Ngày xưa, khi Thượng Đế sáng tạo vũ trụ, Ngài cũng tạo dựng nên thế giới này của chúng ta. Ngài sáng tạo ban ngày và ban đêm, trăng sao, cũng như bầu trời, biển cả và đất đai; Ngài còn sáng tạo chim bay trên trời, cá bơi dưới biển, loài vật sống trên đất liền. Ngài thích thú nhìn những sáng tạo của Ngài. Vì vũ trụ này được sáng tạo cho loài người, nên Ngài bắt đầu tạo ra người nam và người nữ. Thượng Đế đã sáng tạo Adam và Eva và cho họ cai quản thế giới này, kể cả cây cỏ, chim muôn cầm thú và các loại cá dưới biển. Ngài cho họ một nơi đẹp đẽ để ở, có những giòng sông thanh mát, có bóng cây và các loại trái. Nơi đây được gọi là "Vườn Địa Đàng." Adam và Eva rất vui với những gì họ có. Tuy có một điều Thượng Đế ngăn cấm họ: Đừng ăn một thứ trái trên một thân cây đặc biệt. Nếu ăn vào, họ sẽ chết. Adam và Eva tuân theo lời Ngài và sống như những người bạn của Thượng Đế vậy. Nhưng có một người muốn phá hoại thế giới của Thượng Đế. Một ngày nọ khi Eva đi ngang qua thân cây đặc biệt nọ, bà nghe một tiếng nói rất ngọt ngào, gọi bà ta. (Người Tây phương gán cho rắn một cái tên không hay, nói là rắn chuyên môn mê hoặc người, cho rằng Satan là một loại rắn). Thân cây này được gọi là "cây nhận biết thiện ác". Âm thanh nọ nói với bà: "Hãy nhìn trái cây xinh đẹp này! Bà sẽ thèm. Hãy nếm thử đi và bà sẽ trở nên thông minh như Thượng Đế". Nghe những lời nói dịu dàng của rắn, Eva quên mất lời của Thượng Đế đã dặn, vì bà muốn trở thành thông minh như Thượng Đế, và muốn làm những điều bà thích. Cho nên bà đã đưa tay hái trái của cây nọ và ăn, sau đó còn để dành cho Adam. Kể từ hôm đó, mọi việc không hay bắt đầu xảy ra. Thượng Đế đã biết chuyện Adam và Eva làm, bởi vì không một ai có thể che mắt được Thượng Đế. Kể từ đó, họ không còn là bạn của Thượng Đế nữa! Thượng Đế bảo họ ra khỏi vườn địa đàng. Họ đã từng có một đời sống thật hạnh phúc trong Vườn Địa Đàng, đi dạo và trò chuyện cùng Thượng Đế. Bây giờ thì thần hộ pháp cầm gươm đứng bên ngoài Vườn Địa Đàng canh giữ, vĩnh viễn không cho Adam và Eva quay trở về. Từ đó họ phải làm việc cực nhọc. Bây giờ họ đã thể nghiệm về sự đau khổ, nhưng một điều tệ hại hơn là Thượng Đế còn cho họ một lời cảnh cáo rất đáng sợ, đó là dần dần họ sẽ bị già và chết đi. Sau khi rời khỏi vườn địa đàng, Adam và Eva có hai người con, một người tên là Cain, và Abel. Chúng dần dần lớn lên và Cain trở thành một nông phu, trồng trọt ngũ cốc. Abel trông coi đàn dê của cha mình và là một mục đồng. Khi mùa gặt, Cain đem cúng dường một phần mùa màng của mình lên Thượng Đế, như một sự tri ân, còn Abel thì cúng dường đàn dê. Chúng ta biết cả hai đều là những món quà rất tốt. Nhưng chúng ta không thể dùng quà để đổi lấy tình thương của Thượng Đế, vì Ngài biết chúng ta thực sự là gì. Abel là một người chính trực nên Thượng Đế rất vui vẻ nhận những món quà của ông, vì thế Cain ganh tức. Ông ta rất ghét người em trai Abel của mình, và Thượng Đế cũng không thích những món quà của ông. Một ngày nọ trên cánh đồng, Cain phản đối Abel và giết chết Abel. Khi giết Abel, ông nghĩ là không ai biết hành động của ông, nhưng Thượng Đế đã biết và Thượng Đế đã xử phạt Cain, đuổi Cain và người nhà của ông đi, vĩnh viễn không được trở lại. Thế giới của chúng ta đã từng qua một thời gian rất đẹp, nhưng bây giờ đã bị vĩnh viễn hủy hoại. Quý vị có hiểu câu chuyện này không? Không phải vì ăn một trái cây nào đó mà thành nên tệ hại như thế. Mà ý đây muốn nói là mọi người đều biết được tốt xấu và được quyền lựa chọn. chúng ta không nên làm những gì không nên làm, nếu như đã biết không nên làm mà cố ý làm, sẽ gây hỗn loạn cho đời sống của mình, biến thành phức tạp, không còn đơn thuần nữa mà trở nên đau khổ. Trái của cây nọ là biểu tượng cho việc chúng ta không nên làm. Nghe theo lời chỉ thị của Thượng Đế là chúng ta làm những chuyện hợp lý, cả cuộc đời đừng làm hại ai. Dù quý vị không tu hành, nhưng có ăn chay, trì giới, đối với thế giới cũng đủ tốt rồi. Như những học trò theo tôi vậy, chúng ta có quyền lựa chọn, những chuyện gì không nên làm thì không làm, chuyện gì đáng làm thì làm. Điều Thượng Đế Muốn Không Có Gì Đặc Biệt Thượng Đế đã chăm sóc cho họ tốt như thế, cho họ đủ loại thực phẩm và thú vui. Họ không thiếu thốn một điều gì. Điều này cho thấy rằng tình thương của Thượng Đế là vô hạn, con người không phải làm việc, lại không phải lo lắng, mỗi ngày lại được ăn uống vui chơi. Thượng Đế có yêu cầu họ làm những điều gì kinh thiên động địa không? Không! Ngài chỉ bảo: "Tất cả mọi thứ đều có thể ăn, chỉ có thân cây nọ là của Ta, để cho Ta, và không được ăn." Kết quả thân cây ấy họ cũng không tha. Có phải là họ không có thức ăn đâu? Họ còn thiếu thốn gì nữa? Thượng Đế chỉ yêu cầu họ một điều thôi, họ lại làm không được! Thượng Đế đã tạo nhiều thứ như thế để con người được thỏa mãn thế mà vẫn còn phạm lỗi! Cho nên ngày nay chúng ta ở trong tình trạng tệ hại, bị quyến rũ nặng nề và bơi lội trong biển khổ. Thế giới của chúng ta đau khổ như thế, tràn ngập sinh lão bệnh tử. Nhưng lúc đó họ không bị bệnh, không già, không chết, không vì đời sống mà tranh đấu, nhưng Thượng Đế chỉ yêu cầu họ một điều nhỏ nhặt mà họ làm không được. Thượng Đế nói mà họ còn không nghe, huống chi tôi nói, tôi mà đáng kể gì? Adam và Eva biết rõ rằng Thượng Đế tạo ra mọi vật để cho họ thụ hưởng. Họ biết Thượng Đế là chủ nhân của họ, ít nhiều gì cũng đều cho họ, chỉ có một trái của cây đó là không được ăn, thế mà họ vẫn hái xuống ăn! Thật ra, thân cây nọ cũng chẳng có gì đặc biệt, cũng giống như những cây khác thôi. Chẳng qua Thượng Đế muốn xem họ có thể vì Thượng Đế mà không ăn không, kết quả một chuyện đơn giản như thế cũng không làm được. Lời nói của Thượng Đế không nghe, lại nghe lời dụ dỗ của con rắn! Nghe người khác nói còn có thể được, thế mà lại đi nghe con rắn! Lời nói của rắn còn quan trọng hơn lời nói của Thượng Đế chăng? Quý vị xem thì biết, cho nên có đọa lạc, luân hồi, sanh tử, thì đừng có trách ai! Nếu như câu chuyện này có thật, chúng ta không nên trách cứ Thượng Đế, Ngài đã đối xử với loài người tốt như thế, chăm sóc chu đáo như thế, lại không đòi hỏi gì, chỉ bảo tránh xa một thân cây thôi, thế mà vẫn hái xuống ăn. Không tin Thượng Đế, lại tin một thứ khác ngoài Thượng Đế, ngay cả rắn cũng tin. Sau khi nuốt vào rồi mới biết tự mình gây ra đau khổ, biết được tốt xấu. Thượng Đế biết niềm tin của họ không sâu đậm, cho nên họ không đáng được làm bạn của Thượng Đế. Thế giới của chúng ta có rất nhiều điều, mỗi thứ có những giá trị khác nhau. Ví dụ chúng ta muốn mua kim cương thì phải trả bao nhiêu tiền, mua vàng thì rẻ hơn, mua bạc thì rẻ hơn nữa, mua một đống sắt thì chỉ có vài trăm bạc mà thôi, còn mua vàng, cũng cỡ đó thì tốn gấp mười lần. Cũng vậy, chúng ta muốn làm bạn với Thượng Đế, muốn hưởng thụ thế giới của vườn địa đàng thì phải giữ quy luật. Ngay cả một thân cây cũng không tha, làm sao mà có thể ở trên đó được? Nếu muốn sống chung với nhau thì cần phải tôn trọng lẫn nhau, tôi muốn anh làm thế này, anh muốn tôi làm thế nọ, mọi người hợp tác mới được. Đạo lý của câu chuyện là như thế, không phải là Thượng Đế yêu cầu điều gì. Bởi vì Thượng Đế nghĩ rằng nếu như cho họ tất cả, sau đó lại không đặt cho họ quy luật thì có vẻ như đơn điệu quá. Cho nên Ngài cho phép dùng tất cả, chỉ có cây đó là không được, để cho có màu sắc, kết quả họ không biết cái đạo lý này. Thượng Đế là một ân nhân vĩ đại như thế, mà họ cũng mặc kệ, nghe lời của con rắn, thật là đáng ghét! Nghe rồi là "tiêu" luôn. Nếu như quý vị nghe lời, tôn trọng con rắn hơn Thượng Đế, đương nhiên quý vị không đáng làm bạn của Ngài, phải không? Quý vị đã làm mất đi niềm tin của Thượng Đế, bầu không khí hợp tác không còn nữa, quý vị muốn làm theo ý riêng, không tôn trọng ý kiến của Ngài, cho dù ý kiến của Ngài không làm phương hại đến quý vị, và Ngài đã cho quý vị đủ dùng, quý vị còn muốn gì nữa? Đó là ngã chấp, muốn được vĩ đại như Thượng Đế. Đề Cao Cảnh Giác Về Ngã Chấp Nếu quý vị không vĩ đại như Thượng Đế thì sao? Vườn địa đàng đã đủ rồi. Mỗi ngày đều có cơm ăn, áo mặc đầy đủ, muốn gì cũng có, mà còn muốn thành Thượng Đế? Để làm gì? Con người chúng ta thường có trở ngại về ngã chấp này. Muốn được làm vua, địa vị cao nhất, tốt nhất. Vì thế chúng ta mới bị gạt vào thế giới của bon chen và giành giật này. Chúng ta kiếm nhiều tiền đề giàu có hơn người khác; trang điểm thật nhiều để xinh đẹp hơn người khác; mua thật nhiều quần áo mắc tiền để trông sang trọng hơn. Mọi người tranh đua với nhau. Càng tốt đẹp hơn thì càng tranh đua nhiều vì dường như luôn có người đi trước chúng ta, không cần biết chúng ta tốt đẹp ra sao. Câu chuyện Thánh kinh này không phải chỉ về một miếng trái cây mà còn có ý nghĩa đạo đức. Người xưa không dám nói thẳng, sợ phiền phức cho nên phải dùng ẩn dụ, dùng rất nhiều phương pháp để nói cho người đương thời nghe. Nếu như quý vị đọc Thánh Kinh hoặc là đọc quyển sách này "Câu chuyện Thánh Kinh" cũng đủ rồi. Quyển sách này chọn lọc rất nhiều chuyện hay, nhưng giản dị, trẻ em cũng có thể hiểu. Qua câu chuyện này, quý vị cũng cảm thấy rất kinh hãi và bất tiện biết bao cho việc tu hành của người xưa. Thường thường họ bị đố kỵ và sống trong nguy cơ bị bắt giết. Người tu hành phải giỏi hơn, thông minh hơn, hiểu biết hơn và nhiều tài năng hơn người thường về mọi phương diện, cho nên họ hay bị đố kỵ và gặp nguy hiểm. Chỉ đọc Thánh Kinh, quý vị cũng thấy việc tu hành trong quá khứ khó biết bao. Câu chuyện đầu tiên trong Thánh Kinh đã cho chúng ta những điểm hay để học hỏi. Nó không phải chỉ là vấn đề trái cây mà là vấn đề quy luật, tôn trọng và sự hợp tác lẫn nhau, vấn đề ngã chấp! Adam và Eva không muốn nghe theo những chỉ thị, mà chỉ muốn vĩ đại hơn người khác, ngay cả Thượng Đế. Nhưng làm như thế là ngu xuẩn. Nếu muốn hay hơn Thượng Đế, thì có phương pháp khác. Có thể hỏi Thượng Đế: "Tại sao Ngài lại hay như thế? Ngài có thể dạy cho chúng tôi làm như thế được không?". Được vĩ đại nghĩa là Thượng Đế phải có công đức, nhất định Ngài có phương pháp tu hành, không phải chỉ một ngày mà Ngài trở nên tài giỏi. Cho nên họ phải nói với Ngài điều họ mong ước. Cướp giựt sau lưng người khác không phải là một phẩm chất tốt. Thượng Đế đã đối xử với họ tốt như thế, kết quả họ làm chuyện xấu sau lưng Ngài. Con người là thế đó. Mục Tiêu Càng Lớn, Giá Trị Càng Cao Tôi đã nói với quý vị, mỗi việc đều có giá của nó. Cũng vậy, quý vị theo tôi tu hành, quy luật tương đối nghiêm khắc nhưng quý vị sẽ được đền bù. Mọi người đều biết rõ điều này. Nếu không tại sao phải tu? Mua vàng khác với mua sắt. Nếu quý vị muốn được điều gì thì hãy làm đi. Hãy lấy tôi làm thí dụ. Cách đây ít lâu tôi phải đi giải phẫu, nhưng chưa xong đâu. Tôi còn phải luyện tập bắp thịt và giây thần kinh mỗi ngày ba, bốn tiếng, nếu không nó sẽ bị thuốc tê làm liệt đi. Bác sĩ đem những sợi dây thần kinh buộc chỗ này nối chỗ kia, bây giờ nếu không tập luyện, nó sẽ nằm ỳ đó, không chịu làm việc, đình công. Mỗi ngày phải làm việc ba, bốn tiếng, trong sáu tháng như vậy mới hồi phục, mà không chắc nữa, huống chi chúng ta muốn cầu được những thứ cao đẳng hơn, mỗi ngày không làm việc siêng năng thì sao được? Đó là quy luật, không tôn trọng nó là không được, nhưng quý vị cũng đều đã biết, quý vị làm việc không nhiều nhưng vẫn có kết quả, nhưng không nhiều như những người làm việc siêng năng. Muốn những thứ của thế giới đã khó rồi. Muốn giải phẫu cần phải tốn mấy trăm ngàn đồng tiền Formosa. Giải phẫu xong lại rất đau đớn, thật là đau đớn! Mấy tiếng đồng hồ đầu tiên nằm mê man, tỉnh dậy trên thân chỗ nào cũng đầy ống, đau đớn lung tung. Hơn thế nữa, quý vị có thể không hoàn toàn là hết hẳn, cũng vẫn phải tiếp tục chịu đau đớn, không phải là hết ngay, rồi mỗi ngày phải luyện tập mấy tiếng. Những thứ của thế gian không giản dị hoặc là miễn phí. Dường như những thứ của Thượng Đế cho tương đối giản dị hơn, Ngài đã tạo ra cả một vườn địa đàng chỉ để cho hai người hưởng thụ, chỉ ngăn cấm có một trái cây. Kết quả là họ đã ăn. Điều này cho thấy rằng con người không bao giờ thỏa mãn, cho bao nhiêu cũng không đủ. Cho nên nếu như có một người nào đó đối với quý vị không tốt, hoặc bỏ đi, quý vị đừng nghĩ rằng mình không tốt, không nhất định là như thế! Là do lòng người rất khó mãn nguyện. Có điều này lại muốn điều nọ. Quý vị có để ý thấy rằng đầu óc của chúng ta thật là tệ hại? Cả ngày làm quấy rầy chúng ta. Có được điều này rồi, thì nó nói: "Không! Còn muốn cái kia nữa!" Cho nên cả ngày chúng ta bận rộn rất nhiều việc. Cho nên chúng ta cần phải coi xét nó, phải viết nhật ký tu hành, xem có thật sự cần không. Chúng ta phải quan sát một cách kỹ càng, nếu không thật sự cần lắm thì đừng cho nó! Quý vị càng cho, nó càng đòi hỏi và chúng ta càng bận rộn, mà không biết bận cái gì. Thí dụ, trong nhà quý vị tích trữ rất nhiều thứ, cả năm không dùng đến một lần. Có khi sau khi mua rồi chỉ dùng một lần mà thôi, rồi quên hẵn đi. Có nhiều món vật dụng như vậy đó. Đừng Nhầm Lẩn Thiếu Kỷ Luật Với Tự Do Nếu chúng ta làm cho đời sống của mình đơn giản hơn một chút thì nó không bị phức tạp. Chúng ta cần phải quan sát đầu óc của mình, coi nó muốn điều gì, nó dùng cách gì để được những điều đó, nó làm phiền chúng ta ra sao và cầm giữ chúng ta như thế nào. Một khi chúng ta đã phân tách kỹ càng, chúng ta sẽ có một cái nhìn rõ ràng hơn. Chúng ta phải nghiêm khắc với mình một chút, tự quan sát mình cũng như bên ngoài thân thể mình và hỏi: "Ngươi muốn cái này để làm gì? Còn thích điều gì nữa sau khi được cái này? Muốn được điều này, phải tốn bao nhiêu thời gian, bao nhiêu tiền, bao nhiêu công sức mới được nó? Ngươi sẽ làm được gì với cái này?" Hãy nghiêm khắc phân tích những câu hỏi này kỷ càng, nếu không chúng ta sẽ làm nô lệ cho đầu óc, rồi nghĩ rằng mình rất tự tại, muốn làm điều gì thì làm. Không! Đó là vô kỷ luật, không phải là tự do. Người tự do là người chuyện gì cần mới làm, biết không đúng là không làm. Không phải đầu óc muốn chúng ta làm là chúng ta làm, như thế là làm hư mình. Chúng ta sẽ không bao giờ tiến bộ theo cách đó. Nó chỉ tốt cho chúng ta nếu chúng ta nghiêm khắc với chính mình, không phải với người khác. Thế giới này không có một vật gì cho không cả. Chúng ta phải nỗ lực làm việc thì mới đạt được những điều mình muốn. Chúng ta phải nghiêm khắc với chính mình, rất nghiêm khắc, để có thể đạt được phong cách và trình độ mà chúng ta theo đuổi. Nếu như chúng ta muốn nuông chìu, làm hư bản thân mình, thì dễ quá. Chúng ta chỉ việc làm theo những gì đầu óc sai khiến và tin rằng đó là tự do. Không ai xen vào, không ai bận tâm; chính mình cũng không thắc mắc gì cả. Nhưng như thế là sai. Đó là nô lệ không phải tự do. Thế giới điên đảo, họ nghĩ rằng những quy luật và đạo lý mà tôi nói rất khó tiếp nhận mặc dù tôi nói sự thật. Họ nghĩ rằng tôi quá nghiêm khắc với họ và họ chịu không nổi! Họ muốn làm gì thì làm vì như vậy dễ dàng hơn. Nhưng đường hướng dễ dãi đó sẽ dẫn chúng ta đi về đâu? Chúng ta có thói quen đi trên con đường dễ dàng, không cần biết con đường đó có đúng hay không. Bởi vì nó là con đường dễ dàng và thoải mái nên cứ đi, không muốn quay đầu xe trở lại. Cứ tiếp tục tiến tới tiện hơn là quẹo lại, không cần biết nó càng lúc càng xa mục tiêu của chúng ta. Tiếp tục tiến tới thì cũng được, nhưng trước tiên chúng ta phải chắc chắn rằng là đúng đường. Không phải chỉ vì đây là xa lộ lớn mà lúc nào chúng ta phải tiến tới. Nếu nhà chúng ta ở hướng khác thì chúng ta cần phải quay lại, quay đầu xe lại cho dù có khó khăn như thế nào đi nữa. Chúng ta không thể cứ tiếp tục tăng vận tốc xe chỉ vì nó là xa lộ lớn, không bỏ cuộc vì nó là đường nhỏ. Nếu bỏ cuộc, chúng ta không bao giờ trở về nơi mà chúng ta mong muốn. Không phải cứ cắm đầu đi là tự do, không phải vậy, như thế là ngu xuẩn. Sự khác biệt nằm ở chỗ thiếu sự tự kiểm soát lấy mình. Người vô trách nhiệm có thể trông giống như người có tự do, vì họ làm điều mà họ muốn và họ nghĩ là họ tự do. Không, người đó đang thiếu bổn phẩn và quá dễ dãi với chính họ. Bây giờ quý vị thấy. Câu chuyện Vườn Địa Đàng này, không phải chỉ nói về một miếng trái cây. Đó là một ẩn dụ rằng muốn nghe lời người khác không phải là chuyện dễ. Khi người ta bảo chúng ta đừng làm, chúng ta cứ nhất định làm. Đầu óc của chúng ta luôn làm rối loạn theo cách này, làm những gì được bảo là không làm. Vì thế Adam và Eva nghe lời một con rằn chỉ vì một miếng trái cây. Họ biết Thượng Đế đối với họ tốt như thế, cho họ cả thế giới để xử dụng mà họ không biết cảm ơn, lại đi nghe lời đường mật của con rắn, ăn thứ mà Thượng Đế bảo họ đừng ăn. Chúng ta không nên ăn trộm bất cứ thứ gì của ân nhân chúng ta, không cần biết trông nó hấp dẫn chừng nào. Nếu chúng ta thực sự muốn thì phải nói với Ngài. Họ đã được cả thế giới và vẫn chưa hài lòng. Họ được dặn là đừng ăn trái cây, vậy mà họ vẫn cứ ăn. Vấn đề là không dễ gì giữ cho mình đi đúng đường, vì chúng ta luôn nghe theo những người xấu. Luôn Tự Xem Xét Bên Trong Bên trong chúng ta có hai con người: Một người tốt và một người xấu. Con rắn là con người xấu bên trong chúng ta. Chúng ta biết mình không nên làm, vậy mà vẫn vô ý làm, hoặc cố ý làm, bởi vì không đủ trí huệ, không đủ khả năng phán xét. Cho nên, mỗi ngày chúng ta cần phải kiểm soát bản thân mình, để biết đầu óc của chúng ta thật sự muốn gì, có thật sự cần thiết không, hay chỉ là một chuyện nhỏ mà làm to lên? Đôi khi làm mất thì giờ của chúng ta mà không còn thì giờ suy nghĩ những việc cần thiết? Đôi khi chúng ta đi chợ mua thức ăn, chúng ta đã mang về nhà những thứ đang quảng cáo bên ngoài chợ và quên mất những thứ quan trọng phải mua mà chúng ta đã định mua trước khi tới tiệm. Chúng ta cứ quanh quẩn trong tiệm và mua món này món kia. Sau đó chúng ta hết tiền, cửa tiệm đã đóng cửa hay chúng ta có thể quên mua. Dầu sao, cuối cùng chúng ta chúng ta về nhà với rất nhiều món vô dụng, và không có những thứ mình định mua. Bây giờ quý vị đã nghe qua câu chuyện, quý vị có thể biết tại sao có người đối xử không tốt với chúng ta mặc dù chúng ta tử tế với họ. Ngay đến ông Trời cũng chưa thỏa mãn được lòng người, thì chúng ta làm sao cho được? Con người là thế đó. Chúng ta hãy nhớ câu chuyện này và nhắc nhở chính mình chớ nên như những người này. Nhưng điều này rất khó làm, vì chúng ta rất dễ phạm lỗi lầm và lại thích nghe lời của rắn. Những người nói ngọt ngào là những người rất tai hại! Cho nên người Âu Lạc rất sợ những người nói ngọt, những người nói ngọt ngào phải coi chừng. Đường và kẹo đối với chúng ta đều không tốt. Đường hủy đi chất vitamin của chúng ta, nghe nói như thế. Nên quý vị thấy những người ăn nhiều đường, hoặc uống cà phê bỏ nhiều đường, họ rất kích động, vì họ thiếu vitamin, ăn quá nhiều đường, răng cũng bị hư hết. Những thức ăn quá ngọt thì không tốt, ăn nhiều bánh ngọt sẽ mập, áp huyết cao, bệnh tim, đều là những bệnh chết người. Cho nên những thức ăn ngọt đều không tốt; lời nói ngọt cũng không tốt. Nhưng thế giới này đều thích ngọt ngào, cho nên mới phiền phức. Nếu lời nói của con rắn không ngọt, thì có lẽ Eva sẽ không ăn! Bởi vì nói ngọt quá nên bà ta ngu đần ăn vào, kéo theo cả chồng của bà xuống. Vì câu chuyện này nên người ta mới nghĩ rằng đàn bà và rắn không khác nhau mấy, đều làm mê hoặc đàn ông. Tôi không dám nói điều này là sai, nhưng không biết ai quyến rũ đầu tiên? Phần Cuối Của Câu Chuyện Vườn Địa Đàng Sau khi Adam và Eva rời khỏi vườn địa đàng, họ thấy thế giới này thật vui, họ chẳng có chút sám hối nào, nên bị mê lụy cho đến bây giờ. Mê lụy vẫn còn có thể chấp nhận được, nhưng tại sao lại hung ác? Bởi vì như tôi vừa nói với quý vị, khi họ ở trên thiên đường, nếu muốn ăn trái cây thì trái cây tự rớt xuống tay họ. Nhưng chuyện như vậy không bao giờ xảy ra tại cõi trần này. Quý vị lắc cái cây hết sức và còn dùng cả móc cây nữa, trái chưa chắc đã rụng xuống. Cho nên họ bắt đầu suy nghĩ, nghĩ cách nào để hái trái cây. Dùng phương pháp văn minh nhất, hái nhanh nhất, được nhiều nhất. Khi thấy mưa to gió bão thì bắt đầu đi học những lực lượng như thế, khi thấy gió thổi, cây bị đưa qua đưa lại, họ cũng bắt chước và thổi. Cây không di chuyển lấy một phân, nên họ bắt đầu luyện khí công, phải đổi năng lực. Lúc ban đầu họ có thể ăn hiếp những cây nhỏ, về sau khí càng nhiều nên bắt đầu ăn hiếp những cây lớn, cho nên gương mặt càng lúc càng biến đổi, mặt đỏ tía, tiếng nói trở nên rất lớn và thô lỗ. Trước kia ở thiên đường không cần phải nói chuyện, ai cũng dùng sự cảm nhận để hiểu được ý nghĩ của người khác. Nơi đây họ lại học thêm từ loài vật, vì nơi đây phải bảo vệ bản thân mình. Lúc vừa mới đến, chưa có gì, về sau loài vật ngửi thấy mùi nên đến dọa nạt họ, muốn ăn thịt họ. Khiếp sợ bởi tiếng rống của loài vật, họ không biết phải làm sao, nên Adam, Eva, và con cái nhìn thấy như thế cũng bắt đầu rống lên. Cọp thấy họ còn dữ hơn mình nữa nên bỏ chạy đi. Thấy phương pháp này có hiệu quả nên càng ngày họ càng hung dữ, giống như cọp và sư tử vậy. Cho nên có người mới hung ác như thế, thì ra họ học từ đó mà ra. Lúc đầu họ học là để bảo vệ cho chính bản thân họ, về sau càng lúc càng quen, thói quen khó đổi, cho nên biến thành như ngày nay vậy - Phật hung ác và hàm hồ. Nếu như mọi người còn nhớ lại lúc ban đầu thì âm thanh còn dịu dàng hơn một chút, nếu không nhớ thì lại rống lên. Cho nên có nhiều lúc chúng ta rất dịu dàng, có những lúc chúng ta rất hùng hổ và đều từ thói quen mà ra. Sau đó thì họ đầu có thể phát ra những tiếng gió, rất giống như tiếng rống của cọp và sư tử. Nhưng Adam vẫn chưa thể câu thông với bà vợ, vì trên thiên đường họ không cần ngôn ngữ. Khi người ta nghĩ gì là họ hiểu ngay, không cần phải nói chuyện. Khi rớt xuống đây thì không còn lực lượng nữa, đời sống đã đổi khác, lực gia trì cũng không có nữa. Khi rời khỏi lực gia trì rồi, họ lạc trong chốn hồng trần, nên mới cần ngôn ngữ. Bây giờ họ cảm thấy xấu hổ, xa cách nhau, bắt tay nhau cũng không dám. Không còn giống như trước nữa. Cho nên bây giờ lại bắt đầu quyến rũ lẫn nhau, để làm được như vậy, họ phải học từ thú vật, bởi vì không thể câu thông bên trong được nữa, và họ cũng không biết cách nói chuyện với nhau được. Họ quan sát loài vật và bắt chước tiếng nói của chúng. Đó là cách mà họ học ABC như thế nào. Không còn cách nào khác để học nữa, họ chỉ có thể bắt chước những hành động hổn loạn của loài vật. Lúc ở trên thiên đường thì học với Thượng Đế, học với thần tiên, học với Phật với Bồ Tát (chúng sanh khai ngộ) tương đối quý phái, không như ở thế gian này vậy. Vừa mới đến không có người, vì họ là tổ tông của chúng ta. Không có minh sư dạy dỗ, chỉ biết tự học. Nhưng trí huệ đã đứt, quên hết cả rồi! Khi rời khỏi trung tâm tu hành, lạc đường rồi không thể trở về, lạc ở trong những thú nhục dục! Cõi hồng trần tràn đầy phiền não, đã làm quên mất trí huệ họ cho nên phải tự chăm sóc chính mình. Không có gì để học thì học gió, học mưa, những thứ sấm sét hung ác, hiện tượng cực đoan của nóng và lạnh. Họ học tất cả từ thiên nhiên. Học cũng học theo từ loài vật để bảo vệ chính bản thân mình. Có những lúc không phải do giận dữ, mà nhìn thấy cọp rống, họ cũng rống theo, càng học càng giống, về sau biến thành như thế. Không phải trong lòng Adam hung ác, nhưng đôi khi Adam cũng quên mất và rống lên với vợ mình. Eva cũng thế, cũng rống trở lại, hai bên giống nhau. Ngôn ngữ cũng từ đó mà bắt đầu, kết hợp từ âm thanh của loài vật. Chúng ta cũng không nên trách cứ chính mình, mà nên trách cứ Thượng Đế đã phạt chúng ta sao quá nghiêm khắc như thế. Dù sao Ngài cũng không có lòng nhẫn nại lúc ban đầu. Ngài có lòng nhẫn nại rất lớn, nhưng lại cũng không có chút nhẫn nại nào! Ngài rất có lòng từ bi, nhưng cũng lại chẳng có chút từ bi nào! Ngài có cả hai mặt, Ngài là "âm" nhất, cũng là "dương" nhất, "nhu" nhất, mà cũng là "cương" nhất, như thế mới vui! Cũng giống như thế giới của chúng ta vậy, mỗi ngày nếu như cứ phơi nắng hoài thì cũng chịu không nổi, trồng cây cũng không lớn nổi, bởi vì phải cần mưa. Nếu như mỗi ngày cứ mưa hoài thì chúng ta giăng lều không tiện. Cho nên có cái này phải có cái nọ. Chúng ta tuy là biết về luật âm dương quân bình, nhưng khi bản thân mình gặp phải thì chịu không nổi. Chúng ta biết rằng có ngày mưa, có ngày nắng, có mùa hạ, có mùa đông, nhưng khi mùa hạ đến, bị nóng nực, rít rát, ẩm thấp thì chúng ta vẫn cứ phàn nàn. Lúc trời mưa tuy biết rằng nông dân canh tác cần phải có nước, nhưng chúng ta cũng chịu không nổi. Đặc biệt khi đến dự Thiền Nhất hoặc Thiền Thất, lúc tập họp, mọi người đều uớc sũng, ca chứa đầy nước, không uống trà Ô Long được (mọi người cười). Cũng vậy, chúng ta tu hành cũng như thế, khi gặp khảo nghiệm, cho dù tôi đã giảng một trăm lẻ tám lần là khảo nghiệm nhất định có, chúng ta cần phải bình tâm, phải biết coi tốt xấu như nhau, la rầy và tán thưởng cũng như nhau. Nhưng khi gặp phải lúc bị la rầy, mặt cứ dài ra, trong lòng đau đớn, tỏ thái độ muốn chống đối, chỗ này một chút, chỗ kia một chút, đóng thật nhiều con dấu. Tay chân đều bộc lộ sự phàn đối, không biết chống lại ai, không ai thấy cũng muốn chống đỡ. Lịch Sử Của Địa Cầu Nhưng sự thật địa cầu của chúng ta lẽ ra không có những thời tiết cực đoan như thế, không có mùa hạ thật nóng nực, không cần có những mùa đông lạnh lẽo, mưa cũng có, nhưng không có ảnh hưởng nhiều như thế. Trước đây thời tiết rất ôn hòa, vẫn có mặt trời, cũng có mưa, lúc mưa thì mưa nhưng không lạnh lắm, không ẩm ướt, khi mặt trời vừa xuất hiện là khô ngay, mùa hạ cũng không nóng nực lắm. Chỉ vì trước đây chúng ta đã đánh nhau với thiên đường, không nghe lời Phật Bồ Tát dạy dỗ, học được một chút là muốn đánh với thiên thần, cho nên họ mới hủy diệt vũ khí của chúng ta, họ dùng một loại vũ khí khác để chống lại chúng ta, nhốt chúng ta ở đây, khóa lại, cho nên mọi người mới không thoát được tam giới. Các thiên sứ thiết lập một lớp bảo vệ bên ngoài địa cầu của chúng ta, giống như Tôn Ngộ Không lúc bị nhốt, còn dán lên một bùa chú phía trên vậy. Chúng ta cũng thế, bởi vì có một sức vô hình khống chế, chúng ta không thể trốn thoát, lúc nào người của thiên đường cũng quan sát chúng ta, chỗ nào xuất hiện một ý kiến nào, muốn cách mạng, cũng giống như trước vậy, là không được! Cho nên vũ khí của chúng ta lúc này rất dở, không phát minh được điều gì hay. Nhưng bây giờ lại bắt đầu. Thế kỷ vừa qua lại bắt đầu chế tạo bom nguyên tử; điều này là do ký ức còn tích lũy lại trước đây, đã không biết sám hối lại gây phiền phức. Cho nên các thiên sứ vẫn còn quan sát chúng ta, vẫn dùng những thiên tai để cảnh cáo chúng ta, nhưng sức kháng cự của chúng ta vẫn sinh ra những lực lượng phá hoại, tự mình tiêu diệt lấy mình. Lúc chúng ta giận dữ, có phải là trái tim đau nhói, thân thể khó chịu, bị phiền não, khóc lóc, thì cảm thấy thật mệt mỏi, giống như là đã làm việc rất cực nhọc vậy, phải không? (Mọi người đáp: Vâng!) Đó là để cho chúng ta tự đau xót lấy chính mình. Vào lúc ban đầu khi thiên sứ chuẩn bị tiêu diệt chúng ta, họ công kích quá mãnh liệt, địa cầu đã bị lệch đi một hướng, hơi lệch ra khỏi quỹ đạo cho nên thời tiết mới trở nên cực đoan như thế, vừa nóng vừa lạnh, rồi sau đó thiên sứ nhốt chúng ta ở đây, khóa trở lại, thêm vào đó bản thân chúng ta lại phát ra bầu không khí hung dữ, cho nên mới có tự sinh tự diệt. Cho dù Phật Bồ Tát nhốt chúng ta ở đây, lại dán thêm bùa chú lên, nhưng mỗi ngày họ vẫn quan sát chúng ta, đề phòng chúng ta chạy trở lên. Cho nên có những lúc có một người nào đó thử tọa thiền, muốn tự liễu thoát, kết quả bị ma nhập. Ma là ai vậy? Đó là những vị thần hộ pháp. Thấy chúng ta muốn trốn thoát, họ nghĩ rằng chúng ta muốn làm cách mạng, muốn đánh họ, cho nên họ đẩy chúng ta xuống. Khi trở về, chúng ta ngơ ngơ ngẩn ngẩn, hồn phi phách tán, không nhớ ra ai, đầu óc rối loạn, chúng ta gọi người ấy là bị nhập ma. Bởi vì họ không cho phép chúng ta lên, nếu như chúng ta tự mình trồi lên, họ nghĩ rằng chúng ta muốn cách mạng, nên họ ra tay hành động, không cho phép chúng ta tiêu diệt vũ trụ. Chúng ta mãi mãi bị quan sát, cho nên chúng ta không thể một mình lên được, cần phải có minh sư dẫn dắt. Dù sao cũng có một số người thành tâm nên Phật Bồ Tát thường đến để chỉ dạy và khuyến khích chúng ta. "Chúng tôi biết quý vị đang trốn ở đâu, hãy mau mau đầu hàng chạy ra, thời gian không còn nữa, quý vị sẽ được tha thứ, đây là lần cảnh cáo cuối cùng." Có những chúng sanh khai ngộ ra ngoài dán bích chương, phát truyền đơn, phát sách biếu, muốn cảm hóa chúng ta. Có những người cũng có lòng thành tâm sám hối, muốn được liễu thoát sanh tử, họ thật sự muốn thoát ra khỏi cái chướng ngại này. Nếu như chúng ta thành tâm, chúng ta ghi danh, thành tâm ăn chay ba tháng, thì minh sư sẽ đến và tiếp nhận chúng ta, đó là Truyền Tâm Ấn. Người khác thì vẫn không thể đi ra! Chúng ta ở đây giống như phạm nhân vậy. Có những người phạm nhân tương đối tốt, lòng không hung ác, án phạm nhẹ, chỉ cần có lòng thành tâm sám hối, biểu hiện tốt, luật sư vào kéo một cái là ra ngay. Chúng ta những người đã được truyền Tâm Ấn là như thế đó. Nếu thật sự có lòng sám hối, muốn liễu thoát ngục tù này, Phật sẽ mở cửa cho chúng ta ra đi, còn những người khác không được, phải đợi cho họ có lòng sám hối, và ngưng chế bom nguyên tử mới được. Chỉ có một số ít người, thật sự sám hối, thật sự muốn liễu thoát sanh tử, mới thoát được ngục tù vô hình này. Bởi vì chúng ta không thể ra đi, tự mình trốn đi, sẽ bị bắt lại thì càng thê thảm hơn. Chúng ta sẽ bị nhốt vào những cái lồng nhỏ hơn, đứng cũng không đứng được, ngồi cũng không ngồi được, cấm chúng ta không nói chuyện được với ai. Cũng vậy, những người tự mình muốn giải thoát thì càng thê thảm hơn, càng bất thường hơn trước đây. Lẽ ra trước đây còn biết một chút ít, sau khi âm thầm tự ngồi thiền, ấn tay ấn chân rồi chạy ra, sau đó nói những chuyện bậy bạ, tinh thần bất thường, đầu óc bị hư đi. Cũng giống như phạm nhân vậy, nếu như chúng ta lén trốn ra, bị cảnh sát bắt lại thì càng thảm hơn, sẽ bị giam giữ nghiêm khắc hơn những phạm nhân bình thường. Sẽ bị nhốt trở lại, còn bị cồng, nhốt vào trong những căn phòng nhỏ hẹp, không ngồi cũng không đứng được, tối đen không có đèn. Những người phạm tội nặng nề đều bị nhốt vào trong đó, không được nói chuyện với ai, còn tệ hại hơn trước nữa, tệ hại hơn trước khi họ trốn nữa. Những người Tâm Ấn như chúng ta là những người thành tâm muốn ra đi. Vạn nhất quý vị không thành tâm, quý vị gạt Phật Bồ Tát, lát nữa quý vị sẽ bị bắt nhốt trở lại. Những người khai ngộ không có gì để mất mát mà chúng ta là những người phải gánh chịu hậu quả. Mỗi ngày ngồi hai tiếng rưỡi đồng hồ là để nhắc nhở lấy mình, lại muốn để cho Phật Bồ Tát biết là chúng ta thật sự rất thành tâm, chúng ta nhất định muốn đi ra. Các Ngài muốn khảo nghiệm chúng ta, có phải mỗi ngày đều ghi nhớ không. Quý vị chỉ nói một lần: "Tôi muốn đi ra!" Một câu nói sẽ không có ý nghĩa gì nếu không có chứng cớ theo đó, như vậy không đủ! Cho nên mỗi ngày vẫn cứ phải nói. Bởi trước đây chúng ta rất tệ hại, cho nên Thượng Đế mới khảo nghiệm xem thử bây giờ chúng ta có thật thành tâm không. Mỗi ngày niệm hai tiếng rưỡi: "Tôi muốn đi ra, tôi muốn đi ra, tôi thật sự muốn đi ra, tôi quyết tâm muốn đi ra!" Cũng giống như chúng ta muốn kết hôn với một người nào vậy, không thể nói: "Bác sĩ, tôi muốn lập gia đình với ông." là đủ, còn phải tiếp tục hành động, phải tặng quà, phải mỗi ngày niệm: "Tôi thật sự muốn lập gia đình, tôi nhất định lập gia đình với ông." Rồi lại phải thu xếp hôn lễ thì người ta mới biết được lòng thành tâm của quý vị. Cứ như thế mà tiến lên, từng bước từng bước tiến lên thì mới được. Cũng vậy, mỗi ngày chúng ta phải tọa thiền hai tiếng rưỡi đồng hồ, cứ tiếp tục niệm như thế, niệm cho đến khi chúng ta có thể kết hôn với Thượng Đế mới thôi. Sư Phụ Khai Thị, Câu Chuyện Thánh Kinh, Bản Tin Thanh Hải Vô Thượng Sư # 81 Thanh Hải Vô Thượng Sư giảng tại đạo tràng Tây Hồ, Formosa, Ngày 27 tháng 5, 1990 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa)
0 Comments
Adam và Eva, hai người chỉ ăn một trái táo mà thôi, nghiệp chướng đã nặng nề như thế, còn chúng ta đã ăn biết bao nhiêu thứ rồi, quý vị có biết không? Nào là bò, gà, vịt, dê, con nào cũng ăn, làm sao mà chịu nghiệp chướng đó cho nổi! Adam và Eva ăn chỉ chia nhau một trái táo mà thôi, mỗi người chỉ ăn có nửa trái mà thôi, mà phải rời từ thiên đường xuống địa cầu này, mỗi ngày phải chịu đau khổ mới có thể kiếm đủ cơm ăn, phải lặn lội cực nhọc, rồi con cháu đời đời kiếp kiếp còn bị những nghiệp chướng liên hệ, huống chi chính chúng ta còn làm cho nghiệp chướng nặng nề thêm. Ý tôi nói rằng nếu như món đồ nào đó không phải do Thượng Đế ban cho chúng ta, là đều có nghiệp chướng cả, chúng ta phải trả giá rất đắt và lợi tức không thể tưởng tượng được, cho nên mỗi ngày chúng ta ăn uống, trước hết phải cúng dường Thượng Đế, phải niệm Phật hiệu, là vì để rửa sạch những nghiệp chướng ấy, nếu không chúng ta ăn quả táo của ma vương! Sau đó họ đòi phải trả giá rất cao. Cây táo ấy cũng là do Thượng Đế tạo ra, cũng sống trong vườn địa đàng, tại sao ta ăn những thức ăn khác lại không có nghiệp chướng, còn ăn quả táo lại có nghiệp chướng? Cũng đều là thức ăn của Thượng Đế, tại sao cái giá của nó lại đắt như thế? Bởi vì Thượng Đế không cho họ, họ ăn cắp nên không có lực gia trì. Adam và Eva vì nghe lời của ma quỷ nên ăn vào, đương nhiên có lực gia trì của ma quỷ. Không phải Thượng Đế hung ác đối với họ, cũng không phải Thượng Đế có dã tâm như thế để xử phạt họ. Ăn thức ăn của ma quỷ thì biến thành ma quỷ, ít nhất biến thành bộ hạ, công cụ, hoặc là thân bằng quyến thuộc của ma quỷ, làm mất đi ưu quyền làm bạn bè với Thượng Đế. Nếu Adam và Eva nói trước với Ngài một câu, rất có thể sẽ không xảy ra chuyện này, Thượng Đế có thể sẽ nói rằng: "Hiển nhiên quý vị thích ăn như thế, vậy cũng tốt! Quý vị cứ ăn đi!" Không có một thứ gì mà Thượng Đế không làm được. Chỉ vì quý vị lén lút ăn phía sau, nhận sức gia trì của ma quỷ, nên mới có tai họa. Cũng vậy, quý vị theo tôi tu hành, mỗi ngày tọa thiền hai tiếng rưỡi, ăn chay, cũng không có gì là hay, người khác cũng ăn chay vậy, mỗi ngày chỉ ăn có một bữa, không sống trong những căn nhà sang trọng, mà sống ở nghĩa trang, mỗi ngày tọa thiền mười tám tiếng, mà cũng không được kết quả nhiều! Mỗi ngày quý vị tọa thiền hai tiếng rưỡi, có đáng kể gì! Mỗi ngày dùng ba, bốn, năm, sáu bữa cơm, ăn nhiều hơn người nữa! Nhưng tại sao quý vị lại đạt được lợi ích? Bởi vì có lực gia trì, bởi vì đường đường chính chính có người tiếp nhận quý vị, có Thượng Đế chứng minh: "Được! Nếu quý vị làm những việc này, sau này ta sẽ tặng lại cho quý vị..." Nếu như bản thân của quý vị làm một mình thì ai mà biết được quý vị làm điều gì? Ví dụ có một ông chủ, ông ta có một căn tiệm rất lớn, ông yêu cầu quý vị tới để chăm sóc việc buôn bán, cho dù quý vị ở trong tiệm hai ba ngày không buôn bán gì, ông ta vẫn cho tiền quý vị, bởi vì ông ta đã ký giao kèo với quý vị: Ngươi đến đây làm công cho ta, mỗi tháng ta trả ngươi bao nhiêu tiền, quý vị sẽ được hưởng bảo hiểm về lao động, tôi sẽ chăm sóc về phần lợi ích an toàn, lúc già sẽ có tiền về hưu, khi có bệnh sẽ có tiền bảo hiểm sức khoẻ v.v...! Sau đó kết ước đã làm xong, quý vị phải trông coi tiệm, cho dù không có việc cũng không sao, dù bị bệnh vẫn được tiền, bị thiên tai vẫn được tiền, quý vị không bán được thứ gì, mà vẫn nhận được tiền. Còn người khác, người chủ không thu dụng họ, họ ở trong tiệm mười lăm năm có được trả lương không? Suốt ngày suốt đêm không ngủ, trông coi tiệm của ông chủ cũng chỉ vô ích! Họ tự ý đứng đó, ai mà lo cho họ! Cũng như thế, ở trên thế giới này, có thứ là do hệ thống của Thượng Đế, có những người thay mặt cho Thượng Đế làm việc, nếu như chúng ta câu thông với họ, họ sẽ giới thiệu chúng ta thì chúng ta mới có quan hệ với Thượng Đế. Nếu như chúng ta theo người khác làm việc, hoặc làm việc với Satan và ma quỷ, thì cũng không được tốt lành gì cho chúng ta cả, cho dù có làm nhiều cũng vô ích. Quý vị được lợi ích là vì chúng ta có quan hệ với một hệ thống hoàn toàn khác. Thanh Hải Vô Thượng Sư giảng tại đạo tràng Tây Hồ, Formosa, Ngày 27 tháng 5, 1990 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa) Bản Tin Thanh Hải Vô Thượng Sư # 81 ________________________________________ Tình Thương Là Sự Dâng Hiến, Chứ Không Phải Chiếm Hữu Phần 1 Có một người tên là, tôi đề nghị là Krisna. Ông có rất nhiều đệ tử, nhất là đệ tử phái nữ. Ông rất đẹp, rất, rất đẹp; đen và đẹp. Gương mặt ông hơi ngâm ngâm. Người ta gọi ông là người đẹp da đen. Bất kỳ ai gặp ông chỉ một lần là thương ông liền, nam cũng như nử. Nhưng đừng nghĩ đó là một loại hấp dẫn về thể xác. Đây là một loại tình thương tâm linh. Mọi người thấy ông là thương ông liền. Vì thế ông có rất nhiều đệ tử và nhiều nam đệ tử. Dĩ nhiên, những phụ nữ không sao quên được sự ganh tỵ. Dù họ theo bất luận vị minh sư nào, họ cũng giữ sự ganh tỵ đó trong túi. Vì vậy đôi khi họ cạnh tranh nhau để được sự chú ý đặc biệt của ông. Trong số các nữ đệ tử, ông đặc biệt thương một cô tên Rada. Dĩ nhiên cô rất đẹp, nhưng ngoài ra, cô còn có nhiều phẩm chất khác mà có lẽ những người khác không có. Không những giữa các phụ nữ, mà ý tôi nói là kể cả nam chúng nữa. Có lẽ cô rất dễ thương, rất ý tứ và biết được ý nghĩ trong đầu của ông, ngay cả trước khi ông chưa nói ra. Cho nên ông thương yêu cô vô cùng. Và cô săn sóc ông đủ mọi cách. Cô cũng thương yêu ông vô cùng. Mọi người đều thương mến ông. Đó là điều chắc chắn. Nhưng cả hai có mối tương giao đặc biệt. Phải, phải. Rất có tình thương với nhau và hai người thương yêu nhau vô cùng. Có thể cả hai đều rất vĩ đại và họ biết tính ý của nhau. Cho nên lúc bấy giờ các phụ nữ khác, ngoài việc được tức khắc khai ngộ, họ còn có một chút ganh tỵ trong góc túi. Ho thầm nghĩ: Có gì đặc biệt, về cô Rada đó, có thể cô đẹp, nhưng tôi cũng đẹp vậy. Sư Phụ thương mình nhất. Mọi người ai cũng nghĩ là vị Sư Phụ thương mình nhất. Nhưng khi họ thấy Krishna lúc nào cũng tỏ ra hơi đặc biệt hơn một chút đối với cô Rada, người nữ thị giả, thì sự gánh tỵ mà dấu trong túi áo thỉnh thoảng lại bộc phát. Họ cảm thấy: “Cô ấy có gì đặc biệt đâu? Điều cô ta làm, tôi cũng có thể làm được.” Nhưng đôi khi họ không thể làm được, vì mọi người có duyên khác nhau với vị minh sư. Và cũng có thể mọi người có những cá tanh và tài năng khác nhau. Quý vị biết minh sư dùng người khác nhau trong những phương cách khác nhau. Điều này không có nghĩa là chúng ta giỏi hơn người khác hay người khác tốt hơn chúng ta. Nhưng mọi người không thể săn sóc cho vị minh sư, vị minh sư sẽ bị ngộp chết. Vì thế cho nên, chỉ có một người chăm sóc ông, rồi những người khác ganh tỵ. Một hôm, Krishna không chịu nổi bầu không khí này nữa, nên ông có ý biểu hiện điều gì. Ông gọi tất cả các nữ thị giả đến giống vầy, như chúng ta đang hội họp ở đây. Rồi ông giả bộ nhức đầu kinh khủng. Ông nói: “Ôi! Cái đầu ta, ôi như muốn bữa làm đôi. Ôi! Ta không chịu nổi! Ôi, ôi, ôi, ối cha!” Ông đau đầu, nhưng có lúc ông quên, lại ôm bụng. Ôi, ta đau quá. Bởi ông giả bộ nhức đầu (mọi người cười). Đôi lúc, một vị minh sự giả bộ như có chuyện gì đó hoặc hỏi thăm vài câu để đến gần người đệ tử hơn. Hoặc để làm cho họ khỏi sợ hãi vị minh sư, hoặc để khuyến khích họ trong những tài năng chuyên môn đặc biệt của họ. Chứ không phải vị minh sư không biết vấn đề này hay cần đến lời khuyên của quý vị. Phải thật sự là khác. Bởi thế, Phật Thích Ca đã nói: “Phải dùng đến tám vạn bốn ngàn pháp môn.” Đó là như vậy. Cho nên, một trong những pháp môn này được gọi là pháp môn nhức đầu. Krishna đã xử dụng nó. Ôi chao! Đầu ta, ôi, ôi nó đau ở đây, ôi, đau lắm. Thế là mọi người rối lên. Họ hỏi thầy của họ xem họ có thể làm được gì để ông đỡ đau. Vị minh Sư nói: “Nếu có ai đứng lên đầu của tôi...” Nếu có một phụ nữ nào đặt chân lên đầu vị sư phụ, ngài sẽ khỏi bệnh liền. “Xin vui lòng giúp ta, một trong người quý vị đến đây và cứ đạp lên.” Họ ngửi chân của họ; ô, không được, không, không được. Không được đâu. Có lẽ họ đã ba ngày quên rửa chân vì quá bận rộn chạy đi nghe sư phụ thuyết pháp và đi phát sách biếu. Ô, không được! Làm sao chúng con dám bước chân lên đầu Ngài. Ngài là Thượng Đế giáng phàm. Sư Phụ là hóa thân của Thượng Đế tại thế. Sư Phụ là Sư Phụ của chúng con, Sư Phụ thân mến và thương yêu nhất của chúng con, một người được tôn kính nhất trên thế gian. Làm sao chúng con dám bước lên đầu? Không, không thể được! Bất cứ điều gì chúng con cũng có thể làm cho thầy ngoài chuyện đó.” Cho nên Krishna càng giả bộ nhức đầu nhiều hơn nữa. Ôi, ta chết mất. Ta sẽ chết! Ta chết tức khắc, ta có thể ngày mai sẽ chết! Ta chết hôm nay. Ta chết tối nay. Ta sẽ chết và các người sẽ vui.” Rồi ông rên rỉ, ông làm um xùm, và ông diễn một tuồng. Và tất cả các nữ đệ tử chỉ biết đứng đó, ngậm câm, vô dụng và không phản ứng gì. Chỉ đến khi cô Rada, người nữ thị giả đến. Khi trông thấy Rada, ông còn biểu diễn đau đớn hơn nữa. Ôi, ta chết mất, ta chết mất, ô, cái đầu đang xuống đây. Ối đau chỗ này và đau cùng hết.” Ông làm ra vẻ đau đớn lắm. Ông làm như kiểu, rên rỉ rất nhiều, và làm như đau khổ lắm. Mọi người hướng về Rada khi cô bước vào, Rada hỏi: “Có chuyện gì vậy? Ngài làm sao vậy? Con có thể làm gì giúp Ngài?” Rồi Krishna nhắc lại lời yêu cầu giống vậy: “Đầu ta đang bốc lửa vì đau nhức. Xin hãy bước lên đầu ta để ta được bớt đau.” Vì đó chỉ là cách duy nhất.” Thế là cô Rada lập tức bước chân lên đầu ông. Cô không cần để ý xem mình có mang giầy hay không, xem mình đã tắm chưa, cô bước ngay lên đầu ông. Thế là Krishna lập tức được cái gọi là giải tỏa hết đau đớn. Không còn đau đầu nữa. Rồi ông vừa cười vừa ăn thức ăn gia trì. Và giờ đây Rada trông như không có chuyện gì xảy ra. Nhưng toàn thể nữ chúng trong hội trường bắt đầu nhìn cô Rada với cặp mặt nảy lửa, giống như sắp nuốt sống cô, đem cô ra nấu cháo. Sao cô dám... Cô là người ghê tởm. Cô bất kính Sư Phụ, chúng tôi sẽ... Và Rada nói: “Sao, cái gì? Các chị làm sao vậy?” “Chúng tôi sẽ giết cô!” Rồi Rada hỏi họ: “Có chuyện gì vậy? Tôi đã làm sai điều gì? Tại sao các chị lại muốn giết tôi? Vì sư phụ, họ sẵn sàng giết người. Dù minh sư đã nói: “Không được sát sanh”. Nhưng trong trường hợp này họ đã quên mất. Lòng ghen tuông thật ghê gớm và làm mờ mắt mọi người. Ngay cả trong trường hợp đó. Đó là chuyện đã xảy ra cho cô Rada. Mọi người nói: “Tại sao cô dám bước lên đầu của vị sư phụ tôn kính. Cô không biết Ngài là Thượng Đế sao? Sao cô dám làm như vậy với bàn chân dơ bẩn của cô? Cô rất tệ và cô... Vì việc làm này, cô sẽ xuống tầng địa ngục thấp nhất và chịu khổ ở đó đời đời. Nói cho cô hay.” Và Rada chỉ mỉm cười nói: “Thật vậy không? Đó là tất cả những gì các chị lo lắng phải không? Vậy thì đừng có lo. Tôi sẽ mỉm cười sung sướng mà ở địa ngục nếu tôi có thể làm cho thầy tốt hơn, nếu tôi có thể làm cho Sư Phụ bớt đau trong một khoảnh khắc. Tôi sẽ sung sướng mà xuống địa ngục. Vậy các chị đừng lo chuyện này.” Lúc đó, tất cả nữ chúng chợt hiểu cô vô vị kỹ dường nào. Cô đã dâng hiến cho vị minh sư đến chừng nào, kể cả mất đi đẳng cấp tâm linh và hạnh phúc của chính mình. Vì vậy tất cả đều cúi đầu bài phục cô. Tôi xin lỗi, xin tha lỗi cho tôi.” Đại khái vậy. Kể từ sau đó mọi sự đều tốt đẹp và bình thường. Vậy, hãy làm tất cả mọi việc vì vị thầy. Theo triết lý Ấn Độ thì đó là sự thành đạt cao nhất, sự cống hiến cao nhất. Vì đôi khi chúng ta có những tư tưởng khác nhau về cách phục vụ một vị minh sư. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta làm điều này, điều nọ và tất cả những chuyện đó. Nhưng thực ra quý vị đã không làm những gì mà vị thầy yêu cầu chúng ta làm. Vấn đề trong câu chuyện này là gì? Có điều gì sai khi chúng ta không làm những gì vị thầy yêu cầu? Chúng ta sẽ sa địa ngục chăng? Không! Chúng ta có làm cho vị thầy tức giận? Không? Không? Có thể vị thầy giả bộ nỗi giận la mắng quý vị hay gì đó. Hoặc bất kỳ phương cách gì vị thầy dùng là để mở rộng tầm hiểu biết của quý vị. Để cho quý vị hiểu trong tình trạng đó quý vị đã sai ở chỗ nào, cố gắng dạy dỗ quý vị để lần sau được tốt hơn. Nhưng nội tâm vị minh sư sẽ không thực sự giận dữ. Hiểu không? Cũng như những bậc cha mẹ có tình thương không bao giờ thực sự ghét bỏ con cái họ. Có lúc họ chỉ làm bộ đánh roi vào mông, hoặc la rầy chúng, hay trách mắng để sửa chữa con cái, để trong tương lai chúng sẽ trở thành con người tốt hơn. Chỉ có vậy. Nhưng cha mẹ luôn thương yêu con cái thấm thiết. Phần 2 Cô Rada đã cống hiến nhiều và vô vị kỷ cho vị minh sư. Dĩ nhiên cô cũng được nhiều tình thương và sự chú ý đặc biệt từ vị minh sư nữa. Do đó, có đôi lúc cô trở nên kiêu căng, tự phụ, cô cảm thấy mình cũng được. Cô cao hơn và giỏi hơn đám người kia, và vị minh sư thương yêu cô vô cùng. Cho nên cô vui hưởng tình thương của vị minh sư. Từ đó cô trở thành một loại chiếm hữu. Cô nghĩ vị thầy chỉ thuộc về một mình cô mà thôi. Tôi cũng có những kinh nghiệm này với một vài thị giả, quý vị hiểu. Vì thế tôi học giỏi hơn Krishna, tôi không dùng hoài một thị giả nào. Tôi thay đổi. Dù sao trong trường hợp cô Rada, vị thầy một hôm có lẽ đã thấy đủ rồi. Ông quyết định dạy cho cô một bài học. Một hôm ông bí mật nói với cô bằng một giọng trìu mến và trữ tình: “Ô, ta chán ngán những người này rồi, tại sao hai chúng ta không cùng nhau đi đến những nơi nào khác, một mình thôi. Ta chỉ tin cô.” Thế là, ồ, cô cảm thấy: Thế là xong. Đó là điều em muốn nghe. Anh thuộc về mình em thôi. Chúng ta sẽ có những giờ phút êm đềm bên nhau. Đó là điều hay nhất. Vì vậy cô liền theo ông. Krishna cứ đi mãi, đi hoài, đi lên một ngọn núi cao và dốc, có sông, rất khó đi. Rada thì mệt nhoài nói: “Em không thể đi thêm được nữa. Sao chúng ta không dừng lại?” Krishna nói: “Không, không. Chúng ta gần đến nơi rồi, hãy tiếp tục đi.” Cuối cùng Rada không sao bước nỗi nữa, nên Krishna mới nói: “Ô, vậy cô muốn ta làm gì đây? Cõng cô chăng?” Cô đáp: “Phải đó. Dĩ nhiên, anh cõng em đi,” Cô đã quen với sự cưng chiều thành hư rồi. Hiểu không? Cô nghĩ vị minh sư thuộc về cô, như một người chồng bình thường. Vì vậy cô có thể muốn ông làm gì cũng được mà chẳng sao. Hoặc dùng ông như một người bình thường. Hiểu không? Do đó Krishna giả bộ đồng ý với cô và nói: Được rồi, lại đây, và làm như muốn cõng cô lên lưng vậy. Nhưng vừa đúng lúc cô nhảy lên lưng ông, ông biến mất, khiến cô té bẹp xuống đất. Đổ máu mũi. Mũi cô đã tẹt lại càng tẹt hơn. Và cô ngồi đó khóc, rồi ý thức được rằng mình đã sai. Có biết ông không phải là cái thể xác. Cô không được chiếm hữu và nắm giữ thân xác ông như vật sở hữu của riêng cô, như một vật gì mà cô có thể làm chủ được. Thế cho nên, cô đã xin lỗi vị minh sư, và nói: “Con đã sai, con đã sai, con đang sai. Xin hãy tha thứ cho con. Bây giờ con đã hiểu. Con không được sở hữu riêng thầy và chỉ giúp đỡ thầy một cách vô điều kiện, không đòi hỏi một sự tưởng thưởng nào cho riêng mình.” Nếu cô không làm vậy, cô sẽ hại vị minh sư. Cô trói buộc vị minh sư lại và còn ảnh hưởng đến nhiều chúng sanh khác theo ông. Hiểu không? Vì ông đã luôn phải mất thì giờ cho riêng cô và làm tất cả những điều kỳ lạ của cô để cô vui, như một người chồng bình thường. Như vậy, ông làm sao còn thì giờ cho những người khác, hiểu không? Vì vậy ông phải nắm quyền điều khiển, nếu không cô kiểm soát ông. *** Hầu hết mọi người đều như vậy: bị ràng buộc vào trong thế giới này và quên mất sự vĩ đại của họ. Có đôi khi những nhà chính trị tài giỏi bị trói buộc vì tình cảm gia đình, họ đã trở nên quen thuộc với chuyện nầy mà quên đi bổn phận của họ. Vì thế, có nhiều chuyện đã xảy ra trong quốc gia đó và có ảnh hưởng xấu đến dân chúng của quốc gia đó, có đúng không? Có nhiều ông vua đã thất bại vì mỹ nhân. Có nhiều vị đại thần hay những anh hùng đã bán cả địa vị và xứ sở của họ chỉ vì những cảm xúc được mệnh danh là sự đam mê. Bởi thể nếu một vị minh sư không kiểm soát được việc này, thì minh sư cũng tiêu luôn, chấm dứt. Chữ Kaputt tiếng Đức nghĩa là chấm dứt, không tốt, chẳng ích gì cho ai. Đó, quý vị thấy ngay cả thời đó, nếu quý vị đã đạt được điều đó một lần rồi, quý vị phải đánh bóng nó. Do đó, chúng ta cần ngồi thiền mỗi ngày, vì thói quen của chúng ta, thói quen xấu đã tích tụ từ đời đời kiếp kiếp, quá nhiều thế kỷ, nhiều thời đại rồi. Bây giờ nếu chúng ta chỉ có một đời để sắp xếp lại, để phá vỡ nó, cho nên, minh sư phải dùng lực lượng vô thượng bên trong để điều chỉnh, không phải cách thông thường. Cho nên không có truyền Tâm Ấn, không thực sự xử dụng sự vĩ đại của mình, quý vị không bao giờ có thể thoát ra khỏi cảnh hỗn loạn nầy. Bất kể quý vị dùng bao nhiêu, vì bất kỳ cái gì quý vị dùng cũng chỉ là đầu óc mà thôi. Quý vị dùng đầu óc sẽ được ghi chép nhiều thói quen xấu. Bây giờ quý vị không thể bắt kịp với chỉ trong một khoảng ngắn của một đời người. Cho nên quý vị cần lực lượng vô thượng bên trong mà quý vị vốn đã có sẵn. Quý vị chỉ cần minh sư dụng đến nó cho quý vị, để nó mở ra cho quý vị. Bằng sự thành tâm của mình, quý vị lại có nó trở lại và lấy lại tất cả những gì quý vị đã đánh mất. Sư Phụ Kể Chuyện, bản tin 72 Suma Ching Hai giảng trong buổi cộng tu tại Melbourne, Úc Châu, Ngày 13 tháng 3, 1993 (Nguyên văn tiếng Anh) Quý vị biết tại sao Giê-su Ki Tô nổi tiếng không? Vì Ngài là minh sư, đúng vậy! Minh Sư là một người vĩ đại có trí huệ. Chúa Giê-su sinh tại thiên quốc. Khi lớn lên thì giúp đỡ mọi người về linh hồn chớ không giúp đỡ về phương diện tiền bạc. Tiền thì Giê-su Ki Tô không có, nhưng Ngài có đầy đủ đạo đức, đại trí huệ cho nên rất nhiều người yêu chuộng Ngài. Khi Giê-su Ki Tô lớn lên, cha mẹ Ngài rất thương Ngài, Ngài học gì đều hiểu rất nhanh, rất thông minh và lương thiện, cho nên rất nhiều người thương Ngài, Thượng Đế cũng thương Ngài. Ngài là một người có phẩm cách và thông minh. Mỗi năm Joseph và Mary, hai vị này gọi là cha mẹ của Giê-su Ki Tô, đều đến Jerusalem tham gia thánh hội của người Do Thái. Trong cuộc thánh lễ này, họ cầu nguyện những lời tri ân Thượng Đế, cảm ơn Ngài đã cứu giúp người Do Thái, còn đặc biệt giúp đỡ họ đời đời kiếp kiếp, giải cứu họ từ cuộc sống nô lệ tại Ai Cập từ thời xa xưa. Cho nên mỗi năm họ đều tổ chức một buổi lễ để cảm ơn Thượng Đế bên trong, Sư Phụ bên trong. Lúc đó chắc chắn họ có minh sư. Giê-su lúc đó mới 12 tuổi, rất vui vẻ đi theo họ. Họ mừng lễ một cách hân hoan và náo nhiệt. Khi đến giờ về nhà, Mary và Joseph chuẩn bị ra về. Nghĩ rằng con mình đi trước hay theo sau đoàn lữ hành, họ không để ý Giê-su đã đi đâu. Mãi đến tối, họ mới khám phá ra là không có Giê-su. Họ bắt đầu tìm kiếm giữa đám bạn bè và những người khác. Một đứa trẻ 12 tuổi có thể đi đâu? Mary và Joseph lo lắng quá, cả đêm ngủ không được. Sáng hôm sau, họ trở lại Jerusalem kiếm Giê-su. Họ kiếm hết cả ngày, cuối cùng mới tìm thấy Ngài. Quý vị đoán xem, Ngài ở đâu? (Đáp: Ở giáo đường?) Đúng! Đúng vậy! Cuối cùng họ đã tìm thấy Giê-su ở một giáo đường. Giê-su đang ngồi với một nhóm người tu hành, ngồi với những đại sư, pháp sư, hỏi những câu hỏi tu hành, hỏi họ về phương diện đạo đức và luật pháp của Thượng Đế, những chuyện người lớn. Mọi người tại đó đều rất vui vẻ và ngạc nhiên, đứa trẻ mới 12 tuổi, sao lại thích thú chuyện tu hành như vậy, tôn kính Thượng Đế như thế, lại biết hỏi câu hỏi thông minh như vậy. Quý vị biết, nếu chúng ta không đủ thông minh, dù cho có câu hỏi cũng không hỏi được. Như quý vị tại trường học, khi thầy giáo hỏi: “Quý vị hiểu chưa?” Ai muốn hỏi gì? Rồi có người hỏi câu hỏi rất thông minh, có người hỏi câu hỏi rất ngu, Giê-su Ki Tô thì đâu có ngu, câu hỏi của Ngài đều rất thông minh, cho nên mọi người đều cảm thấy rất ngạc nhiên và cũng rất thích. Ta Phải Ở Trong Nhà Cha Ta Khi cha mẹ Ngài tìm thấy Ngài, thánh mẫu Mary hỏi Ngài: “Trời! Tại sao con làm vậy? Sao chạy đi mà không nói với ba má? Làm ba má lo lắng quá, tối cũng ngủ không được.” Thánh mẫu cằn nhằn Ngài, y như cha mẹ của quý vị vậy. Nếu quý vị không ngoan, hoặc chạy đi đâu mất, khi cha mẹ tìm thấy quý vị, họ cũng cằn nhằn như vậy, phải không? Đặc biệt là mẹ cằn nhằn nhiều hơn. Đối với câu hỏi của mẹ, Giê-su cảm thấy rất kinh ngạc. Ngài cho là mẹ không nên hỏi câu hỏi như vậy, thay vì trả lời. Ngài hỏi mẹ rằng: “Nhưng tại sao ba má không biết con ở đây? Ba má phải biết dĩ nhiên con đang ở trong nhà của cha con.” Ý Ngài nói ở giáo đường. DĨ nhiên con phải ở trong nhà của cha con, sao ba má không biết?” Ngài rất ngạc nhiên hỏi mẹ như vậy. Mary và Joseph không biết trả lời Ngài như thế nào, có lẽ họ không khai ngộ bằng Giê-su. Cha mẹ không cần phải thông minh hơn trẻ con, cũng có tình trạng như vậy. Một số trẻ con là thần đồng, 10 tuổi, 7 tuổi, 4 tuổi đã rất giỏi, biết hỏi nhiều câu hỏi, khiến ba má không thể trả lời. Họ quên Thượng Đế là cha của Giê-su Ki Tô, không phải là họ! Giê-su chỉ mượn thân thể họ để sinh ra mà thôi, rồi nuôi nấng Ngài một thời gian, họ không phải là cha mẹ chân chính của Giê-su Ki Tô. tuy nhiên, Giê-su vẫn đi theo họ ra về. Về đến nhà, Giê-su vẫn ngoan ngoãn như trước. Tại sao đối với nhà thờ và giáo lý của thượng Đế Giê-su lại thích thú đến như thế? Quý vị con nít biết không? (Con biết.) (Sao con biết) (Đứa trẻ trả lời: Vì ngài là con của Thượng Đế.) Con của Thượng Đế! À! Vì Ngài là con của ông trời, con của Thượng Đế, đúng! Đúng rồi! Ngài sinh ra đã có phẩm chất khai ngộ, vì đời đời kiếp kiếp Ngài đã có tu hành, Ngài chính là con của Thượng Đế, nhưng tôi hỏi lại quý vị câu hỏi này. Nếu Giê-su Ki Tô là con của Thượng Đế vậy các con là ai? (Đứa trẻ đáp: là của người!) Các con là người sao? Con thấy con là người gì? (Đứa trẻ trả lời: Chúng con là người tu hành). Quý vị là người tu hành, như vậy còn tốt hơn Ngài một chút, quý vị đã thọ Tâm Ấn, Ngài thì chưa. Đúng rồi chúng ta là người tu hành, cũng tạm được. Còn ai nghĩ khác? Chúng ta là người gi? (Đứa trẻ đáp: Là con của Thượng Đế!) Con của Thượng Đế, Ai? Ai dám nói vậy? (Đứa trẻ đáp: Tất cả mọi người đều là con của Thượng Đế, sinh ra làm người chính là Thượng Đế tạo nên, cho nên là con của Thượng Đế, Sư Phụ nói vậy mà.) Sư Phụ nói vậy! (Sư Phụ và mọi người cười) Sư Phụ nói có gì hay, Sư Phụ tưởng con tự ngộ ra chứ. Thôi được, nếu như chúng ta đều là con của Thượng Đế, vậy tại sao còn khác với Giê-su? (Đứa trẻ đáp: Giống người chúng ta khác với người thời đó) Khai ngộ quá rồi, hết cách thôi! Giống người khác, vậy chúng ta phải đầu thai làm người Do Thái mới có thể làm con của Thượng Đế sao? Gì mà giống người khác, nãy giờ không phải con nói Sư Phụ bảo mọi người đều là con của Thượng Đế sao?) (Đứa trẻ đáp: Giống người họ bên đó khác với giống người Trung Hoa tại đây.) Cùng Là Con Của Thượng Đế Mọi người chúng ta đều là con của Thượng Đế, nhưng một số thì ngoan hơn, một số khác không ngoan. Như chúng ta là một gia đình có 3, 4 đứa con, đều cùng một cha mẹ sinh ra. Tuy cùng cha mẹ, nhưng có đứa rất ngoan, đứa thì phá phách, đứa thì thông minh, đứa thì chậm, đứa đẹp đứa xấu, đứa bị khuyết tật, đứa thì tâm trí không được bình thường. Cùng một cha mẹ sinh ra, cha mẹ không có tâm phân biệt, không quyết định nói rằng tôi sinh đứa con này ra phải nhất định thông minh, cũng không thể nói như vậy, rồi lại sinh đứa khác nói là: “Đứa này tôi chưa sinh ra, nhưng tôi đã ghét nó rồi, phải cho nó xấu.” Không cha mẹ nào nghĩ như vậy. Mọi người đều sinh ra bình đẳng, được thương hết lòng. Kết quả có người rất xấu, người rất đẹp; người rất ngoan, người rất phá phách; người rất chậm, người rất thông minh. Cũng vậy, chúng ta đều là con của Thượng Đế, không phải chỉ một mình Giê-su Ki Tô mà thôi. Tuy nhiên, vì Ngài đã nhận biết cha của Ngài, cho nên Ngài có thể nói một cách chính đáng: “Ta biết cha ta là ai”. Chúng ta vì xa lìa ba má, xa lìa cha, cho nên chúng ta không nhận biết Ngài. Thật ra chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng cùng địa vị như Giê-su Ki Tô, không khác chút nào cả. Ngài rất cố gắng nghĩ đến cha của Ngài, đấng cha lành, Người cha chân chính, Thượng Đế trên Thiên Quốc, cho nên suốt ngày yêu cầu Thượng Đế thị hiện cho coi, để Ngài biết cha ở đâu, và tìm ra mối quan hệ chân chính với nhau. Vì chúng ta không tưởng nhớ đến Ngãi suốt ngày chúng ta chỉ tưởng nhớ đến bà con thân hữu của thế giới chúng ta, chúng ta không nhớ đến cha mẹ chân chính của chúng ta. Cha mẹ chân chính của chúng ta không thể cưỡng bách chúng ta phải nhớ đến họ, cũng không cần thị hiện ra. Chúng ta quá bận rộn, không nghĩ đến họ. Chúng ta bận những gì? Bận công việc thế giới, bận danh lợi, bận cái này, bận cái kia, bận săn sóc những bà con thân hữu tại đây. Trong câu chuyện này, Giê-su Ki Tô không nói: “Các người là cha mẹ của ta.” Ngài hiểu thực sự Ngài là con cũa Thượng Đế, cho nên Ngài nói với ba má: Sao các người không biết ta đang ở trong nhà của cha ta làm việc cho cha ta? Chỉ 12 tuổi Ngài đã có nhận thức được như vậy. Ngài đã biết ngài là ai, Ngài nhận biết lực lượng của tạo hóa, Ngài không thừa nhận tình cảm của loài người vô thường. Giê-su Ki Tô 12 tuổi đã nhận biết quan hệ chân chính giữa Ngài và Thượng Đế. Tuy nhiên, đối với ba má Ngài vẫn rất có hiếu, Ngài vẫn là một đứa trẻ ngoan. Trẻ em tu hành của chúng ta cũng nên làm như vậy, tuy hiểu rằng thế giới vô thường, bà con thân hữu gì cũng đều do nhân quả tạo nên, cha mẹ chân chính của chúng ta là Đấng tạo hóa. Tuy nhiên, trong thế giới này, đối với bà con thân hữu, thầy cô, cha mẹ, vẫn phải ngoan ngoãn nghe lời, tôn trọng người lớn, tôn trọng cha mẹ, tôn trọng các thầy cô. Đối với bạn bè, thân quyến phải có lòng thương, như Giê-su Ki Tô vậy. Cả Giê-su Ki Tô đối với cha mẹ cũng phải tôn trọng, huống chi chúng ta. Chúng ta phải tôn trọng nhiều hơn nữa. Tuy Ngài nhận biết cha Ngài là đấng Thượng Đế cao cả nhất, Ngài vẫn làm tròn trách nhiệm của thế giới, huống chi chúng ta chưa nhận biết Thượng Đế! Chúng ta phải làm y như vậy, hoặc hơn nữa nhé! Sư phụ kể chuyện, Bản tin 77, Truyện Thánh Kinh Suma Ching Hai giảng tại Đạo Tràng Tây Hồ Formosa Ngày 8 tháng 7, 1996 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa) Có một người tọa thiền rất, rất siêng năng. Rồi ông ta trông thấy một thiên thần hiện đến, nói rằng: “Ta là thiên thần Arch angel Micheal.” Ông còn đang mơ hồ giữa tỉnh và thức, mê và vô giác, quý vị biết những từ ngữ to tát trong Phật giáo hả? Rồi ông mở mắt ra: “Cái gì? Thiên thần? Ai? Thiên thần hả? Ừ... Thiên thần?” Thiên thần bèn nhắc lại: “Ta là thiên thần Micheal. Ta được gửi đến để trao cho ngươi vài thông điệp rất quan trọng, vì ngươi có một sứ mệnh lớn trong cuộc đời, để gởi tới mọi chúng sinh.” Quý vị biết đậu sinh không? Đậu Mễ Tây Cơ? Đậu đen? (Mọi người cười) Bây giờ vị thiền sinh nầy xuất định nói: “Hả? Ông nói gì đó?” Vị thiên thần bèn nhắc lại lần nữa, rằng ông ta được gởi tới người này vì người này có đạo đức và có một sứ mệnh từ Thượng Đế, v.v... Nhưng vị thiền sinh nói với thiên thần rằng: “Ô, tôi nghĩ ông lầm rồi. Tôi không đạo đức vậy đâu. Tôi không thánh thiện như vậy đâu. Tôi nghĩ tôi không xứng đáng để được gởi đến một thiên thần như vậy. Ông đi tìm chỗ khác đi.” Vừa mới nói vậy thì vị thiên thần biến mất. Bây giờ thử trí thông minh của quý vị. Tại sao? (Mọi người cười) Không biết à? tốt lắm! Đúng như tôi đoán quý vị sẽ nói vậy. (Sư Phụ cười). Vì không có một vị thiên thần thiệt. À! Bây giờ quý vị biết rồi. Đó là ma, chính Ma Vương tới thử người này. May mà người này có đủ ý lực, đủ khiêm nhường, biết mình, không tham danh lợi, lời khen tặng, và sự vinh danh, bất kể là từ đâu đến. Chúng ta những người tu thiền, phải ghi nhớ điều này. Khi nào chúng ta ham muốn lợi ích nhanh, khai ngộ nhanh, được trọn vẹn 100% như chiếc bánh pizza trên đĩa, chúng ta vội vã thì sẽ bị rơi vào cạm bẩy của ma quỷ. Như Tôi đã dặn quý vị lúc truyền Tâm Ấn. Ma Vương, Vua của ảo tưởng, hay là yêu ma, bất cứ lúc nào cũng có thể biến hóa thành giống như Phật, yêu ma hoặc thiên thần, hoặc Thượng Đế, hoặc bất cứ vị thánh nào trong quá khứ, hiện tại hoặc tương lai để đánh lạc hướng những người tu hành thành tâm hoặc vô ý bất cẩn, hoặc thiếu thận trọng. Trong kinh Phật giáo cũng có nói đến 50 thứ cạm bẫy mà yêu ma thường hay dùng để đánh lừa người tu hành, để làm lạc đường người đó. Tuy nhiên, cũng không cần biết nhiều về ma quỷ làm gì Chỉ cần quý vị giữ mình thanh tịnh, thành tâm, thành thật với chính mình, thì quý vị sẽ không bao giờ bị rơi vào cạm bẫy, gặp bất cứ khó khăn gì, không ai có thể lừa bịp quý vị được, dù đó là Ma Vương đi nữa. Nếu chúng ta ham danh vọng, lợi lộc và địa vị cao, dù trong những cấp bậc tu hành đi nữa, chúng ta sẽ hay bị rơi vào cạm bẩy của lực lượng phủ định, vì đó là điều mà chúng đang trong mong, chờ lúc chúng ta không đề phòng là chúng sẽ tẩy não, khiến chúng ta tưởng rằng mình tu đã thành Phật, mình vĩ đại, mình có một sứ mệnh, rằng cái này, cái kia. Rồi chúng ta đâm ra hãnh diện. Chúng ta sẽ mắc vào sự hãnh diện giả tạo, sự kêu ngạo, thế là xong! Phải, có thể chúng ta sẽ phải trở lại với tính khiêm nhường và tiếp tục tu hành như trước, nhưng có thể sẽ rất là khó. Chúng ta có lẽ đã bị dẫn đi xa, quá xa, khi trở lại sẽ mất rất lâu. Chúng ta sẽ mất nhiều thời giờ và sức lực. Cho nên, làm người tu hành, chúng ta không thể nào bất cẩn, hãnh diện với sự tu hành của chúng ta, hoặc muốn nhanh chóng có một địa vị trong thế giới tâm linh. Nhiều người chỉ tọa thiền một chút, không giữ giới cẩn thận, ăn chay thì tàm tạm, mới có một vài thể nghiệm lầm lạc, họ đã tưởng rằng họ thành minh sư hoặc Phật rồi. Quý vị có thể muốn thành gì đó thì thành, có thể khoe khoang sự thành đạt của mình, những thành quả, tự chúng sẽ nói lên sự thật... Đôi khi nó hủy hoại cuộc đời của quý vị. Chúng ta tự làm hại mình. Trở về nơi của chúng ta khi trước thì đã trễ quá rồi. Cho nên, tính khiêm nhường trong sự tu hành rất quan trọng. Chúng ta phải khiêm nhường bên trong, không phải chỉ có hành động khiêm nhường thôi. Đôi khi người ta không hành động khiêm nhường nhưng bên trong họ rất khiêm nhường. Có người lam bộ khiêm nhường, nhưng thật ra bên trong họ rất, rất là kiêu ngạo. Đôi khi dáng dẻ bên ngoài khiến người ta hiểu lầm. Phần đông chúng ta, những người tu Pháp Môn Quán Âm, nếu đến một mức độ tu hành nào đó, cao đủ, chúng ta có thể cảm nhận được người khác, bên trong người đó thế nào, không phải nhìn bên ngoài. Hoặc, nếu chúng ta tu mỗi ngày mỗi cao, đôi khi người nào đến gần bên cạnh, chưa giáp mặt, cũng không thấy người đó là ai, chúng ta lập tức biết người đó là ai. Quý vị có khi nào có kinh nghiệm đó không? Có há? Quý vị có thể cảm nhận được từ trường, năng lực của người đó và biết người đó. Dĩ nhiên, không phải người lạ, vì nếu là người lạ, quý vị không biết. Nhưng nếu quý vì có nhiều bạn bè, gia đình chung quanh, ai tới cửa, trước khi quý vị thấy mặt, quý vị đã biết về người đó rồi. Nó sẽ như vậy, không phải vì quý vị thấy hoặc nghe tiếng người đó. Khi biết người đó tới, khi người đó mới tới vài phút hoặc đến trước mặt, quý vị biết ngay là quý vị nghĩ đúng. Bởi vì tất cả những giác quan thứ sáu, giác quan thể xác và tâm linh của quý vị sẽ được mài dũa và mài dũa, rất nhiều sau một thời gian tu hành. Không những tu Pháp Môn Quán Âm mà bất cứ pháp môn nào khác, đến một lúc nào đó sẽ cho quý vị loại tha tam thông này, thiên nhĩ thông hoặc có khả năng thần lực. Những điều này không có gì quan trọng. Đây chỉ là những khả năng thần lực nhỏ bé vốn đã sẵn có bên trong chúng ta, Có nhiều phương diện trí huệ còn vĩ đại hơn để chúng ta khám phá nếu chúng ta tu Pháp Môn Quán Âm Sư Phụ kể chuyện, Bản tin 71 Suma Ching Hai khai thị tại Formosa, Ngày 20 tháng 2, 1996 (Nguyên văn tiếng Anh) Hồi xưa có một vị tu hành đang ngồi ngoài đường. Lúc đó có nhiều người chạy ngang qua nói rằng: "Chạy! Mau lên! Có một con voi khổng lồ điên khùng đang đuổi chúng ta đó. Nó có thể giết người. Chạy lẹ lên!" Nghe thế, vị tu hành đáp: "Tôi tin Thượng Đế. Thượng Đế ở trong con voi đó; nên tôi không sợ." Một lúc sau, con voi đó xông tới giết ông ta. Ông ta tin con voi đó có Thượng Đế, vậy tại sao không tin những người mang tin kia cũng có Thượng Đế? Tại sao không tin một Thượng Đế bình thường mà lại tin một Thượng Đế khùng điên? Thành ra, như vậy là không hợp lý. Còn một câu chuyện nữa ở Ấn Độ. Có lần một bệnh dịch vô cùng độc hại đang lan tràn khắp nơi bên Ấn Độ. Nhưng một nơi chưa bị ảnh hưởng. Chính phủ quyết định chích ngừa cho những người ở đó, nhưng một số phản đối. Họ không biết ngừa dịch là gì cho nên chống đối mãnh liệt. Sau đó, chính phủ, những cơ quan thiện nguyện và bác sĩ quyết định nửa đêm lẻn vào nhà và dùng quyền lực bắt họ chích ngừa. Bởi vì chỉ cần một người nhiễm bệnh là tất cả mọi người trong thành phố sẽ bị lây. Quý vị biết rõ rằng nếu một người sót lại không được chích ngừa thì khó lòng thực hiện được công việc phòng bệnh. Cho nên họ quyết định phải làm như vậy. Tối hôm đó, một nhóm bác sĩ, y tá vào nhà của một gia đình kia. Họ bắt mọi người trong nhà bước ra để họ chích; đương nhiên những người nầy chống cự mãnh liệt. Song các bác sĩ vẫn phải làm bổn phận và chích ngừa cho họ. Khi chích xong họ mới thả gia đình đó tự do. Lúc bấy giờ vị gia trưởng đứng lên nói: "Vì tín ngưỡng nên chúng tôi không muốn chích ngừa. Chúng tôi cố gắng hết sức chống lại, nhưng các ông đã dùng sức mạnh bắt chúng tôi hàng phục, chúng tôi thật không chịu nổi. Nhưng mọi chuyện đã qua và bây giờ các ông là khách của tôi. Tôi không có gì trong nhà để cúng dường các ông, ngoại trừ một quả dưa leo." Đó là vì theo phong tục của người Ấn Độ, khi tới nhà một người nào, quý vị là Thượng Đế. Họ cần phải đối xử quý vị như đối xử Thượng Đế vậy, đem ra tất cả những gì họ có để cúng dường quý vị ăn và uống. Cho nên ông mời họ nước lọc và dưa leo, vì lúc đó trong nhà chỉ có thứ đó thôi. Ông nói với bác sĩ rằng theo tín ngưỡng của ông thì khi Thượng Đế muốn người nào bệnh người đó sẽ bệnh và không nên đi ngược ý muốn của Thượng Đế. Nên ông đã nhất định chống. Nghe vậy mấy ông bác sĩ cảm thấy xấu hổ cho rằng nguôi đàn ông này rất là sùng đạo. *** Tuy nhiên, theo tôi thấy lòng tin của người này cũng giống như đường một chiều. Ông ta không nghe những điều Thượng Đế muốn nói mà lại tự quyết định ý của Thượng Đế rằng Thượng Đế muốn ai bệnh người đó sẽ bệnh. Nhưng Thượng Đế cũng gởi những vị bác sĩ này đến; điều đó cho thấy rằng Thượng Đế muốn họ được chích ngừa. Điều này còn rõ ràng hơn nữa, đúng không? Sao phải chống đối không chịu nghe những gì Thượng Đế nói? Nếu thật sự Thượng Đế đã nói với người đó rằng: "Ngươi không cần chích ngừa vì ta không muốn ngươi đau ốm. Khi ta muốn người nào đau ốm, người đó sẽ đau ốm!" Cũng có thể nó như vậy. Tuy nhiên, Thượng Đế cũng đào tạo bác sĩ, có nghĩa là Ngài có ý khác. Thượng Đế muốn giúp những người không muốn bệnh, an bày cho họ được chích ngừa, v.v... Thành ra, chúng ta những người kêu bằng tu hành không nên quá cứng đầu, bướng bỉnh. Hoàn cảnh nào mình phải đối phó tùy theo hoàn cảnh đó. Nếu đau ốm, ngoài việc ngồi thiền và cầu nguyện, mình cũng nên uống thuốc nếu có. Nếu không có thuốc thì đương nhiên là phải hoàn toàn dựa vào cầu nguyện, coi Thượng Đế an bày như thế nào rồi cứ đó mà theo. Nếu Thượng Đế sắp đặt cho một vị bác sĩ tới nhà mà quý vị vẫn từ chối, làm sao biết vị đó không phải là của Thượng Đế gởi tới? Không phải quý vị đã nói rằng mọi việc đều do Thượng Đế an bày hay sao? Cho nên, bác sĩ đã đến như vậy có nghĩa là Thượng Đế đã an bày chuyện đó. Sao phải từ chối, bướng bỉnh chi cho khổ? Ngoài câu chuyện này còn có nhiều câu chuyện khác tương tự. Thế giới này là như vậy. Nhiều người tự cho mình là có lòng tin rất mạnh. Nhưng nói thì đơn giản, tới khi chạm với thực tế thì hay rên la. Như gia đình đó, giả sử họ không chích ngừa rồi về sau mắc bịnh, họ sẽ đau khổ vô cùng trước cái chết. Lúc đó chắc chắn họ sẽ khóc lóc, trách than sao Thượng Đế không cứu, sao không săn sóc họ để họ mắc bệnh như vậy. Đồng tu chúng ta cần phải nhanh nhẹn, hiệu lực. Không nên nói rằng: "Ta tin Thượng Đế, như vậy là được rồi" Chỉ vì biếng nhát hoặc bướng bỉnh. Nếu đúng như vậy thì tại sao phải mất công ăn uống, mặc quần áo? Quý vị tin tưởng Thượng Đế, như vậy là được rồi; người khác không thể nhìn thấy quý vị lõa lồ. Quý vị tin tưởng Thượng Đế, như vậy là được, sẽ không cảm thấy đói bụng. Vô lý quá! Nói thì nghe tiện lắm. Chúng ta thích nói theo kiểu nào tiện cho mình vì chúng ta không muốn làm khác, rồi bảo rằng mình tin Thượng Đế, sau đó cái gì cũng trách Ông Trời, dùng Ngài làm tấm bình phong cho tất cả mọi sự. Thành ra, những người tu hành cần cẩn thận! Sư Phụ Kể Chuyện, Bản tin 120 Thanh Hải Vô Thượng Sư kể, tại Hsihu, Formosa, Ngày 19 tháng 2, 1996 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa) Ngày xưa có một vị minh sư Ấn Độ, đương nhiên là ông có rất nhiều đệ tử, một trong những đệ tử của ông là một vị đại quan. Viên đại quan nầy âm thầm đến học, không cho ai biết ông là đệ tử cũa người nào. Cũng có người âm thầm đến học với Tôi, không dám công khai, sợ mưa to gió lớn ngoài đời, cũng được không sao cả! Bí mật đến học Tôi cũng truyền, công khai đến học Tôi cũng truyền, sao cũng được cả, Tôi không ám chỉ gì quý vị! Tôi chỉ kể câu chuyện trước đây mà thôi. Vị đại quan nọ âm thầm đến học, không dám nói cho người khác hay, vì sợ ảnh hưởng đến địa vị của mình. Ông là một vị đại quan, cai quản một vùng đất rộng lớn. Mỗi lần ông ta muốn đến học hỏi với vị thầy, chỉ bí mật đi một mình, không cho tùy từng theo. Ông chờ lúc trời thật tối rồi mới dám lặng lẽ đến. Có việc gì cần thỉnh giáo với sư phụ của ông, ông chỉ đến khi lúc trời hãy còn tinh mơ, hoặc lúc trời đã thật tối. Điều này cũng không sao, sư phụ của ông cũng không để tâm. Một ngày nọ, có một đồng tu đến gặp vị minh sư vào lúc trời tối, vô tình gặp viên đại quan ở đó, người đồng tu này là người rất đơn thuần, cho nên vui mừng nói: “Anh cũng học với sư phụ. Ô! Thật là hay! Chúc mừng, chúc mừng!” Anh ta ngỏ lời chào một cách nồng nhiệt. Vị đồng tu này là một người vô danh tiểu tốt, nghèo nàn, địa vị thấp kém trong xã hội. Vài ngày sau ra khỏi nhà, anh ta gặp lại vị quan nọ, bèn mới gọi lớn: “Sư huynh!” Anh ta gọi vị đại quan trước đám đông người: “A! Chào sư huynh, tôi rất vui mừng gặp lại anh, anh có nhớ không? Hôm nọ chúng ta cùng uống trà tại nơi sư phụ đó, nhớ không?” Vị đại quan nọ liếc nhìn anh ta rồi nói: “Ai là sư huynh của ngươi? Cút đi!” (Sư Phụ giả bộ dáng vẻ của vị đại quan) (mọi người cười và vỗ tay), sau đó bảo tùy tùng đuổi anh ta đi. Người sư đệ rất đau lòng, tại sao lại như thế, anh không hiểu nổi! Anh đau lòng quá rồi bật khóc! Về nhà kể với sư phụ của mình: “Sư phụ! Vị sư huynh ấy thật hung dữ. Thấy anh ta con mừng hết cỡ, nên mới gọi sư huynh, anh ta lại bảo tùy tùng đuổi con, hu, hu, hu.” (Sư Phụ cùng mọi người cười) “Ái chà!” Vị sư phụ nghe qua cũng không vui. Thật vậy! Ông không vui. Viên đại quan nầy xem thể diện của mình còn hơn sự vinh dự của tình thầy trò! Cho nên vị này rất giận dữ, nói với những người đệ tử khác rằng: “Về sau nếu viên quan lớn ấy đến, đừng cho ông ta bước vào cửa. Kể từ nay ta và người ấy đoạn tuyệt quan hệ thầy trò.” Sau đó viên đại quân ấy trở lại, mọi người không cho ông ta vào. Ông chỉ còn biết trở về! Về đến nhà ông mới cảm thấy thật đau khổ. Sau khi chúng ta thọ Tâm Ấn, giữa sư phụ và đệ tử có một mối dây thâm tình rất đặc biệt, có một sự câu thông bên trong, liên lạc rất rõ ràng. Vì thế cho nên chúng ta rất thích sư phụ mình, bên trong đồng một thễ, cho nên đẳng cấp của chúng ta mới thăng hoa. Vị sư phụ chúng ta cao, chúng ta với Ngài đồng một thễ, chúng ta cũng được nâng cao lên, cảm thấy như được liễu thoát những ràng buộc của thế tục, những phiền não và đau khổ cũng giảm bớt. Dù có đau khổ, chúng ta cũng chịu đựng nổi, tự nhiên cảm thấy rất vui vẻ. Nhưng sau khi cắt đứt quan hệ với một vị thầy, hệ thống đó bị cắt đứt mất rồi! Chúng ta rơi xuống như những người phàm phu vậy, bên trong không còn lương thực tinh thần bổ sung, mỗi ngày không dùng lương thực tinh thần, loại lương thực đó sư phụ dùng tâm truyền sang để bồi bổ, nên mới vô cùng đau khổ, vô vàn đau đớn. Lúc đó ông mới cảm thấy tâm hồn ông khác trước, đột nhiên thay đổi hẳn! Ông cảm thấy thật cô đơn, thật thống khổ, không còn sức sống, mất đi tất cả những niềm vui. Vì bây giờ không còn lương thực tinh thần để ăn! Cũng giống như mỗi ngày chúng ta không ăn cơm, toàn thân cảm thấy như khác đi! ông ta hiểu rằng mình đã làm sai! Ông ta rất ân hận, rất hối hận, ông rất khát khao được tìm lại niềm vui như thuở trước, ung dung nhàn hạ, có cảm giác được người người yêu thương, bây giờ thì không còn gì nữa! Ông ta cảm thấy vô cùng, vô cùng đau khổ, cô đơn và khát khao được gặp sư phụ của ông một lần nữa mà không được. Bên ngoài không gặp được, con bên trong cũng không sao câu thông. Đứt mất rồi. Vị sư phụ nói cắt là cắt, vì do quan hệ tâm truyền tâm, đó là một thứ vô hình. Tuy là vô hình nhưng thật sự có hiện hữu, cho nên sư phụ của ông muốn cho là cho, muốn lấy lại là lấy lại, rất đơn giản. Như những vật hữu hình, Sư Phụ muốn cho quý vị thì cho, phải không? Khi Sư Phụ muốn lấy lại thì Sư Phụ lấy lại, nghe hiểu không? Rất giản dị. Những vật vô hình cũng giản dị như thế. Muốn cho là cho, muốn lấy lại là lấy lại. Cho nên lúc quý vị thọ Tâm Ấn mới có được thể nghiệm khai ngộ, gọi là món quà ra mắc vậy! Vừa mới đến thọ Tâm Ấn là nhận được quà, Sư Phụ có cho quý vị, nhưng nếu Ngài muốn lấy lại cũng sẽ lấy lại rất nhanh, không có vấn đề gì. Cho nên viên đại quan rất đau khổ, bây giờ mới biết tình thương của sư phụ là vật quý nhất trong cuộc đời này, không gì so sánh được. Ông ta thật đau khổ, không muốn làm quan nữa. Ông cáo quan về nhà và nghĩ cách để tìm lại bầu không khí và đẳng cấp lúc sư phụ ông còn yêu thương ông trước đây, ông muốn tìm trở lại tình thương ấy. Ông cảm thấy hối tiếc và xấu hổ. Nhưng làm gì cũng vô ích, ông ngồi thiền cũng vô dụng. Bây giờ ngồi thiền không còn ánh sáng, không còn âm thanh, không còn gì nữa cả, khô khan cằn cỗi. Trở lại những ngày tháng còn là phàm phu tọa thiền cũng không ra gì như trước đây, không có một chút an ủi, một chút kết quả. Ôi! Thật là đau khổ. Ông suy nghĩ thật lâu và cuối cùng tìm ra được một phương pháp. Ông biết ngày sinh nhật của sư phụ ông, sẽ có rất nhiều người đến khiêu vũ, ca hát chúc mừng, nên ông mới đi tìm một đoàn vũ chuyên môn biểu diễn múa hát. Ông biết có một ông chủ nọ rất giàu có, đã mướn một đoàn hát, thường đợi đến sinh nhật của sư phụ đến múa cho sư phụ xem. Đoàn hát nầy lúc đó rất nổi tiếng tại Ấn Độ, họ nhảy rất hay, rất đẹp lại có nhiều tài nghệ, cho nên ông nhà giàu nầy nhất định muốn mời đoàn vũ này đến trình diễn cho sư phụ mình xem. Vị quan lớn này nghe tiếng như vậy bèn đến kết bạn với những vũ công của đoàn vũ nọ, năn nỉ và cho họ rất nhiều tiền cùng những đồ vật quý báu. Ông còn hối lộ cho người đoàn trưởng: “Xin ông dạy cho tôi cách khiêu vũ, hát ca, tôi rất muốn học.” Ông rất thành tâm, ngày nào cũng năn nỉ người trưởng đoàn dạy ông ca hát. Ông rất chân thành, đối với vị sư phụ đoàn trưởng ông vô cùng kính trọng, ông làm một người học trò tốt, mỗi ngày đến rửa chân cho đoàn trưởng, tôn kính bái lại đoàn trưởng làm thầy, nên ông đoàn trưởng rất cảm động, đem hết bí truyền nhà nghề truyền lại cho ông. Cứ như thế ông học được tròn một năm, tất cả các bí quyết ông đều học và múa giống hệt như họ. Không ai có thể nghĩ rằng ông không phải là người trong đoàn hát. Người đoàn trưởng rất cảm động, hết sức cảm động trước tấm lòng thành của vị đại quan này. Viên đại quan này cũng rất kính trọng người đoàn trưởng, vì ông ta nhất định muốn học, ông ta thật là một người học trò tốt. Trước đây ông ta đối xử với sự phụ ông không được tốt như thế, ngày nay ông đã làm một người học trò thật ngoan ngoãn. Ngày nào ông cũng học nhảy múa, như thế được tròn một năm. Đến ngày sinh nhật của sư phụ ông, ông nói với người đoàn trưởng rằng: “Hôm nay tôi muốn hóa trang thay thế cho một vũ công trong đoàn, được không?” Đoàn trưởng đương nhiên đồng ý và bảo một người học trò hôm đó nghĩ. Viên đại quan tự hóa trang giống như một phụ nữ vậy. Y trang và mọi thứ đều đẹp đẽ. Ông cùng với mọi người trong đoàn trình diễn, vừa hát vừa múa cho sư phụ ông nghe. Lúc hát, ông rất thành tâm, diễn đạt sự đau khổ và dằn vặt trong nội tâm ông, ai nghe đều xót xa cảm động. Sư phụ của ông nghe tiếng hát của ông hiểu liền, một giọng hát thật thiết tha. Sư phụ ông liền hiểu ngay và không chịu nổi, sư phụ của ông cũng không chịu nổi, nên vội từ trên khán đài bước xuống, đến ôm ông. Mọi người đều nhìn thấy (mọi người cười). Quý vị có biết họ biểu lộ như thế nào không? “Ồ! Sư phụ đang ôm một cô gái.” Họ đều sửng sốt ngạc nhiên! Tất cả mọi việc đều ngừng lại, mọi người đều im lặng nghe thầy mình nói: “Ngươi mau cởi y trang ra để mọi người biết ngươi là ai.” Sau đó mọi người mới biết thì ra là viên đại quan. Kể từ ngày hôm đó, sư phụ của ông đương nhiên tha thứ cho ông, cho phép ông được trở lại làm đệ tử, cuối cùng ông đã tìm lại được niềm sung sướng chân thật! Nếu từ trước đến nay chúng ta chưa có được một chút tình thương nào, chúng ta không hiểu nó là gì, chúng ta không biết tưởng nhớ nó, nhưng khi đã có nó rồi lại mất đi, ái cha! Thật là đau khổ, thật là đau khổ, có phải như thế không? (Mọi người đáp phải!) Sư Phụ Kể Chuyện, Bản tin 70 Suma Ching Hai kể tại đạo tràng Tây Hồ, Formosa Ngày 23 tháng 7, 1989 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa) Có một phú ông rất giàu có. Ông mời một nhà sư Tên Sunka đến giúp viết cho ông một cập đối liễn. Vào thời xưa, khi căn nhà mới xây xong hoặc vừa khai trương cửa hàng, người ta thường tìm những người viết chữ đẹp, có tu hành, có một chút tiếng tăm, viết dùm những câu đối cho họ để hy vọng gia đạo may mắn. Câu chuyện này có lẽ là của Nhật Bổn. Viên phú ông nọ mời một pháp sư đến viết cho cập đối liễn và nói với vị nầy rằng: “Xin ông viết câu gì, giúp cho họ hàng nhà tôi, đời này sang đời kia đều phát đạt, con cháu đời đời truyền nhau sự giàu có.” Thế là nhà sư bèn hạ bút viết rằng: “Cha chết, con chết, cháu chết.” Nhà sư viết như thế. Phú ông và người nhà của ông hết sức bàng hoàng giận dữ, không hiểu tại sao nhà sư lại viết như thế? “Nhà chúng tôi mới xây, mời ông đến viết cho câu liễn chúc lành, sao ông lại viết cả nhà tôi đều chết? (Mọi người cười) Ô! Tại sao ông lại trù ếm chúng tôi.” Nhà sư bình tỉnh trả lời cho họ: “Ô! Ông không biết, tôi không phải giỡn với ông, tôi hỏi ông, nếu con của ông chết trước ông, đó là điều không tốt phải không? Không phải ông sẽ đau khổ và thương tâm lắm sao? Nếu cháu của ông chết trước con ông, cũng là điều không tốt phải không? Làm sao mà nối dõi tông đường, tài sản và công việc làm ăn của ông làm sao phát đạt? Làm sao có người tiếp tục kinh doanh? Cho nên tôi mới nói cha chết rồi mới đến con, sau đó cháu mới chết, cũng đâu có sai!” (Sư Phụ cùng mọi người cười và vỗ tay) Chết theo thứ tự thông thường như thế thì tài sản của ông, công việc làm ăn của ông mới có cơ hội phát đạt!” Ông còn nói đây mới là sự phát đạt chân chính. *** Sớm muộn gì rồi ai cũng chết! (Sư Phụ cười) Người trong thế gian này đều sợ chết, vừa nghe đến chết là sợ! Sự thật không có gì đáng sợ, sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ chết, có đến thì có đi! Điều quan trọng nhất là chúng ta sẽ chết như thế nào. (Sư Phụ cười) Chúng ta hiện nay mỗi ngày đều chết, cũng không có gì đáng sợ! Mỗi ngày lúc tọa thiền, linh hồn ra đi để lại thân thể ở lại, đó cũng là một cách chết, cho nên chúng ta không có gì để sợ! Những người bình thường bên ngoài khi nghe đến chết là sợ hãi! Đặc biệt nhất là khi chúng ta đi dự những bữa tiệc cưới, nếu quý vị nói ra một tiếng chết, Quý vị không có rượu uống nữa! (Mọi người cười) Chết là một chuyện rất bình thường. Chúng ta đến đây để học một thời gian mà thôi, đại khái khoảng sáu mươi năm, bốn mươi năm, có người bốn ngày, có người bốn tuần lễ, tùy bài vỡ của quý vị dài bao nhiêu. Như vị thiền sư vừa rồi, có lẽ bài vở cần phải học rất lâu, cho nên sống đến một trăm hai mươi tuổi. Có những người về nhà rất mau, có những trẻ sơ sinh vừa mới sinh ra đã học xong bài vỡ rồi, sau đó liền ra đi! Người lớn chúng ta không biết, thấy con nít chết thì khóc lóc. Sự thật đối với chúng rất tốt, hiểu không? Thế gian điên đảo, chết không phải là điều xấu, chỉ sợ rằng lúc chết, chúng ta học chưa xong bài vỡ của mình, phải trở lại thêm một lần, rồi lại phải chết lần nữa, rất phiền phức. Cho nên chúng ta chỉ nên chết một lần là đủ, nếu không đời đời kiếp kiếp sẽ phải trở lại, những thói quen cũ chưa rửa sạch, lúc trở về lại mang thêm những thói xấu mới, đời đời kiếp kiếp tích luỹ quá nhiều thói xấu rồi trở thành một người xấu, có nhiều thói không hay. Mới xuống tương đối còn ngây thơ, chỉ có một hai chứng bệnh. Nếu như cứ xuống mãi, không rửa sạch những thói quen trước đây, lại học thêm những thói quen xấu hơn trong cõi trần này, cứ thêm hoài vào, càng ngày càng nặng nề, đến lúc phải dùng lửa của địa ngục mới có thể rửa sạch những phẩm chất xấu, lúc đó gọi là đọa địa ngục. Sự thật đây là một hệ thống tiến hóa, cũng như có những dụng cụ của chúng ta không còn sử dụng được hoặc là dùng lâu rồi không còn dùng tiếp nữa, thì đem nó đốt đi, hoặc là nấu cho nó chảy ra, làm một vật mới trở lại. Chẳng hạn như một chiếc xe quá cũ, thì đem nấu chảy thành một khối sắt, sau đó đem khối sắt nầy chế tạo thành những dụng cụ mới. Chúng ta cũng thế, nếu làm không tốt, có lúc Thượng Đế sẽ nấu chúng ta thành một khối, từ khối ấy Thượng Đế tái tạo chúng ta thành một công cụ tương đối mới lạ và hoàn mỹ hơn. Cho nên địa ngục hay thiên đường đều là công cụ của tạo hóa, giúp chúng ta tiến hoá, giúp chúng ta tiến bộ. Nếu chúng ta không tiến bộ, tạo hóa sẽ giúp đỡ. Địa ngục chính là một phương thức để giúp chúng ta tiến bộ. Sư Phụ Kể Chuyện, bản tin 70 Suma Ching Hai kể tại đạo tràng Tây Hồ, Formosa Ngày 23 Tháng 10 năm 1994 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa) Bên Ấn Độ có một câu chuyện. Hình như người Trung Hoa chúng ta cũng có một câu chuyện tương tự. Một hôm Diêm Vương tổ chức một buổi tiệc linh đình, ngài cho mời những quỉ, thần, tiên đến cùng dùng bữa. Diêm Vương rất ngịch ngợm (đó là cá tính của ngài). Ngài cố tình cho bài một chão lớn ở giữa, ghế để cách xa bàn. Trong chảo để cái môi có cán rất dài, với đầy sơn hào hải vị, đào tiên, rượu nho, và tất cả những món gì quý vị nghĩ tới đều có đủ, trông đẹp nhất, ngon nhất, khiến người ta phải thèm chảy nước miếng. Tuy nhiên, Diêm Vương ra điều kiện là khi ăn không được cong khuỷu tay. Cái môi đã dài, ghế lại cách xa bàn đến thế, còn không được cong khuỷu tay, mà lại bảo muốn ăn gì cũng được. Lũ quỉ, Atula, cứ phàn nàn, cải lẩy, chửi bới Diêm Vương, rồi bỏ đi hết! Chỉ còn mấy vị tiên ở lại suy nghĩ kiếm cách. Chỉ một lát sau đã nghĩ ra! Họ đút cho nhau ăn. Như vậy không vi phạm qui tắc, không cần cong khuỷu tay cũng có thể ăn được. Đây chính là sự khác biệt giữa quỉ và tiên đã khai ngộ. Đối với một số người bình thường chúng ta, nếu mình ăn không được, thì sẽ phá không cho người khác ăn. Kết quả hai người đều ăn không được. Đây là phẩm chất của ma. Tuy chúng ta có thân thể của con người, nhưng có một số người là ma. Nếu hành động như ma, thì chúng ta là ma. Không có tinh thần hy sinh, những gì mình không thể có, thì người khác cũng không thể có được, chỉ biết phá hoại. Y như đám ma đó, tạo áp lực cho nhau mà không săn sóc lẫn nhau. Khi chúng ta săn sóc người khác thì Thượng Đế cũng săn sóc chúng ta. Sư Phụ có thể bảo đảm chắc chắn là như vậy. Chúng ta tu hành đừng sợ bị lỗ. Phải theo tinh thần của các tiên nhân kia. Cái môi dài đến thế múc cho nhau ăn vừa tiện vừa vui. Họ chơi đùa rất thỏa thích, mọi người cùng cười giỡn với nhau. Còn đám ma quỉ thì bụng đói bỏ về, vừa tức giận, vừa không được gì cả. Người khai ngộ sống rất thoải mái, vì chúng ta có thể nhìn thông suốt và rõ ràng. Nếu chúng ta không khai ngộ, cứ ôm lấy bầu tâm sự và buông tay, cứ cho mình là người quan trọng nhất thì phiền lắm! Cứ tưởng trên thế gian không có người khác, chỉ có một mình ta gánh chịu đau khổ, hỷ lạc cũng một mình tự hưởng, thì đó là một cảnh giới vô nghĩa. Sư Phụ Kể Chuyện, Bản tin 62 Suma Ching Hai kể tại Đạo Tràng Tây Hồ, Formosa Nguyên văn tiếng Trung Hoa, Ngay 4 thang 3, 1990 Đây là truyện của Ấn Độ. Tại một thành phố của Ấn Độ, có một tín đồ Ấn Độ giáo rất trung hậu, rất tốt. Các tín đồ Ấn Độ giáo thờ cúng Thượng Đế, bất cứ biểu tượng gì của Thượng Đế, kể cả cục đá hoặc những thứ gọi là bóng của Thượng Đế -- các vị Minh Sư quá khứ. Họ đều thờ cúng hết và còn niệm tên các Ngài như chúng ta niệm Phật Di Lạc, Quan Âm Bồ Tát và Phật Thích Ca Mâu Ni vậy. Họ cầu phước báu như vậy đó. Có người rất thành tâm và đơn thuần. Tuy họ không có lực lượng vô sở bất tại, thần thông, hay cảnh giới, đệ tử nào, tâm họ vẫn đơn thuần và sống một cuộc sống an ổn. Họ rất nghèo nhưng đời sống rất dễ chịu, tràn đầy niềm tin và không có phiền não. Người Ấn Độ hay cười, họ có thể nghèo và không có gì để ăn cho ngày hôm sau, nhưng họ vẫn cười được. Dĩ nhiên là những người sắp chết thì không cười được, chúng ta không thể trách họ. Một hôm, hai vị đại sư, có lẽ chư tăng Ấn Độ giáo hay Bà La Môn, đã tới thành phố nơi người Ấn Độ giáo này ở. Là một tín đồ trung thành, ông kính bái tất cả các bậc đại sư, người tu hành hay chư tăng hòa thượng mà ông biết. Ngày đó khi ông ra ngoài thì gặp vị minh sư thứ nhất kia, ở gần nhà ông. Quên chưa mang lễ vật gì, sữa bò, trái cây đến cúng dường, ông đã bái lạy và thưa: "Đại sư phụ à! Xin hãy từ bi bảo hộ gia đình con. Ngài có vô lượng phước đức, vậy xin hay ban cho chúng con một chút, và người đầy tớ này sẽ rất vui mừng! Xin phép cho con được lạy Ngài trước!" Ngày hôm sau ông ta mua trái cây đến cúng dường vị đại sư, sau đó nhân tiện ông mới hỏi: "Thưa thầy, con nghe nói có một đại linh căn khác đã tới và đang ở hướng tây." Tước hiệu mà họ dùng là Mahatma, ý nghĩa là đại linh căn, đại trí huệ, đại trí hay đại sư, giống như người ta gọi Mahatma Gandhi, người mà họ kính trọng, nghĩa đơn giản là một vĩ nhân. Ông ta nói tiếp: "Thưa thầy, Ngài có biết vị minh sư đang ở phía Tây, bên kia thành phố không?" Tăng nhân nầy nhận cúng dường rồi nói: "Ờ ta biết, hắn là một con bò!" (Sư Phụ cười) "Thật vậy sao!" Ông ta rất ngạc nhiên "Vậy ông ta là một con bò à! Cảm ơn thầy đã chỉ bảo, con thật vô minh, không biết ai là bò, ai là người. Xin lỗi, xin lỗi! Cảm ơn, cảm ơn! Bây giờ con đã hiểu. Ông về nhà, liền mua một bó cỏ tươi (mọi người cười) để đem tới cúng dường vị sư phụ phía tây. Ông tới trước mặt vị thầy và lạy rằng: "Xin nhận sự cúng lạy và món quà khiêm nhường của người đầy tớ vô minh này. Xin Ngài hãy bảo vệ gia đình con, và cho con một chút trí huệ và phước báu. Con xin cảm ơn thầy!" Khi ông lạy xuống, quý vị có biết mặt của ông thầy nầy đổi ra sao không? (mọi người cười) không giống mặt con bò mà thành mặt con ngựa vì nó cứ dài ra! Vị minh sư đó hỏi: "Nhà ngươi cúng dường cỏ cho ta là có ý gì? Ta không hiểu gì cả!” Ông bèn đáp: "À, bởi vì vị sư phụ phía đông bên kia nói thầy là con bò, nên con nghĩ rằng nhất định là ngài sẽ rất thích cỏ tươi!" (mọi người cười). Vị tăng này trả lời: "Hắn là một con lừa! Người hãy đi nói với hắn rằng hắn là một con lừa!" (mọi người cười) Người đó nghe xong nói: "Con lừa? Ủa, thì ra ông ta là một con lừa! Cảm ơn thầy, cảm ơn thầy chỉ bảo. Xin lỗi. hồi nảy con mạo phạm tới Ngài, bởi vì con vô minh, không biết gì cả, không có kiến thức, không có gì hết. Vì vô minh nên không nhận ra Ngài là đại linh căn. Con đã nghĩ ngài là con bò như vị thầy kia nói với con. Nếu Ngài không nói ra, một người vô minh như con làm sao biết được? " Ông cứ xin lỗi mãi và sau đó ra về. Ông về nhà rồi liền đi mua hạt gòn, mang tới cúng dường vị sư phụ phía Đông: "Xin thầy nhận chút lòng tốt của con, rồi bảo hộ con và cho con chút phước báu. Tên nô lệ của ngài thực vô minh và vô phước. Con vô cùng cảm ơn ngài nếu ngài có thể cho con chút phước báu và nhận sự cúng dường thành tâm của con.” Mặt của vị thầy này đã trở nên xanh lè và không giống con lừa, (Sư Phụ chơi chữ, tiếng Trung Hoa âm lừa và lục "xanh" hơi giống nhau), lừa biến thành lục rồi. Ông thầy mới nói: "Đây là ý gì vậy? Ta làm sao ăn được? Tại sao cúng dường cái này? Ta là người, tại sao không mua thức ăn mà lại mua thứ này?" Ông ta nói: "Con làm sao biết được Ngài là người, là một chúng sanh vô minh, con không biết gì hết. Tên nô lệ khiêm tốn này chưa hề học kinh Vệ Đà hay tu với bất cứ một vị minh sư nào. Con chỉ là một người tầm thường làm sao con phân biệt được một đại linh căn thực sự là thế nào? Nhờ vị thầy kia chỉ dẫn, còn được biết Ngài là một con lừa (Sư Phụ cười). Con lật đật đi mua những thứ này đến cúng dường Ngài. Con vô minh, xin Ngài tha lỗi!" Vị hòa thượng đó tức giận la lên: "Ngươi dẫn ta đi gặp tên kia, ta sẽ cho nó một bài học về cách đối xử với bậc huynh trưởng". Khi hai vị tăng gặp nhau, họ cãi nhau kịch liệt. Đứng một bên nhìn, người nhà quê, người Ấn Độ giáo này rất thích thú nhìn một con bò cãi nhau với một con lừa (Sư Phụ và mọi người cười.) Vì vô minh, nên họ không biết rằng thực ra họ đều giống nhau! Họ cư sử như vậy vì còn vô minh. Nếu đã khai ngộ rồi, họ sẽ biết rằng nói xấu sau lưng người khác là nói xấu chính mình. Thay vì mặt giáp mặt để nói, họ lại nói sau lưng người khác, không biết ai là bò, ai là lừa. Thế giới này thật là buồn cười! Mọi người đều chơi trò chơi này, không ai nghiêm túc, thật là không có chuyện gì để làm! Quý vị cũng đừng bực dọc. Thế giới vốn vô sự, mọi phiền não là do mình tự tạo. Nếu thấy được bản tánh của mình, chúng ta sẽ rất an lạc ở trong đó, biết được là thật ra không có chuyện gì cả, đều do chúng ta tự tạo ra để chơi mà thôi! Thật là như vậy, thật là vui! Biến thành con bướm, coi cảm giác nó như thế nào. Cũng cùng lý do này mà có người biến thành con kiến, hoặc con chim, hoặc sư tử. Ồ! Mọi người đều chơi rất vui! Thật ra luồng điện bên trong đều giống nhau, chỉ có sợi giây bên ngoài là khác mà thôi; có sợi rất dày, có sợi rất mỏng, có sợi rất đẹp, có sợi rất đen; màu sắc và độ dày mỏng khác nhau, nhưng thật ra bên trong đều là điện giống nhau, cùng từ một nhà máy phát điện. Bây giờ mọi người đã hiểu chưa? (Mọi người đáp: Hiểu! Và vỗ tay) (Bản tin 92) Sư Phụ kể chuyện Suma Ching Hai kể tại đạo tràng Tây Hồ Ngày 28 tháng 9, 1990 (Nguyên Văn tiếng Trung Hoa) |
Archives
January 2023
Categories |