lúc đó, mẹ con sinh con gái. Thì bệ hạ vẫn có thể tịch thu tài sản của chúng con. Vậy cũng chưa muộn, chưa quá muộn.” Cho nên, nhà vua Ba Tư Nặc, sau khi nghe cô tâu có lý, khen phải, và chấp nhận. Vua nói: “Được, con nói có lý. Phải lắm. Ta sẽ bảo quan viên địa phương trì hoãn việc tịch thu. Đừng lo.” Rồi cô bái tạ lui ra, và về nhà. Không lâu sau, mẹ của cô gái hạ sinh một bé trai. Nhưng chỉ có một thứ là con trai, đó là bộ phận của người đàn ông. Ngoài ra cậu không có gì nữa. Không có tay, không chân, không tai, không mắt, miệng lưỡi. Cho nên nhìn giống một cục thịt. Nhưng tuy vậy, bộ phận đàn ông trong rất rõ ràng. Cho nên, đó là nam tử. Rồi cô gái lớn đến tâu vua một lần nữa và trình bày rõ cho ông nghe. Vua nghe xong, ngẫm nghĩ một hồi rồi nói rằng: “Phải, em trai con tuy thế, nhưng cũng có một nam căn, vậy thì cũng kể là con trai. Vậy được, tất cả tài sản nầy thuộc về các con, chính phủ sẽ không lấy nữa. Vua tốt! Thế rồi cô gái lớn nói lời cảm ơn nhà vua và cáo lui. Mặc dù họ giữ lại được tất cả tài sản, cô vẫn cảm thấy rất buồn. Cô cảm thấy như là: Một đứa em trai nhìn không giống người chút nào. Vậy mà vẫn giữ được gia tài. Còn con gái thì không có giá trị gì hết. Cô cảm thấy không công bằng. Nên sau đó, cô rất giận, giận gì là phận gái và giận vì hệ thống luật pháp bất công. Rồi cô bỏ nhà, đi hầu hạ các nhà khác. Và từ sáng đến tối, cô nấu ăn, dâng thức ăn, trà và mọi thứ vô cùng kính cẩn, từ tốn, không khác gì người tớ gái nhà họ. Ở gần gia đình mà cô tự nguyện đến làm gần như giống như người tớ gái, mặc dù cô không cần phải làm vậy, có một ông trưởng giả khác, không phải cùng chung gia đình mà cô giúp việc. Mà là gần đó đến hỏi: “Cháu ngoan, nhà cháu giàu có. Mà sao cháu phải đến đây làm người tớ gái như vậy? Sao cháu phải làm thế?” Lúc đó, cô gái nói với ông trưởng giả: “Kính thưa bác, cha cháu chết rồi. Gia đình cháu không thiếu thốn gì cả, nhà cháu rất giàu. Nhưng trong nhà có năm chị em gái. Cho nên thường thì gia tài này sẽ thuộc về chính phủ. Nhưng may sao mẹ cháu sinh được đứa em trai, trong không giống con người chút nào. Không mắt, không cánh tay, không tai, không lưỡi, không chân, chỉ như một miếng thịt vậy. Và chỉ có một thứ đàn ông của nó là nam căn. Những mặc dù vậy, nhà vua vẫn nói đó là đàn ông, cho nên vua trả tài sản cho em trai cháu. Cháu nghĩ rằng làm phụ nữ thật vô dụng, bất lực, không xứng đáng, không giá trị. Vì vậy cháu rất buồn. Cho nên, cháu đến đây để làm việc.” Nghe vậy ông trưởng giả nói: “Ô, thôi con đừng quá buồn. Nếu cháu muốn giải thoát khỏi kiếp đàn bà, và kiếp sau được làm thân nam thì đi cùng với bác đến đảnh lễ Đức Phật.” Thế là cô gái đi cùng với ông trưởng giả. Và sau khi bái lạy Đức Phật, và đảnh lễ Ngài, ông trưởng giả nói: “Kính lạy Đức Thể Tôn cậu Mạn Tư Tỳ Lê đã có công đức gi, có nhân duyên gì mà được sinh vào một gia đình giàu sang? Và cậu đã phạm tội gì đến nỗi khi sinh ra, tuy làm thân nam nhưng không có giác quan. Cúi xin Ngài chỉ bảo cho chúng con rõ.” Rồi Đức Phật nói: “Nếu muốn biết, ta sẽ kể các con nghe. Câu chuyện đã lâu rồi, nhiều kiếp về trước. Có hai anh em trong một gia đình rất giàu có. Người anh có tên là gì đó, người em có tên là gì đó. Rồi người anh rất đạo đức, là người quân tử, trung chính và thường hay làm hạnh bố thí. Những người nghèo có thể đến với ông. Ông sẽ bố thí, giúp đỡ họ, cho đến khi họ trở nên khá hơn. Thế nên cả quốc gia rất kính nể người anh. Rồi sau đó, nhà vua cũng nghe kể về ông. Do đó, nhà vua ban cho ông chức Bình Sứ. Bởi vì nhà vua nghĩ là ông sẽ rất công bằng liêm chính đối với cả quốc gia. Ông làm chức Bình Sứ để xét những việc kiện tụng trong nước. Theo luật pháp nước nầy thời đó, những người muốn vay mượn tiền không cần viết văn tự gì phức tạp. Chỉ cần đến chỗ quan Bình Sứ này. Nếu ông chứng nhận là đủ rồi. Có một gia đình giàu có khác tên là Thi La Thế Chất. Ông vô cùng giàu có, thường cho vay tiền để lấy lãi. Một lần nọ, có một người lái buôn đến vay ông một số tiền rất lớn để đi buôn. Và ông đồng ý cho vay. Trước khi giao tiền, cả hai người đi đến trước ông Bình Sứ để làm chứng. Lúc đó ông dẫn theo đứa con con trai nhỏ của ông. Ông chỉ có một đứa con trai, cậu bé hãy còn nhỏ. Rồi ông đến và nói: “Thưa quan Bình Sứ người lái buôn nầy mượn em một số tiền lớn để đi ra nước ngoài buôn bán. Xin vui lòng làm chứng cho em. Nếu em chết sớm, thì con trai của em đây. Người lái buôn phải trả lại tiền cho nó.” Thế là quan Bình Sứ nói: “Không sao hãy yên tâm. Điểm chính là người lái buôn sẽ đi buôn và an toàn trở về và buôn bán thuận lợi.” Sau một thời gian, người cha Thi La Thế Chất chết thật. Người lái buôn ra khơi buôn bận. Nhưng không may gặp trận bão làm đắm thuyền. May thay ông tìm được một khúc gỗ và bám vào nó rồi thoát chết trở về nhà. Vào lúc nầy cậu con trai đã khôn lớn một chút. Cậu nghe kể người lái buôn gặp chuyện không may, thuyền của ông bị đắm và tất cả hàng hoá bị mất hết. Vì vậy cậu con trai không đến để đòi nợ. Lúc đó có một người khác giàu hơn thương tình ông lái buôn nên cho mượn một số tiền để có cơ hội thứ hai. Và sau khi ra khơi lần này, ông gặp may, buôn bán rất thuận lợi, kiếm được rất nhiều tiền, và trở về với một chiếc thuyền lớn chở đầy vật quý từ các quốc gia khác ở hải ngoại. Nào là vàng bạc, châu ngọc, và đá quý. Cho nên khi trở về, ông mời anh em họ hàng và thân hữu đến ăn uống vui mừng, rồi trả các món nợ. Nhưng món nợ từ Thi La Thế Chất quá lớn cho nên ông không có lòng muốn hoàn trả. Ông nghĩ chuyến đi trước khi ta trở về từ vụ đắm tàu con trai ông ta không hề nói gì. Có lẽ bởi vì khi ta vây tiền cậu con trai còn bé quá nên không nhớ. Hoặc có lẽ cậu ta thấy mình không có đủ tiền do buôn bán thua lỗ nên cậu không hỏi. Vậy có lẽ ta sẽ thử xem cậu ta có thật sự nhớ hay không. Cậu ta nghĩ thế nào về món nợ mình đã mượn của cha cậu?” Thế là, ông mặc áo đẹp nhất, cưỡi ngựa đẹp, rồi đi đến chợ. Khi đến chợ, ông gặp cậu con trai của Thi La Thế Chất. Con trai của Thi La Thế Chất hỏi ông: “Tất Bạt, dạo này, tôi nghe nói ông buôn bán phát tài. Ông kiếm được rất nhiều tiền. Có phải hôm nay ông định đến đây để hoàn trả số nợ mà ông mượn của cha tôi ngày trước?” Tất Bạt giả vờ ngẫm nghĩ và nói: “Tôi không hiểu tiền gì vậy? Tôi nghĩ cậu lầm rồi. Đó là một người khác, không thể nào là tôi. Cậu về nhà và xem lại sổ sách cha cậu đã viết ai mượn bao nhiêu. Coi lại xem.” Vậy là ông không muốn trả nợ. Do đó khi về đến nhà, ông biết rằng cậu bé còn nhớ. Ông cầm một viên ngọc rất quý đi sang nhà quan Bình Sứ. Nhưng ông không nói chuyện với quan Bình Sứ, mà nói với người vợ: “Kính thưa bà, tôi có mượn một số tiền từ Thi La Thế Chất, số tiền nhỏ, nay con ông muốn đòi nợ. Bây giờ đối với gia đình tôi đó là số tiền khá lớn. Cho nên tôi xin biếu bà viên ngọc quý nầy trị giá 100.000. Nếu cậu ấy đến kiện tôi, thì xin bà nói với quan lớn hãy bác đơn đi để tôi không phải trả số nợ đó.” Người vợ nói: “Ô, không được! Chồng tôi rất thắn thắng 100 phần trăm, rất thành thật, rất công bằng. Tôi không dám nói. Ông mang viên ngọc của ông về nhà đi.” Thế là người lái buôn nầy cố gắng dùng tài ngoại giao nói ngọt đủ điều. Rồi sau một lúc, người vợ mềm lòng, nên nói thôi hãy để đó tôi sẽ bàn với chồng tôi sem sao. Đến tối người chồng về bà nói với ông. Ông lập tức gạt phắt đi: “Đừng nói với tôi những điều như vậy! Thứ nhất nó là cháu tôi. Thứ hai tôi được nhà vua và người dân tin cậy giao cho công việc này. Tôi không thể làm việc phi pháp này. Nếu ngày mai người lái buôn đó đến một lần nữa bà kêu lính đuổi ông ta đi.” Ngày hôm sau, người lái buôn trở lại một lần nữa. Rồi bà nói với ông ta là không được. Tôi có nói với chồng tôi nhưng ông ấy hoàn toàn không muốn. Vậy ông hãy mang viên ngọc đi đi.” Sau đó người lái buôn, suy nghĩ một lúc rồi ông đưa ra thêm hai viên ngọc và ông nói với phu nhân: “Thưa bà lớn chuyện nhỏ thôi mà, bà chỉ cần nói với ông vài câu, không cần phải làm gì nhiều đâu.” Ông cứ năn nỉ. Rồi bà ta nghe êm tai, lòng tham nổi lên bà nói: “Thôi hãy để đó tôi sẽ lo cho.” Sau đó, khi ông chồng về nhà, bà cứ nài nỉ và nói ngọt rất nhiều. Nhưng ông nói không được. Rồi ông trở nên tức giận. Cuối cùng ông nói: “Không có chuyện như thế, chuyện vô lý. Tôi là một người đáng tin cậy trong quốc gia này, nếu tôi làm một việc như là nhận hối lộ thì không chỉ trong kiếp này người dân sẽ mất lòng tin nơi tôi mà ở kiếp sau tôi sẽ phải gánh nghiệp báo kinh khiếp. Làm ơn quên chuyện đó đi.” Rồi ông đứng lên đi vào phòng nghỉ. Lúc đó vợ ông mới sinh được một bé trai. Rồi bà cũng tức giận, bế đứa bé theo ông vào phòng và rất giận dỗi. Bà nói: “Ông và tôi kết duyên với nhau, hai thân như một. Cho dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta sẽ không bỏ nhau hoặc làm trái ý nhau. Đây chỉ là chuyện nhỏ thôi. Tôi đã nói hết lời để cầu xin ông, vậy mà ông vẫn không nghe. Thế thì tôi không còn thiết sống nữa. Nếu ông không giúp tôi việc này thì tôi sẽ giết đứa con trai trước, rồi tôi sẽ tự sát cho rồi.” Ông bình sứ không biết phải làm sao. Rồi ông thầm nghĩ: “Mình chỉ có một đứa con trai. Nếu nó chết, thì tất cả gia nghiệp này, mình sẽ giao cho ai? Nhưng nếu nghe theo lời vợ thì mình sẽ phạm pháp. Trong đời này, không ai sẽ tin mình nữa. Và kiếp sau, mình sẽ chịu khổ vì tội lỗi này.” Thật khó giải quyết. Rồi người vợ cứ đứng đó dùng hết sức lực cằn nhằn ông. Rồi sau một lúc, bà vẫn không lay chuyển. Thế rồi ông nói được, được. Hãy yên tâm, tôi sẽ thu xếp việc đó. Rồi sau đó, người đàn bà rất vui sướng. Sáng hôm sau người lái buôn đến gặp bà. Bà tươi cười nói: “Quan lớn đã nhận lời, và hứa sẽ lo liệu. Đêm qua, tôi phải thật sự làm ráo riết. Bằng không ông ấy không chịu làm việc đó đâu.” Thế là người lái buôn cũng vô cùng vui sướng. Cảm ơn bà rất nhiều. Sáng hôm sau, ông thức dậy thật sớm, mặc áo đẹp nhất. Lần này không chọn một con ngựa, mà là một con voi , rồi cưỡi voi ra chợ. Con trai của Thi La Thế Chất, thấy cảnh đó. Cho nên cậu nghĩ: “À, hôm nay, có lẽ người lái buôn này đến để trả lại số tiền ông ấy mượn của cha mình.” Nhưng rồi ông ấy đi ngang qua, không nói lời nào hết. Thấy vậy cậu đến hỏi: “Này Tất Bạt có phải bây giờ ông sẽ trả tiền cho tôi số tiền ông đã mượn của cha tôi không?” Rồi ông này, vì đã được quân Bình Sứ và phu nhân nâng đỡ, nói: “Cái gì? Cậu đang nói vớ vẫn gì vậy? Tiền gì? Tôi chưa bao giờ mượn gì từ cậu hoặc từ cha cậu cả. Nếu tôi có mượn tiền từ cha cậu, thì phải có người nào đó làm chứng, phải không?” Vì vậy cậu con trai nói: “Đúng! Ông quên quan Bình Sứ đã làm chứng sao?” Người lái buôn nói: “Tôi không biết gì về điều đó. Nếu cậu không hài lòng, thì đến chỗ quan Bỉnh Sứ mà hỏi.” Rồi cả hai người đến gặp quan Bình Sứ. Và dĩ nhiên, cậu con trai nói: “Thưa bác, người này có mượn của cha con một số tiền. Lúc ấy bác đã làm chứng, và con cũng có ở đó. Xin bác xét xử cho.” Quận Bình Sứ nói: “A, cháu trai cháu quên đấy. Việc này bác không biết. Về nhà đi. Đừng kiện tụng lôi thôi nữa. Hãy về nhà đi.” Cậu con trai nói: “Không, lúc đó bác nói với cha con là đừng lo, bác còn lấy tay con chỉ vào số tiền đó và nói: “Đừng lo tôi sẽ làm cho ông ấy trả tiền cho con. Tại sao bây giờ bác nói là bác không biết?” Rồi quan Bình Sứ nói: “Cháu biết, bác là người xét xử cho cả nước. Làm sao bác làm trái pháp luật được? Đừng nói nhiều nữa. Hãy về đi!” Cậu con trai nói: “Thưa bác, bác là người công bằng trung chính, bởi vậy nhà vua mới phong cho bác làm quan Bình Sứ. Cả nước tín dụng bác. Hơn nữa, con là cháu của bác. Sao bác có thể đối xử với con như vậy! Sao bác có thể phân xử bất công như thế? Được rồi. Sao cũng được, con cũng không biết làm sao. Có lẽ kiếp sau, bác sẽ hiểu Cậu con trai nói vậy với ông bác. Rồi lúc đó, Đức Phật quay sang ông trưởng giả và nói: “Trưởng giả ông nên biết quan Bình Sứ thuở đó nay chính là cậu bé Mạn Tư Tỳ Lê, người không tai, không mắt, không mũi, không lưỡi, không miệng, không tay, không chân. Bởi vì một lời nói dối thời đó, ông phải đọa địa ngục và chịu khổ khôn cùng trong một thời gian dài. Sau khi chịu xong bản án ở địa ngục trong 500 năm, ông sinh ra trong tình trạng tương tự như hiện giờ, mặc dù ông có công đức được sinh vào gia đình phú quý có quyền thế, bởi vì ông thường làm từ thiện và bố thí cho người nghèo.” Nhưng dù vậy, bởi vì một lần phán xử sai lầm gây hại tới tài sản của người khác, cho nên ông phải sinh ra 500 năm trong tình trạng này. Mặc dù ông đã làm rất nhiều việc thiện, bố thí rất nhiều thứ cho rất nhiều người. Nhưng ông không thể thoát được. Ông có công đức từ thiện. Do đó, ông luôn luôn sinh ra trong gia đình giàu có và có mọi thứ ông cần. Chỉ vì nghiệp phán xử sai, ông phải chịu như vậy. Do vậy Đức Phật nói: “Vì thế các ông cũng nên chăm chỉ giữ gìn thân khẩu ý cho cẩn thận. Đừng tạo ác nghiệp như người đàn ông này.” Mọi người đều nghe. Họ cảm thấy rất sợ hãi, nhưng đồng thời cũng được khai ngộ. Một số người đạt được đẳng cấp tu hành sơ quả. Và người khác đạt được đẳng cấp tu hành Tứ quả ở đó. Và một số khác cũng phát tâm muốn đạt quả vị Phật. Ai nấy đều rất vui mừng và cũng kính lễ Đức Phật rồi ra về.
0 Comments
BMD 161-1 Tọa thiền là Nguồn Gốc Của Tình Thương Xưa kia có một vị quốc vương chuyên môn lễ bái người xuất gia, nhìn thấy người xuất gia là bái xuống liền. Có một đại thần, lúc đó không tin có Phật tại thế, mới nói: “Ông là một vị quốc vương, là nguyên thủ của một quốc gia, người xuất gia bất kể họ như thế nào, vẫn là công dân của ông, chỉ là bộ hạ của ông. Vả lại họ giống như ăn xin vậy, quần áo rách rưới, ngày nào cũng ôm bình bát đi xin mà thôi, họ có gì xứng đáng đâu, mà ngày nào Ngài cũng đem cái đầu quý báu của Ngài vái xuống, bẩn cả đầu, quần áo cũng bị bụi bặm dính vào.” Vị đại thần nhịn không được nên nói như vậy, vi quốc vương hỏi lại ông: “Đầu của ta có giá trị lắm hay sao?” Vĩ đại thần đáp: “Đương nhiên rồi! Còn gì có giá trị hơn đầu của Ngài?” Nghe xong, quốc vương nói: “Ok! Về nhà thôi.” Lúc về hoàng cung, nhà vua gọi viên đại thần đó đem một số đầu đi bán, một cái là đầu lợn, một cái là đầu vịt, có cái là đầu bò, đầu cá, trong đó có một cái là đầu người, rồi sai bộ hạ của viên đại thần đem tất cả các loại đầu đó ra chợ bán. Trong lúc bán ở chợ, đầu gì cũng rất nhanh, bán sạch, duy có cái đầu người là bán không được; cuối cùng phải đem về hoàng cung, báo cáo với quốc vương là đầu người bán không được, con đầu cá bán được bao nhiêu tiền, đầu lợn, đầu bò bán bao nhiêu tiền, chỉ có cái đầu người là bán không được, từ sáng đến tối mà bán không được, bây giờ đã thối chết đi được, không còn cách nào bán được nữa! Quốc vương hỏi vị đại thần đó: “Tại sao đầu người lại bán không được?” Đại thần nói: “Bởi vì đầu người không có giá trị mà!’ Quốc vương nói: “Tại sao các đầu khác có giá trị?” Vị đại thần đó nói: “Bởi vì đầu cá có thể nấu riêu, đầu lợn có thể nấu ăn, đầu bò cũng có thể ăn được, da của nó có thể dùng được v.v… Nhưng cái đầu người kia không dùng được, ngoại trừ là vất đi, không còn cách dùng khác nữa.” Rồi quốc vương nói: “Như vậy cái đầu của ta cũng là đầu người, cũng vô dụng sao?” Vị đại thần không dám trả lời, nhưng bị quốc vương hỏi ép quá ông ta phải thưa: “Dạ!” Cuối cùng không còn cách nào khác nữa ông đành nói: “Dạ! Đầu của quốc vương cũng không có giá trị.” Quốc vương nói: “Như vậy ông là gian thần rồi! Ông ngăn cản cái đầu vô dụng của ta bái những người xuất gia có lý tưởng cao cả, những người đức cao trọng vọng, những người công đức vô lượng, như vậy ông là gian thần rồi! Ta muốn chặt đầu ông có được không?” Lúc đó vị đại thần liền quỳ xuống xin tha mạng. Nhà vua nhân cơ hội nầy bèn nói: “Ông nhìn những người xuất gia tuy quần áo rách rưới, nếp sống thô sơ, không có một chỗ để ở, đó là họ tự lựa chọn nếp sống này. Nhìn bề ngoài, tuy họ không có tài sản gì của thế gian, nhưng ông không biết công đức vô lượng vô biên bên trong của họ, nên ông mới dám ngăn cản ta. Nếu như ông biết được lực lượng bên trong của họ vĩ đại như thế nào, ông đã sớm bái xuống rồi.” Tự đó trở đi, vị đại thần đó thức tỉnh, tức khắc khai ngộ rồi. Không dám ngăn cản quốc vương nữa. Ngay cả một vị quốc vương muốn tu hành, cũng có người ở bên cạnh dám ngăn cản huống chi là những người bình thường yếu đuối như chúng ta, có thiên vạn chỗ trói buộc nầy. Ngay cả bạn bè cũng phê bình; thậm chí con cái của chúng ta cũng sẽ ngăn cản chúng ta. Bản tin 18 Ngoài ra Sư Phụ còn khai thị một câu chuyện về lều. Sư Phụ nói: "Chúng ta hay nghĩ rằng những người có căn lều bi gió bảo thổi sập là vì tu hành không tốt, nhưng không phải lúc nào cũng vậy; có lúc Phật, Bồ Tát vì muốn bảo vệ chúng ta, không muốn chúng ta bị ô nhiễm bởi bầu không khí của những chiếc lều bên cạnh cho nên mới an bài như vậy để cho chúng ta dọn đi. Nếu không tại sao lều của mọi người sập đổ xuống, chỉ có một người nào đó lại không bị." Sư Phụ lại tiếp tục chỉ dạy, mỗi lần có chuyện gì, chúng ta cần phải để cho mình có một khoảng trống uyển chuyển, đừng nên quá vội vã quyết định, chúng ta hãy nghĩ rằng có thể Phật, Bồ Tát có cách an bày tốt đẹp hơn, như vậy chúng ta mới không bị dính vào một nơi, không còn cách nào tiến thối được; đợi đến khi Phật, Bồ Tát cho chúng ta sự thật thì chúng ta mới không quá kinh ngạc. Có một câu chuyện Sư Phụ đã kể qua rồi: "Tại Ấn Độ có một người tu Pháp Môn Quán Âm, có một ngày ông đến một gia đình nọ, muốn thuê ngủ trọ một đêm. không biết vì lý do gì, người chủ nhà trọ ấy nhất định không cho ông ở lại, vừa chưởi, vừa đuổi, thiếu chút nữa là liệng ông ra khỏi nhà từ cửa sổ, cuối cùng ông bị tống ra ngoài. Không ngờ ông vừa đi ra khỏi căn nhà ấy được ít lâu, một quả bom từ đâu rơi xuống giết sạch cả gia đình ấy. Trước đó, người tu Pháp Môn Quán Âm nọ khẩn cầu Sư Phụ bên trong giúp đỡ, kết quả càng khẩn cầu ông càng bị đuổi, bởi vì Thượng Đế muốn thanh toán nghiệp chướng của gia đình nọ và người tu Pháp Môn Quán Âm này không có cộng nghiệp với gia đình đó nên Thượng Đế không để ông ở lại. Thoạt nhìn thì dường như Thượng Đế không nghe lời của ông, không để cho ông có nơi trú ngụ, nhưng khi việc xảy ra xong mới rõ. Đối với ông đó là sự sắp đặt tốt nhất." Sư Phụ nhân tiện lấy cơ hội này để dạy dỗ rằng: "Mọi chuyện nên để cho Thượng Đế an bài là tốt nhất. Chúng ta tu hành chưa đủ, trí huệ chưa mở mang. cách nhìn vẫn còn nông cạn, ngả chấp còn nhiều, ngạo mạn còn cao, không thể thông suốt mọi hoàn cảnh. Trước đây chúng ta cho rằng chúng ta. cầu điều gì Phật, Bồ Tát sẽ cho chúng ta thứ ấy. Nhưng sự thật không hẳn là vậy, Phật, Bồ Tát sẽ tùy hoàn cảnh mà an bài. Sư Phụ Kể, Bản tin 18 Quý vị đừng nghĩ rằng nói những lời nói dối vô hại sẽ không sao, không phải vậy, vẫn có hại cho chúng ta như thường. Ngày xưa, tại Việt Nam có một câu chuyện như sau: Có một người phụ nữ, có chồng đi đánh giặc ở phương xa, ở nhà chỉ còn có một mình cô và đứa con nhỏ. Vì cha đứa bé vắng, lại nhìn thấy mọi người đều có cha, nên đứa bé thường hay hỏi mẹ của mình: “Cha con đâu?” Người phụ nữ ấy, mỗi buổi tối khi chong đèn lên, bèn chỉ vào chiếc bóng của mình trên tưởng nói rằng: “Cha con ở đó.” Nhờ vậy đứa bé yên tâm đi ngủ. Mấy năm sau, chiến tranh kết thúc, người cha đánh giặc phương xa trở về. Lúc đó, vợ của ông vắng mặt ở nhà, vì phải đi chợ hoặc đi làm việc gì đó, chỉ còn một mình đứa bé ở nhà. Khi ông bước đến bồng đứa bé, đứa bé sợ quá chạy đi, người lính nói rằng: “Đừng sợ, đừng sợ, ta không phải là người xa lạ, ta chính là cha của con. Ta vừa đi lính về, ta là cha của con đây.” Đứa bé ấy trả lời: “Ông nói dối, ông nói bậy, cha tôi buổi tôi mới về; đêm nào cha tôi cũng đến; ông không phải là cha của tôi.” Sau đó đứa bé còn đuổi ông đi. Người lính ấy rất đau lòng, bỏ đi ra ngoài và gặp vợ ông trên đường đi về. Người lính vì nghe lời của đứa con mình nói, nên trách mắng vợ của mình một cách thậm tệ; sau đó còn nói ông không muốn sống chung với người đàn bà này nữa và ông bỏ ra đi. Người lính vừa đi vừa nguyền rủa vợ mình, sỉ nhục cô rất nhiều, cho cô là một người phụ nữ tệ bạc, không trung thành. Người phụ nữ ấy rất đau lòng, liền đi đến bờ sông tự vận. Người trong thôn xóm nghe nói người chồng của cô về và cô lại đi tự sát, nên đến giúp đỡ, người lính ấy cũng đến lo liệu việc chôn cất, nhưng không biết tại sao vợ mình lại đi tự sát, chỉ để lại một đứa bé con. Bởi vì vợ vừa mất, ông không thể bỏ đứa bé một mình. Tối hôm đó sau khi người lính đưa vợ của mình đi chôn cất xong, trở về, ông chong đèn lên, đứa bé nhìn thấy chiếc bóng của cha mình trên bức tường, liền reo mừng: “A! Cha của tôi đến rồi. Cha! Cha!” Lúc đó người lính mới hiểu được nổi oan của vợ mình, nhưng đã quá trễ rồi. Cho nên quý vị thấy: Nói dối không tốt, vẫn có thể làm nguy hại cho mình, hoặc cho người khác. Sư Phụ khai Thị Bằng Điện Thoại Từ Nhật Bổn Bản tin 18 Sư Phụ thật cảm động khi nghe mọi người cố gắng tu hành. Quý vị không lo để dành tiền mà mỗi tuần đều đến đây, điều này thật tốt. Nếu chúng ta làm người mà không lo tu hành, thì không còn nơi đâu để đến nửa, đời sống chẳng còn ý nghĩa gì. (Mọi người trả lời: Dạ). Ở Việt Nam có một câu chuyện như thế này: Có một số loài vật đối với loài người rất tận tụy hy sinh, cực khổ thế nào cũng trung thành, thí dụ chó, ngựa, hoặc những loài vật khác. Nhưng chúng thường thấy con người không tốt bằng chúng, nên một ngày kia chúng hợp lại muốn đưa kháng nghị lên loài người. Chúng đã hội hộp để bàn bạc nhưng không biết phải quyết định ra sao. Chúng cảm thấy có những chỗ chúng chưa hiểu rõ. Con người tệ hại như vậy mà tại sao Thượng Đế lúc nào cũng cho họ những điều tốt đẹp hơn mình? Cuối cùng chúng đi hỏi ý kiến một vị tu hành. Chúng nói: "Thầy ơi, chúng tôi có lắm điều phàn nàn, có nhiều điều không vừa ý muốn nói với loài người. Nhưng bởi vì chúng tôi nghĩ rằng sự phán đoán của mình không chắc chắn, nên đến đây thỉnh ý ngài." Vị tu hành trả lời; "Ok, được. Quý vị hãy nói cho ta nghe điều phàn nàn của quý vị, có những chỗ nào không vừa ý với con người." Ngựa bước ra nói với người tu hành trước: "Sư Phụ, tôi là ngựa. Chuyện gì tốt tôi cũng làm. Ví dụ trong thời kỳ chiến tranh hoặc ngày xưa nếu cần đem thông điệp gì gấp, tôi liền đi ngay. Tôi chở những vị đại tướng quân, đại quốc vương bảo vệ quốc gia, không màng đến sinh mạng của mình, có khi chết trên chiến trường. Đối với quốc gia tôi trung thành, đối với chủ tôi rất kính thương phục tòng. Nhưng tôi nhìn thấy loài người có những người không tốt, không trung quân, ái quốc, phản nghịch quốc gia, không làm tròn trách nhiệm, có lúc không trung thành với chủ của mình. Vậy con người có chỗ nào hơn tôi? Tôi không phục." Vị tu hành nghe rồi không nói gì. Tiếp theo bò bước ra: "Sư Phụ, cả thế giới nầy gạo và ngủ cốc đều do tôi giúp đỡ trồng nên. Còn rất nhiều lương thực khác thu hoạch được đều do công lao của tôi. Kết quả con người chỉ cho tôi một ít rơm khô cỏ dại, vừa lạnh vừa đói. Như vậy làm sao tôi không phàn nàn? Tôi đem chất sữa của tôi cống hiến cho họ. Bao nhiêu trẻ nhỏ trên thế giới này đều nhờ tôi nuôi dưỡng mà lớn khôn, công lao của tôi đối với họ không nhỏ. Tôi không đòi hỏi điều gì, không phàn nàn việc chi, lại rất trung thành, ngày ngày ngoan ngoãn làm việc, nhưng sao họ đối với tôi hung ác như vậy? khi tôi già đi, họ làm thịt tôi. Mỗi bộ phận thân thể tôi đều cống hiến cho họ: thịt, xương, da, lông cùng những móng tay chân. Tất cả đều dùng được. Ngài xem, có con vật nào tốt hơn tôi, tại sao tôi lại phải phục tùng loài người? Tại sao Thượng Đế lại tốt với loài người như vậy? Tại sao với họ lại tốt hơn chúng tôi? Tôi nghĩ rằng bò tốt hơn loài người. Chúng tôi có tinh thần cống hiến vô ngã, biết hy sinh. Tôi thấy ít người có những tính này. Tôi muốn hỏi ngài tại sao chúng tôi lại thấp hơn loài người?" Vị Sư Phụ ấy nghe rồi gật đầu, không nói gì. ông vẫn một mực lắng nghe. Tiếp theo là chó cũng chạy ra phàn nàm: "Sư Phụ nghĩ coi, tôi đối với người chủ một dạ trung thành. Có những lúc tôi hy sinh cho chủ của mình, cắn người, sủa người, chống cự lại kẻ lạ mặt, chỉ vì muốn bảo vệ chủ nhân tôi và gia đình của họ được an toàn. Vậy mà người ta vẫn hiểu lầm. Họ đối với tôi như thế nào? Có những lúc họ không cho tôi ăn, để tôi ngủ chỗ lạnh lẽo. Tôi vẫn không bỏ họ, vẫn một mực trung thành với họ. Có những lúc họ đánh mắng tôi rất dữ dội, tôi cũng không vì vậy mà oán than. Họ gọi một tiếng là tôi chạy đến ngay, có thái độ hiền lành ngay, đuôi vẫy qua vẫy lại. Họ đánh mắng thế nào, tôi vẫn không bỏ họ để tìm đến những người có tiền của hơn. Ngay cả lúc chủ tôi nghèo khổ, tôi cũng không bỏ họ. Tôi vẫn cùng họ đồng cam cộng khổ. Tinh thần hy sinh này, tôi cống hiến cho họ, con người tìm ở đâu mà có. Sư Phụ, tại sao Thượng Đế lại để họ hơn chúng tôi? Điều này tôi không hiểu. Xin sư phụ giải thích." Gà cũng bước ra nói: "Sư Phụ, chúng tôi là loại vật, tôi chỉ là một con gà nhỏ bé, nhưng tôi biết bảo vệ con cái của mình, bảo vệ thân thuộc của mình. Có những lúc tìm ra thức ăn thật khó khăn, nhưng khi tìm được tôi liền kêu cúc cúc cúc thật lớn, để cả giòng họ đến cùng chung hưởng. Loài người đâu được như vậy. Họ không săn sóc người khác, không bố thí. Có thì dùng lấy cho riêng mình, không có lòng thương người, không có tinh thần đoàn kết; lại tranh chấp dành giựt lẫn nhau. Tôi chỉ là một con gà nhỏ. Người ta huấn luyện tôi, bắt tôi phải đi đấu gà, dạy tôi làm những chuyện xấu, dạy tôi đá với đồng loại của tôi. Trong hoàn cảnh bất đắt dĩ chúng tôi mới làm vậy. Tôi thấy con người không bằng chúng tôi, cứ tranh dành với nhau mãi. Thấy người nào hơn, họ liền lập tức phê bình chỉ trích. Như vậy chưa đủ, còn đăng báo phỉ báng nửa. Có những người tu hành biết hy sinh cho người khác, nổi tiếng một chút, họ liền đăng báo công kích. Thư Sư Phụ, tôi thấy những người này không bằng chúng tôi. Tại sao loài người tốt hơn loài vật? Họ không có gì tốt hơn chúng tôi cả. Họ lại giết chúng tôi để ăn. Chúng tôi yếu đuối, bé bỏng như một con chim, cũng bị họ làm thịt để nướng, nấu canh, đề ăn. Hành động của họ, chúng tôi cũng không phàn nàn. Ngài thấy không, đây là một điều không công binh." Cá cũng bơi ra nói với vị tu hành: "Thượng Đế sanh ra chúng tôi sống ở biển, chúng tôi không làm phiền hà gì đến loại người. Tất cả những thứ dơ dấy họ đổ ra biển, loài cá chúng tôi đều làm cho biển sạch sẽ. Chúng tôi cũng không lên bờ gây phiến phúc cho loài người và cũng không yêu cầu họ làm điều gì cho chúng tôi. Nhưng tại sao chúng tôi sống nơi đây biển mà họ còn dùng lưới, dùng cần câu cá để bắt chúng tôi lên? Hoặc dùng thuốc để chúng tôi say, sau đó bắt chúng tôi ăn thịt. Ngài thấy loài người thật vô ơn vô nghĩa, lại hiếu chiến hung ác, tại sao Thượng Đế lại nói loài người hơn chúng tôi? Tôi nghĩ rằng loài cá chúng tôi hơn loài người." Vị tu hành vẫn tiếp tục lắng tai nghe. Sau đó cọp cũng bước ra nói: "Sư Phụ, tôi biết Sư Phụ nghĩ tôi hay ăn thịt những loài vật khác, cũng vì đói và không tìm được thức ăn khác nên mới ăn. Thượng Đế không cho tôi ăn chay; dù tôi muốn ăn chay, trên núi cũng không tìm được mễ cốc để ăn, cho nên không sao tránh khỏi chuyện ăn thịt. Hơn nữa, tôi không phải vì lòng hung ác mà ăn. Tôi cũng không muốn ăn thịt người, tôi rất tôn trọng loài người và chỉ ăn thịt loài vật khác mà thôi. Có những lúc họ gây chiến với tôi, không còn sự lựa chọn nào khác hơn, tôi mới ăn thịt họ. Vả lại tôi chỉ ăn thịt những người không có đạo đức. Còn những người có đạo đức, những người tu hành, tôi không ăn. Trên thân thể họ có ánh sáng nên tôi biết họ là người. (Mọi người cười). Những người không có ánh sáng, họ cũng giống như các loại vật khác, nên tôi mới ăn thịt họ. Nhưng tôi chỉ ăn thịt một hoặc hai người thì cả xóm đã tìm cách bắt tôi, sau đó phân thây tôi. Da của tôi họ dùng để ngồi. Nếu tôi thực sự hung ác thì sao có những người yoga ngồi lên da của tôi mà có thể nhập định được (mọi người cười). Điều này cho thấy rằng tôi không có phẩm chất xấu. Tôi lại có thể phân biệt tốt xấu, dù tôi đói cách nào cũng không bao giờ ăn thịt con cái tôi và bạn bè thân thuộc của tôi. Nhưng tôi nhìn thấy loài người có lúc giết hại lẫn nhau, ngay cả người thân, con cái họ cũng không tha. Bởi họ hung ác nên họ mới hiếu sát. Họ còn tìm cách phá hoại, gây khó khăn cho người thân trong gia đình họ, phá hoại danh dự, không để cho năm đời của họ được siêu sanh, không để cho mọi người tu Pháp Môn Quán Âm (mọi người cười), cũng không để cho người thân của họ ăn chay và bản thân họ đương nhiên là không ăn chay. Họ ở dưới núi, có rất nhiều ngũ cốc và rau cải, bây giờ khoa học lại văn minh nấu gì trồng gì cũng nhanh và cũng rẻ tiền. Như vậy mà họ nhẫn tâm giết các loài vật khác để ăn. Ăn rồi bầu không khí loài vật nhiễm vào thân thể họ, họ trở nên hung dữ, trở nên hiếu sát, công kích phỉ báng, phá hoại danh dự người khác, còn nghiêm trọng hơn là giết người nữa. Sư Phụ nghĩ thế nào? Tôi nghĩ rằng những người như vậy không tốt bằng tôi." Vị Sư Phụ nghe rồi cảm thấy loài vật rất có đạo lý nên mới nói cho chúng nghe rằng: "Thượng Đế sáng tạo ra vạn vật đều có giá trị riêng của mọi loại. Nhưng bên trong con người, Thượng Đế còn để thêm một vật gọi là "trí huệ". Con người nếu biết sử dụng trí huệ này sẽ được trường sinh bất lão, thần thông quảng đại, có thiên vạn ức hóa thân, công đức vô lượng, có thể cùng sống chung với Thượng Đế. Cho nên dù loài vật có những tài hơn người, thí dụ người không thể chạy nhanh như ngựa, bay như chim, ung dung tự tại sống trong nước như cá, hoặc trong những hoàn cảnh rất khiêm tốn, không cần nhiều thức ăn mà vẫn sống được. Nhưng con người có trí huệ, nếu biết cách tu hành, họ sẽ vượt qua thân phận con người để thành Phật, Bồ Tát, Thánh nhân, đồng một thể với Thượng Đế. Loài vật thì không được như vậy cho nên Thượng Đế mới nói con người tốt hơn loài vật." Loài vật nói: "Nếu họ không tu hành thì sao? Họ sẽ không có trí huệ, họ sẽ giống như chúng tôi sao? Họ không phải chỉ ăn cơm, ngủ nghĩ, làm việc rồi sinh con thôi sao? Trong loài vật chúng tôi tổ chức của loài kiến còn hay hơn loài người. Kiến biết tổ chức sống từng đoàn, đi không đụng nhau, không bị kẹt xe. Tôi nhìn thấy xa lộ của loài người (mọi người cười) chỉ có mấy chiếc xe mà kẹt tới kẹt lui, bóp kèn inh ỏi, gây ồn ào cho mọi người. Ngài thấy con người có gì hay. Nếu không tu hành, nhất định cũng giống như chúng tôi hoặc còn thấp hơn chúng tôi nữa. Sư Phụ, Ngài thấy có phải không?" Vị tu hành trả lời: "Đúng rồi, đúng rồi, đúng rồi." Loài vật cảm thấy thỏa mãn và cảm ơn vị tu hành. Sau đó vị tu hành này nói thêm: "Quý vị vẫn phải đối xử tốt với con người. Quý vị không nên để ý đến những sự tốt xấu của con người. Cứ làm hết bổn phận của mình là được. Sau nầy Thượng Đế sẽ biết ai tốt ai xấu. Đương nhiên người không tu hành cũng giống như loài vật vậy. Rất có thể giống như quý vị, hoặc không bằng những chỗ tốt của quý vị. Nhưng cũng có một số người tu hành, số này không phải là ít, nên quý vị phải dùng tấm lòng của mình để đối xử với mọi người, nghe lời Thượng Đế. Một ngày nào đó quý vị làm người, quý vị sẽ hiểu, sau đó quý vị sẽ tìm Minh Sư tu hành, và sẽ không còn phàn nàn nữa. Nếu bây giờ quý vị làm loài vật mà vẫn không hoàn thành nhiệm vụ, e rằng lúc quý vị làm người biết đâu cũng làm không xong, bây giờ còn phê bình người tốt, người xấu làm chi? Vị tu hành ấy lại tiếp tục nói: "Chúng ta dù là người hay là loại vật, cũng nên có tinh thần cống hiến vô ngã. Thượng Đế nhất định sẽ biết, và sẽ tưởng thưởng chúng ta." Vị tu hành giải thích cho những con vật xong, chúng vô cùng mừng rỡ và nói với vị tu hành rằng: "Cảm ơn Ngài, cuối cùng chúng tôi hiểu rõ hơn rằng giữa người và người có sự khác nhau. (Mọi người cười) Nếu như tất cả mọi người đều như Ngài, đối xử tốt với chúng tôi, thì chúng tôi đâu có phàn nàn, chúng tôi sẽ vô cùng tôn trọng loài người và theo gương của họ để học, Chẳng qua là chúng tôi thấy những chuyện không công bình, không thể làm thinh được. Nếu người nào cũng như Ngài, có tu hành, có đạo đức, có trí huệ, thì làm sao chúng tôi không vâng lời được." (mọi người vỗ tay.) BMD 199 20150823-Starving Tigress Đây là câu chuyện về hoàng tử Ma Ha Tát Đọa, hiến thân mình cho cọp ăn. Chính tôi được nghe (Anan kể) Tôi chắc rằng nhiều vị Minh Sư khác nhiều khi cũng có kể về tiền thân của họ. Có một lần Đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của một người hay giúp những người nghèo khổ, hoạn nạn. Ông Cáp Cô Độc, và Thái Tử Kỳ Đà. Tới giờ khuất thực, họ mang bình bát và đi ra ngoài khuất thực. Đức Phật mặc thêm áo, và tôi, A Nan theo hầu. Khi vào tới thành, gặp một bà lão và hai cậu con trai. Hai cậu nầy kiểu như băng đảng luôn đi ăn trộm cướp đồ của người ta. Không có nhân cách, đạo đức. Hôm ấy bị quan phủ bắt, sắp bị đem đi chặt đầu. Giờ phút hãi hùng này, tôi và Đức Phật vừa tới. Lúc đó ba người họ, đều cúi đầu lễ Phật. Và xin Phật cứu mạng. Phật bèn sai tôi đến xin vua tha mạng cho họ. Sau khi tôi đến tâu với nhà vua, vì có lời Phật xin vua phóng thích, nên nhà vua tuân lời dạy và tha cho họ tội chết. Nhờ ơn cao cả của Phật, ba mẹ con bà đến trước mặt Phật, cúi đầu tạ lễ và bạch Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn! Nhờ ơn phước của Ngài, như biển sâu, như núi cao mà chúng con được thoát chết. Chúng con không biết lấy gì để đền đáp ơn đức cao dầy ấy. Kính lạy Đức Thế Tôn, chúng con một lòng thành kính cúi đầu bái tạ. Xin Ngài từ bi hoan hỷ nhận tấm lòng thành kính của mẹ con chúng con.” Phật dạy: “Quý hóa! Quý hóa Quá! Tội phúc do mình tạo tất gây nhân quả, từ nay các ngươi nên chăm từ thiện nghiệp sau nầy tương lai sẽ tốt hơn. Sẽ gặt hái được nhiều phước báu, vui vẻ nhiều hơn.” Và ba mẹ con bà bạch Phật: “Dạ kính lạy Đức Thế Tôn! Chúng con xin tuân lời giáo huấn! Và xin cho ba mẹ con chúng con được nhập đạo tu hành.” Phật dạy: “Quý hóa thay! Muốn trút bỏ những trần duyên ràng buộc của thế tục, để tìm đường giải thoát thì ta cũng cho.” Nói xong Ngài lên tiếng rằng: Thiện Lai Tỳ kheo!” Ngài gọi xong thì cả ba mẹ con được xuống tóc và mặc áo cà sa. Và đức tin nơi Phật không dao động. Sau khi Phật thuyết pháp, những phiền não, lo âu giận dữ, ham muốn, ghen tức đều tiêu mất. Tâm ý sáng tỏ, tấm lòng rộng mở. Lúc đó 2 người con lập tức được chứng quả A La Hán, còn người mẹ thì chứng quả thấp hơn một chút. Thấy việc như vậy, A Nan cũng khen ngợi, và cũng lấy làm ngạc nhiên. Không biết nhân duyên và công đức của ba mẹ con người nầy đời trước như thế nào. Mà khi gặp Phật lập tức được chứng quả cao như vậy? Nên y quỳ xuống bạch Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn, Xin cho chúng con được biết không hay ba mẹ con người nầy đời trước có phước báu gì mà nay thậm chí đạt được quả vị tâm linh rất cao, và may mắn gặp Ngải cứu thoát nạn, rồi còn được xuất gia làm đệ tử nữa.” Phật dạy: “A Nan! Ngươi hãy để ý nghe ta nói. Ngươi nên biết cách nay đã lâu, hằng hà vô lượng kiếp. Ở Châu Diêm Phù này, có một ông vua tên là Ma Ha La Đan Na, cai trị ba ngàn nước nhỏ. Vua có ba hoàng tử, người thứ nhất tên là Ma Ha Phu Na Bình. Người thứ hai tên là Ma Ha Đê Ba. Người thứ ba tên là Ma Ha Tát Đọa. Người con thứ ba rất đặc biệt. Có phúc đức lớn, rất đạo hạnh, lòng từ bi quảng đại, tấm lòng rộng mở, chí khí cao cả. Cũng rất yêu thương nhân từ với thần dân, và rất hiếu thảo với vua và hoàng hậu. Chàng còn cúng dường rất nhiều cho những ai cần giúp đỡ ngay cả loài vật.” Một hôm, nhà vua đưa hoàng hậu, cung phi mỹ nữ cùng ba hoàng tử vào rừng chơi. Nhân lúc nhà vua nằm nghỉ dưới gốc cây, thì ba hoàng tử đưa nhau đi chơi. Đi tới chỗ nào đó trong khu rừng, chợt gặp một cop mẹ và hai cọp con. Cọp mẹ gầy trơ xương, nằm gục đầu vào tảng đá, thở thoi thóp, đang chờ chết vì đói. Còn hai cop con nằm chúi đầu vào lòng mẹ. Tuy nhìn thấy người nhưng không hề cử động, vì quá đuối sức. Nhưng cop mẹ trông có vẻ muốn ăn thịt hai cọp con. Thay thế, hoàng tử Ma Ha Tát Đọa nói với hai người anh rằng: “Hai anh có nghĩ như em không? Em thấy cọp mẹ hình như muốn ăn thịt hai con nhỏ của nó, có phải không?” Hai người kia đáp. “Phải! Anh cũng nghĩ như vậy.” Rồi vị hoàng tử thứ ba nói: “Thưa anh! Vậy nó hay ăn những thứ gì?” Hai người anh nói: “Nó thường ăn thịt sống máu tươi.” Rồi vị hoàng tử thứ ba hỏi: “Bây giờ có ai cứu được nó không?” Hai người anh bèn đáp: “Việc này khó lắm, không thể. Ở đây không có gì để giúp chúng.” Khi đó Hoàng tử thứ ba cảm thấy vô cùng xót thương! Lòng từ bi sâu sắc trong lòng trỗi dậy. Chàng thầm nghĩ: “ta từng sống thác trong bao nhiêu kiếp tới nay, bỏ thân cũng đã nhiều, sống những thân này chỉ mang đến rắc rối, gây thêm những tội nghiệp mà không ích lợi gì cho ai cả. Hay có lẽ lần này, ta hãy bỏ tấm thân phiền phức nầy, mà cho cọp ăn để đổi lấy của nguyện cho trí huệ từ bi bất diệt.” Nghĩ xong chàng rảo bước nhanh hơn, đi trước hai anh. Đi được một đoạn xa, chàng quay lại nói với hai anh rằng: “Hai anh hãy đi về trước em có chút việc riêng.” Nên hai người anh nghĩ rằng người em muốn làm gì đó. Nói rồi hai người anh bỏ đi mất. Còn người em cứ nhắm thẳng con đường cũ, đi tới chỗ ba con cọp nằm. Tới nơi gieo mình vào cho cọp ăn thịt. Nhưng cọp mẹ bị đói lâu ngày run rẩy, không thể há miệng ăn được. Hoàng tử dùng cành cây nhọn đâm vào người khắp nơi cho máu chảy vào miệng cọp. Vì là máu, nên cọp mẹ liếm từng chút, từng chút nhờ vậy dần dần lấy lại sức và tỉnh táo mới ngồi dậy để ăn thịt. Ăn thịt xong thân thể chúng đều được khỏe mạnh, chỉ còn để lại đống xương. Rồi ba mẹ con cọp dẫn nhau đi nơi khác trú ẩn. Hai người anh ngồi nơi nào đó từ xa chờ mãi mà không thấy em về, tự nhiên ruột nóng như lửa đốt, nước mắt chảy đầm đìa. Họ vẫn chưa biết chuyện gì xảy ra. Rồi hai chàng quay trở lại tìm em. Và họ thầm nghĩ rằng: Em ta có ý định cứu cọp đói. Cứ thằng lối tìm đến chỗ cọp, quả nhiên không thấy cọp mà chỉ thấy đống xương và cái đầu nằm trơ trên bãi đất. Họ biết đó là em mình. Nhìn cảnh tượng hãi hùng trước mặt, nên hai người anh ngất đi. Hồi lâu mới tĩnh lại. Cùng lúc đó, nhà vua và hoàng hậu nằm nghỉ mát dưới bóng cây. Vào lúc hoàng tử bị ăn thịt, hoàng hậu nằm chiêm bao thấy ba con chim vẹt bay vào rừng. Con chim thứ ba bị đại bàng bắt ăn thịt. Sực tỉnh dậy bà sợ quá! Liền đem chuyện đó nói với nhà vua: “Tâu bệ hạ, thiếp vừa mộng thấy ba con chim bay vào rừng, và con chim thứ ba bị đại bàng bắt ăn thịt. Thiếp nghe lời ngạn ngữ nói, chim cắt tượng trưng cho con cháu. Tất nhiên, con yêu của chúng ta gặp sự chẳng lành, đang gặp nguy hiểm.” Bà vừa dứt lời thì thấy hai cậu con lớn trở về, bà vội vàng hỏi: “Em con đâu?” Hai hoàng tử quỳ xuống thưa rằng: “Thưa phụ vương cùng hoàng hậu, Em con bị cọp ăn thịt rồi. Nhưng không biết bị cọp bắt ăn thịt hay em con vì thương nó đói mà cho nó ăn, việc đó chưa rõ.” Được tin như sét đánh bên tai. Vô cùng đau đớn, vua và hoàng hậu chết ngất hồi lâu mới tĩnh lại. Rồi vua cùng hoàng hậu và quan quân đi đến chỗ cọp. Chỉ còn thấy cái đầu, với đống xương trắng rơi vải trên mặt đất. Nhờ cái đầu mà họ biết ngay đó là hoàng tử. Hoàng tử thường đeo phục trang khác biệt. Nên cho dù bị cọp ăn thịt, quần áo và trang phục áo bào của hoàng tử vẫn còn đó. Nên họ biết đó là chàng. Ai nấy đều than khóc tiếc thương! Vô cùng đau khổ! Bây giờ về phần hoàng tử, vì lòng từ bi hiến thân mình cứu cọp đói sau khi lìa khỏi xác, được sinh về cõi Trời. Lúc đó chàng tự nhủ: Ô, bây giờ ta có thiên nhãn, coi xa năm cõi như coi chỉ tay. Chắc đời trước đây ta làm phúc gì, nên mới được công đức như vậy. Chàng vẫn chưa biết. Nghĩ xong nhìn xuống nhân gian thấy mình là hoàng tử vì hy sinh cho cọp. thi thể nằm ở rừng xanh. Phụ mẫu cùng hai huynh và triều thần hãy còn đang khóc than đau đớn. Hoàng tử động lòng thương cha mẹ và mọi người. Chẳng lo lắng cha mẹ vô minh mê muội sợ đau buồn quá có thể chết liền từ trên trời bay xuống đứng trên hư không thưa rằng: “Kính thưa phụ hoàng và mẫu hậu! Xin đừng quá đau buồn. Đừng quá thương khóc hoàng tử nửa. Nên trở về hoàng cung trị quốc. Chăm lo cho thần dân. Đừng chỉ vì một người mà làm hao tổn sức khỏe và tinh thần nữa.” Nhà vừa mới hỏi: “Ông là vị thần nào? Xin cho chúng tôi được rõ. Làm sao ông biết được việc này?” Hoàng tử, trong hình dáng một vị thần bèn nói: “Con là con trai của người đây, là hoàng tử Ma Ha Tát Đọa đây. Bởi vì con xả thân cứu cọp đói nên con được sinh lên cõi trời Đẫu Suất. Một trong những cõi trời cao. Kính thưa phụ vương, tất cả muôn vật cho đến nhân sinh, nếu có thân thể, nếu được sinh ra, thì một ngày nào đó cũng sẽ ra đi hoặc bị hủy diệt. Tạo ác thì sẽ đi địa ngục, làm lành được sinh lên cõi Trời. Sống chết là định luật cho tất cả chúng sinh. Phụ vương đừng lo buồn làm chi cho hao tổn tâm can và sự bình an, nên tĩnh ngộ và cố gắng tu hành theo bước của Phật.” Nhà vua nói: “Ngươi làm hạnh đại từ tế độ cho chúng sinh, ngay cả loài vật. Nhưng bỏ ta mất mặt đau buồn mà chết! Đau đớn không tả xiết, vậy người tu hành đại từ có xứng hay không?’ Nghe nhà vua nói, hoàng tử dùng biện tài vô ngại giảng giải rằng mọi thứ tốt xấu đem những ý nghĩa nhiệm mầu cao siêu xuất phầm giảng giải cho vua và hoàng hậu để báo tạ tình thương và từ ân của họ. Khi đó nhà vua và hoàng hậu mới ngôi lòng, và tỉnh ngộ tâm thức. Không còn thấy quá buồn khổ nữa, rồi sai người thử bỏ hài cốt chàng vào hòm tháp bảo làm lễ an táng và xây tháp cúng dường. Họ để hài cốt trong cái tháp để mọi người có thể đến tưởng nhớ, cúng dường Tới đây cha mẹ và con nói lời từ biệt. Hoàng tử trở về Thiên Đàng. Người của hoàng gia trở về hoàng cung. Phật nói tới đây rồi Ngài nhắc lại cho A Nan: “Này A Nan! Nhà vua thuở đó là cha của ta ngày nay, hoàng hậu thuở đó nay là mẫu thân ta. Hoàng tử Ma Ha Phu Na Ninh nay là ông Di Lạc, hoàng tử Ma Ha Đê Ba này là ông Ba Tư Mật một trong các đệ tử của Ngài. Còn hoàng tử Ma ha Tát Đọa chính là ta đây. Đó là một trong những tiền kiếp của ta. Cọp mẹ lúc đó nay là bà lão nầy, hai cọp con tức là hai người con trai này. Lúc đó ta cứu ba mẹ con họ, tới nay ta thành Phật, ta cũng lại cứu mạng họ và cứu linh hồn họ.” Phật thuyết xong thì tôi (A Nan) và tất cả mọi người trong pháp hội vô cùng vui sướng hoan hỷ, và vô cùng chấn động. Kính mến đức hy sinh cao cả của Ngài, tinh thần cao thượng của Ngài. Ai nấy đều tán thán và cúi đầu lễ tạ lui ra. |
Archives
January 2023
Categories |