BMD 293 Tự tin và Tự ti 23dec1992 Đây là một câu chuyện cổ Phật giáo. Người đàn ông này rất nghèo. Ông chỉ có một người mẹ. Một lần nọ, ông ta cứu mạng một đứa nhỏ sắp bị chết đuối. Cho nên có người biếu ông một cái rìu. Ông dùng cái rìu để đốn củi bán để nuôi mẹ và nuôi chính bản thân ông. Mọi người đều biết danh tốt của ông ta. Bởi vì ông là một người con có hiếu đạo. Và ông ta có tinh thần nghĩa hiệp nữa. Bởi vì ông nầy sống trên đỉnh núi cao. Vì thế có nhiều người giàu, cho tiền ông ta và bảo ông ta đi săn thú cho họ, săn cáo chồn, săn thỏ và săn nai v.v… Nhưng ông từ chối. Bởi vì ông quy y Phật không được sát sinh. Ông ta không những không giết thú vật, mà còn yêu thương và bảo vệ chúng nửa. Bởi lẽ những con vật này đã quá quen với ông và làm bạn với ông. Thường thường những con vật này hay đến chỗ ở của ông để đùa giỡn với ông. Rồi một ngày kia, tên ông là Siu, Lai Siu vắng nhà để đi đốn củi. Thình lình, ông trông thấy ba người đàn bà đứng trước mặt. Khi trông thấy ông, ba người đàn bà nầy vội vàng chạy đi. Hình như là để chạy trốn. Thế rồi ông ta thấy có vật gì tựa như vàng. Ả đó là cái kẹp tóc bằng vàng có nạm kim cương rơi trên mặt đất. Ông ta biết rằng cái kẹp này là của ba vị phụ nữ kia, vì vậy ông liền nhặt nó lên, rồi đuổi theo ba người đàn bà kia để trả lại cái kẹp tóc. Ba vị phụ nữ này rất biết ơn ông. Rồi từ đó trở đi, mỗi ngày nơi trước hang ông ở tự nhiên có rất nhiều đồ cúng dường. Chẳng hạn như có gạo ngon, đồ ăn sơn hào hải vị. Không biết do ai mang đến đặt trước cửa hang ông ở. Rồi một ngày kia, khi ông thức giấc ông thấy một cô gái rất xinh đẹp ngồi bên cạnh. Cô gái nầy quả thật xinh đẹp vô ngần, đẹp đến nỗi ông cảm thấy dường như cô ta là một vị thiên thần từ trên trời xuống trần gian. Và ông liền hỏi nàng: “Cô là ai’ Cô gái trả lời: “Tôi là người đã đánh rơi cái kẹp tóc hôm nọ. Bởi vì hôm nọ, sau khi anh trả lại em cái kẹp tóc, em về nhà suy nghĩ mãi về thế giới này. Tiền bạc và sự giàu sang không có nghĩa là chân hạnh phúc. Chỉ khi nào được gần gũi với một người đàn ông đạo đức, mới có thể nói là có được một đời sống xứng đáng, Vì thế, em nhất định đến đây để sống với anh. Hơn nữa, em còn nghe danh là anh thật đúng là người đàn ông đạo đức. Gia đình em rất giàu và có thật nhiều tiền chúng tôi không thiếu thứ gì. Chồng em đã qua đời, giờ đây em chỉ còn hai con nhỏ dại. Em sẵn lòng chăm sóc người mẹ của anh. Nếu anh về với em, sẽ không thiếu thứ gì. Nhưng nếu anh không nghe em, có thể anh sẽ chôn vùi tài năng và tâm hồn ở chốn hoang sơ vắng vẻ nầy. Sống trong thung lũng này thật là vô dụng, vô nghĩa. Ôi! Âm thanh giọng nói của nàng sao thật ngọt ngào, thật dịu dàng, quyến rũ. Sau khi lắng nghe cô gái, anh ta trở nên say mê, đến nỗi không thể trả lời ngay được, và có cảm tưởng như mình lạc trong mơ. Ông tự hỏi: “Đây là mộng hay thật?’ Chưa chắc cô gái này là thực tế hay chỉ là ma vương, là ma quỷ hiện hình. Bất ngờ anh nghiêm trang nói với cô gái, ‘Tôi hiểu rằng có là một người con gái đúng đắn, đàng hoàng từ một gia đình giàu sang. Có lẽ đời trước cô làm điều lành nên đời này cô mới được như vậy. Còn tôi, tôi chỉ là một gã đàn ông nghèo nàn, thật không xứng đáng làm bạn với cô. Hơn nữa, tôi còn thấy rằng vì cô là một góa phụ. Tôi thiết nghĩ cô nên nhớ đến người chồng quá cố, và chăm nom săn sóc hai con dại cùng với cha mẹ chồng. Còn tôi nữa, tôi cũng còn một mẹ già nên càng phải trọn tình hiếu thảo. Nếu tôi cưới cô, tình yêu của tôi sẽ bị chia xẻ làm hai, và vì thế mẹ tôi chắc không hoàn toàn vui sướng, hơn nữa các con nhỏ dại cần đến cô. Vì vậy, tôi khuyên cô nên trở về. Đừng bàn đến việc này nữa. Nếu cô sợ rằng tôi sẽ chôn vùi tài năng và đạo đức ở nơi đây. Xin đừng lo, nếu tôi thật sự có đức độ hoặc có phước báu, thì các thú rừng ở đây rất cần sự bảo vệ và che chở của tôi. Chúng cũng cần đạo đức này để chia xẻ và bảo vệ chúng. Bởi vì con người đạo đức và tài năng thì nơi đâu cũng dùng được. Thế nên cô đừng có lo!’ Sau khi nghe xong những lời nói này, vị tiên cô liền bay mất. Rồi Siu Lai cảm thấy xung quanh mình đột nhiên tối sầm lại. Anh ta cảm thấy mình bị cảm động và cảm thấy hối hận. Nhưng anh cũng rất vui sướng khi nhận thấy nhờ có nghị lực mà không dễ gì bị mê hoặc. rồi từ ngày ấy trở đi còn nhiều việc lạ xảy ra cho anh nữa. Những vật được mang đến hang động dường như là để cúng dường cho hai mẹ con anh ấy. Rồi một ngày có một người khách lạ không biết từ đâu đến. Xuất hiện ngay trước mặt Siu Lại với một thỏi vàng lớn. rồi nói: “Thưa tráng sĩ, tôi cúng dường một vật nhỏ mọn này và chỉ cần anh nói một tiếng giùm tôi là được rồi. Ngày mai, nếu có ai hỏi anh, nếu anh có thấy một đoàn người đi ngang qua đây, Anh chỉ cần đáp là: “Có. Thế là đủ. Chỉ có anh và tôi ở đây không có ai khác biết vấn đề này. Anh chỉ cần nói một câu có thì đâu có sao đâu?” Rồi người ấy để lại thỏi vàng liền ra đi. Sui Lai không biết nghĩ sao về việc này. Anh nhanh nhẹn nhặt thỏi vàng lên và đuổi theo người khách lạ để trả lại vàng cho ông ta. Siu Lai nói: “Không, không. Đây là vàng của anh. Tôi không thể nói giùm anh. Vì tôi không biết gì về chuyện này cả, không biết là tốt hay xấu. Điều này có chút mơ hồ không rõ rệt tôi không thể nhận lời. Một lời của người quân tử còn có giá trị hơn mười triệu lạng vảng. Cho nên tôi cần phải thận trọng hơn nữa, tôi tuân theo Phật Tổ, không nói dối. Ông làm ơn lấy vàng về đi. Rồi anh ta bỏ đi. Tiếng thơm và sự thanh liêm của anh ta đã vang dậy khắp mọi nơi. Mọi người ai ai cũng biết đến. Vì anh nỗi danh bởi những phẩm chất này, cho nên vua Asoka mới thiếc kế, người muốn thử sự thanh liêm và phong độ của anh, coi có đúng với lời đồn hay không? Vì thế mới có chuyện người phụ nữ với cái kẹp tóc đã đến hang trú ngụ của chàng. Nàng chỉ là người tì nữ trong lâu đài vua, và người khách lạ với thỏi vàng cũng vậy, ông ta là người bộ hạ của vua được phái đến để thử. Sau đó, khi vua biết rõ vị tráng sĩ Siu Lai quả thật là một người hiền đức. Nhà vua trở nên ganh tị. Vì thế, Ngài lại sai một kẻ khác am thầm đến hang động để giết anh. Khi kẽ sát nhân đến ông ta nói với Siu Lai rằng: ‘Theo lệnh vua tôi phải giết anh’ Siulai đáp rằng: “Ô! thật vậy sao! Điều nầy tốt thôi. Nếu có thể sớm được thoát lìa xác thân đầy nghiệp chướng này thì tốt quá! Nhưng, tôi còn có mẹ già, ông có thể nào thay tôi săn sóc bà được không? Tên sát nhân, người đến để giết Siu Lai rất đổi ngạc nhiên. Vì sự trầm tĩnh, thư thái và không sợ chết của Siu Lai. Ông ta nói: ‘Anh không có tội gì cả. Nhà vua muốn hại anh chỉ vì sự ganh tị. Anh không những không oán hận vua mà còn thư thái và bình tĩnh quá. Siu Lai bảo ông ta: “Không, không, tôi không những không giận vua mà còn cảm thấy buồn cho vua. Bởi vì ông đã có quá nhiều nghiệp chướng. Và bây giờ ông còn muốn hại người không duyên cớ nửa, thật là tội nghiệp cho vua. Trước khi chết, tôi sẽ cầu nguyện cầu xin Phật Bồ Tát gia trì cho vua. Nếu tôi được thành Phật thì tôi cũng cầu.” Ý nói là cầu Phật Bồ Tát giúp cho vua, phát Bồ Đề tâm tu hành để quay trở lại phẩm chất lương thiện. Tên sát nhân giơ cao thanh gươm và rồi lại hạ xuống. Cuối cùng đút đao vào võ rồi bỏ đi. Sáng hôm sau, đích thân vua Asoka đến hang Siu Lai ở để thăm anh ta. Nhưng Siu Lai lại đi đốn củi không có mặt ở đó. Có lẽ đây là lần thử thách cuối cùng của nhà vua. Hay là giả vờ với lòng ganh tị để mà giết Siu Lai không biết có đúng vậy hay không? Nhưng dù sao Sui Lai cũng đi đốn củi nguyên ngày. Nên nhà vua phải đợi cả ngày hôm đó, và rất vui mừng khi gặp được anh ta. Ngài nói rất khiêm nhường: ‘Ta ân hận quá đường đường là một vị vua, mà không biết rằng trong nước có một hiền nhân, thật là xấu hổ. Quốc gia hiện đang loạn lạc, trẫm yêu cầu tráng sĩ, hãy về hoàng cung với trẫm để giúp ta lo liệu quốc sự. Siu Lai đã từ chối nhiều phen, nhưng nhà vua cứ thỉnh mời, sau cùng Siu Lai bèn hẹn một tuần lễ sau mới trả lời. Trong tuần lễ đó nhà vua đích thân đến gặp anh ta đã ba lần, và còn gọi cận vệ đến thăm anh ta ba lần nữa. Siu Lai liền hỏi ý kiến mẹ anh, mẹ anh nói: “Gần đây mẹ có nghe thấy rằng nhà vua đã chểnh mảng việc điều khiển quốc gia, và đối với dân chúng cũng không được nhân từ sáng suốt, nên nhân dân cũng oán than hết lời, vì vậy họ đặt tên vua là ‘Asoka’ có nghĩa là hung bạo như đồ tể. Họ thường gọi là nhà vua sát nhân. Triều thần của nhà vua cũng không có trung thần. Toàn là đám tham quan gian thần, nên luân lý đạo đức trong nước không có cơ hội phát truyển, dân tình nỗi loạn cướp bóc tràn lan khắp nơi. Quốc gia thật là loạn lạc, nếu con có nghĩ đến việc giúp dân trị nước thì con nên lợi dụng cơ hội này để thúc đẩy nhà vua học tập chân lý để cảm hóa chúng sanh. Làm như vậy không biết chừng có thể cứu giúp đồng bảo chúng ta. Sau khi nghe lời mẹ anh phân giải Siu Lai tới triều đình để gặp vua, sau đó Siu Lai được bổ nhiệm chức Quốc sư và lấy tên là Quốc Bảo. Vi Quốc sư Quốc Bảo này dạy vua về tam qui, ngủ giới, thọ pháp, tọa thiền, trường chay, hoặc học pháp Phương tiện v.v… Nha vua đã trở thành càng lúc càng hiền từ, không bao lâu đã biến đổi từ một vị vua hung bạo trở thành một minh vương. Quốc gia trở nên thanh bình v.v… Rồi tên vua cũng được đổi thành ‘vua nhân từ, nghĩa là nhà vua làm nhiều việc thiện. Cái tên cũ Nhà vua sát nhân đã được thay đổi một cách nhanh chóng, có lẽ Ngài được đổi tên sau khi thọ Tâm Ấn, cũng như Đồng này, Đồng nọ v.v… Thế rồi quốc gia trở nên giàu mạnh thanh bình an lạc. Nhà vua sau đó còn giáo dục nhân dân trì giới, thiền, chẳng hạn như làm việc thiện, không nói dối, không trộm cắp, không giết người v. v… Đó là nguyên nhân khiến quốc gia trở nên thanh bình, an lạc.
0 Comments
BMD 467 20150908 King name Moonlight Một thời Đức Phật ở nước Tỳ Xá Ly, trong vườn cây Ala. Khi đó, Đức Thế Tôn hỏi tôi như vầy (Tức là Anan): “Những người đã đạt được tứ thân túc thì thọ được một kiếp, như ta đã có tứ thân túc mà vẫn còn phải tu tập, nghĩa là công đức còn nhiều hơn nữa. Ngươi có biết như lai thọ được bao nhiêu không?” Đức Phật hỏi Anan ba lần. Anan tự nghĩ và không biết có bị ma quỷ ám ảnh không mà cứ lặng yên không trả lời. Phật lại bảo: “Anan! Ông hãy đi đến chỗ tỉnh mịch mà suy xét.” Tôi vâng lời đứng dậy đi vào trong rừng. Vừa đi khỏi, thì ma Vương tới bạch Phật rằng: Kính lạy Đức Thế Tôn, Ngài ở đời giảng pháp đã lâu, tế độ nhân gian được thoát sinh tử, nhiều như số cát sông Hằng. Nay tuổi đã già yếu. Ngài nên nhập Niết Bàn!” Nghĩa là rời thế gian, bỏ nhục thể. Thế là Phật lấy chút đất để trong tay, rồi hỏi Ma Vương rằng: Số cát ít ỏi trong tay ta đây nhiều hay ít so với đất trên Địa Cầu này?” Ma Vương nói: Thưa Ngài, dĩ nhiên là cát trên Địa Cầu nhiều hơn cát trên tay Ngài. Và rồi Đức Phật nói: “Ta độ chúng sanh cũng ít như cát trên tay ta vậy. Còn những chúng sinh chưa được độ cũng nhiều như cát trên Địa Cầu này. Nhưng không sao, ba tháng nữa, ta sẽ nhập Niết Bàn.” Ma vương nghe Phật nói như vậy lấy làm vui mừng và bái tạlui ra. Tôi đang ngồi trong rừng và hơi ngủ gật và mơ thấy một cây to lớn che lấp cả hư không, cành lá um tùm hoa quả tốt tươi. Công đức của cây này vi diệu. Không ai có thể diễn tả được. Và bỗng nhiên không biết từ đâu có một trận cuồng phong kéo tới làm cho cành lá tơi tả, lá hoa trái đều rụng hết. Tôi lo sợ quá, giật mình tỉnh dậy. Lồng ngực hãy còn đập liên hồi. Cho nên tôi thầm nghĩ: “Ta mộng thấy cây đại thụ này là một cây mà muôn loài được nhờ. Vì nó khổng lổ, to lớn như vậy. Tự nhiên lại bị trận gió kéo đến làm tan nát như thế Cây này được ví như Đúc Thế Tôn của ta, Ngài tế độ cho khắp nhân thiên, phạm thanh, muôn loài ham sinh đều lợi ích. Cũng như cây này che chở cho khắp thiên hạ. Mộng này có lẽ ngụ ý Đức Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn.” Tôi đứng lên vào tịnh xá cúi đầu làm lễ bạch Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn, vừa đây con mộng thấy một cây to lớn che chở cho muôn loài trên Địa Cầu này, cây đó thậm chí che cả bầu trời. Bỗng gặp cơn cuồn phong lớn kéo đến đập gãy tan tành. Con dự đoán hay Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn, lạy Ngài có phải, cúi xin Ngài chỉ giáo?” Phật dạy rằng: “Thực thế đấy, sau ba tháng nữa, ta sẽ nhập Niết Bàn. Cũng như lời ta vừa nói đây, những người đã đạt được tứ thân túc thì thọ một kiếp. Như ta đã có tứ thân tức còn phải tu tập. Và ta hỏi ông vậy Như Lại (ta) thọ được bao nhiêu? Nghĩa là đã phán con người khi có được tứ thân túc thì họ có thể dừng lại. Nhưng Ngài vẫn tiếp tục. Ngài có nhiều công đức hơn nữa. Và tuổi thọ của Ngài sẽ nhiều hơn nữa. Ta hỏi luôn ba lần như thế mà ông không đáp. Khi ông đi khỏi, Ma Vương đến mời ta nhập Niết Bàn, và ta đã hứa.” Tôi nghe xong như sét đánh bên tai, lo sợ quá, ân hận quá. Buồn khổ quá! Giờ đây Ngài nhập Niết Bàn, mỗi chúng sinh bị mất nơi nương náu. Chúng sinh biết đi về đâu? Nương tựa vào ai? Và sau đó mọi người đều biết, các tăng ni biết, toàn thể giáo đoàn biết. Các đệ tử ai ai cũng âu sầu buồn bã, tề tựu lại hỏi thăm Ngài. Phật dạy rằng: “Tất cả thế gian đều bị luật vô thường chuyển biến luôn luôn, nay còn mai mất, không đoán trước được, không ai thoát khỏi, từ loài người, loài vật, cho đến núi sông, đại dương, vũ trụ bao la, không có một vật gì được tồn tại mãi mãi đâu. Ta vì chúng sinh trong pháp giới mà đến châu Diêm Phù này. Việc nên làm ta đã làm xong, những việc phải nói, ta đã nói hết. Các ông nên chăm chỉ tu hành, lo buồn làm chi vô ích. Ngài Xá Lợi Than: “Than ơi! Con mắt sáng nhứt của thế gian sắp mất đi, Đức Như Lai sắp nhập Niết Bàn. Chúng sinh hết chỗ trông chờ.” Nói xong, ông quỳ bạch rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn, Con không nở lòng nào nhìn thấy Ngài nhập Niết Bàn, Cúi xin Ngài cho con nhập Niết Bàn trước. Cúi xin Ngài hoan hỷ cho con được thỏa nguyện.” Ông thưa luôn ba lần như vậy. Phật nói: “Được rồi. Phật hầu như chấp nhận yêu cầu của ông. Ông quỳ thẳng đi bằng hai gối, đi vòng quanh Phật 100 vòng. Rồi ông tới trước mặt Phật đỡ lấy chân Phật để lên đầu ba lần. Đó là biểu hiện hết sức tôn kính của ông và rồi ông bạch Phật: kính lạy Đức Thế Tôn, hôm nay là lần cuối con tự biết Ngài. Nói rồi ông cúi đầu chắp tay nghiêm kính đi ra. Ông trở về nước, nơi sinh quán của ông. Rồi một sa di, tỳ kheo trẻ đi tới triều đình đưa tin cho vua quan và các nhân thân tin hay, để họ tới thăm viếng lần cuối. Rồi vua A Xà Thế, là một trong những tín đồ rất thành tâm của Đức Phật, biết tôn giả Xá Lợi Phất sắp nhập Niết Bàn. Nên nhà vua tự nhủ: “Tôn giả Xá Lợi Phất là một vị đại tướng trong phật pháp. Than ôi! Ngài nhập Niết Bản chi sớm thế? Biết lấy ai để trần tĩnh người gian tà.” Sau đó mọi người, vua quan, dân chúng, thân nhân đến đông đủ. Họ thưa rằng: “Kính lạy Đức Tôn Giả, được tin Ngài sắp nhập Niết Bàn chúng tôi đây như con mất cha, như gà mất mẹ, không chốn nương thân, không bề trong cậy. Và rồi Xá Lợi Phất đáp rằng: “Cac Phật tử chớ buồn chi. Tất cả muôn vật trên thế gian này đều thuộc hai chữ vô thường. Đã có sinh tất phải có tử, trong ba cõi đều khổ, không ai thật sự được an vui.” Các vị đời trước trồng nhân lành, nên đời này được hưởng may mắn sinh gặp Phật tại thế, kinh pháp khó được nghe. Cả hai, các vị đều biết. Thân người khó đặng. Nhưng tất cả quý vị đều có. Vậy nên tận dụng sự may mắn này tiếp tục chăm chỉ tu hành, và gieo nhân lành. Rồi ta sẽ hồi hướng công đức này để giải thoát cho các vị thoát khỏi sinh tử luân hồi vĩnh viễn. Ngài tiếp tục giảng giải như vậy tùy theo trình độ, tâm thức của chúng sinh. Ngài giảng giải rất khéo léo, cũng như thầy thuốc, tùy theo bệnh mà kê đơn thuốc cho từng bệnh nhân để họ mau bình phục. Khi giảng xong, cũng có nhiều người được thăng hoa quả vị tâm linh, như từ sơ quả lên nhị quả, nhị quả lên cao hơn, v. v. Mọi người đều phát tâm cầu đạo vô thuợng. Ai nấy tâm ý an hòa tạ lễ lui ra. Giờ này đã quá nửa đêm, Ngài Xá Lợi Phất Nghiêm tĩnh tâm ý để tại trước mặt. Rồi từ cõi sơ thiên lên cõi nhị thiên, rồi cõi tam thiên. Sau đó lên cao hơn, cao hơn. Ngài Thiên Đế đem đoàn tùy tùng của ông khoảng một trăm ngàn người, mang rất nhiều hương hoa xuống để cúng dường lần cuối. Rồi ông than rằng: “Tôn giả trí huệ rộng sâu, như trời cao, như biển lớn, biện luận ứng cơ, rất nhanh. Biện tài của Ngài mau như tia chớp. Và tiếng nói của Ngài êm như nước chảy. Giới định luật của Ngài tất cả đều hoàn mỹ. Ngài là một đại tướng trong Phật pháp thay Đức Như Lai chuyển pháp luân. Bây giờ hồi Thiên Đàng, Ngài nhập Niết Bàn thế gian mất con mắt sáng.” Từ thành thị cho đến thôn quê người người mang hương hoa đến cúng dường đông như kiến cỏ. Và rồi Thiên Đế Thích và các vị Thiên Đế khác và các tùy tùng mang xe cõi trời xuống rước Xá Lợi Phất lên Thiên Đàng. Xe của Tôn Giả Xá Lợi Phất đi trước đi sau có bộ thiên, bộ long, quỷ Thần, vua quan, dân chúng đến một nơi bình phẳng, cao sạch. Vua Đế Thích sai các quỷ dạ xoa ra bờ biển nơi tất cả các loại gỗ, lấy gỗ chiên đàn, gỗ ngưu đầu, v.v Hãy mang gỗ từ khắp nơi về chất thành đống rồi đổ dầu phóng hỏa để hỏa táng thân thể Ngài. Hỏa táng xong, mọi người bái tạ ra về. Thị giả của Ngày tên là Sa Di Quan Đề chờ cho lửa tắt, rồi thu xá lợi đặt trong tấm áo cà sa của mình đem về chốn Phật. Và bạch Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn, thầy con là Xá Lợi Phất đã nhập Niết Bàn. Đây là xá lợi và áo bạt của Ngài ấy.” Nghe thấy Sa Di Quan Đề bạch xông tôi cảm động quá. Tôi quỳ xuống bạch Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn! Tôn giả Xá Lợi Phất, sao Ngài ấy vào Niết Bàn sớm như vậy? Và Đức Phật cũng sắp nhập diệt. Chúng con biết nương cậy vào ai?” Nên Đức Phật nói: “Tuy Xá Lợi Phất nhập Niết Bàn song pháp thân của ông, giới, định, huệ, lực lượng giải thoát của ông, giải thoát tri kiến của ông đâu có nhập niết Bàn. Vì ông không nở thấy ta rời thế gian nên ông nhập Niết Bàn trước ta đấy thôi. Đó là lý do duy nhứt. Đây không phải là lần đầu tiên mà ông làm vậy. Chẳng những đời này ông nhập Niết Bàn trước ta. Đời quá khứ, ông cũng không đành lòng nhìn Ta ra đi, nên ông đi trước.” Nghe vậy Anan nói: “Bạch Đức Thế Tôn, đời quá khứ, Tôn giả Xá Lợi Phất chết trước Ngài sao? Việc đó thế nào cúi xin Phật nói cho chúng con và chúng sinh đời sau được rõ?” Cho nên Phật nói: “Anan, ông nên biết đời quá khứ đã lâu lắm cũng ở Châu Diêm Phù đề này, có một ông vua tên là Chiên Ba Đà La Tỳ, tiếng hoa dịch là Nguyệt Quang. Ông là một đại hoàng đế thống lãnh tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, sáu muôn ức bộ lạc và ông có hai muôn hậu phi. Tên bà thứ nhứt tên là Hoa Thị. Và vua có một vạn quan đại thần. Và ông quan lớn nhứt tên là Đại Nguyệt. Vua có 500 hoàng tử. Và hoàng tử đầu tiên là Hiền Thọ. Thành ấy ngang dọc đó 400 square miles. Thành làm bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê v. v... Và bốn mặt có bốn trăm hai mươi cửa. Đường xá thành phố trang nghiêm và nhà cửa trong thành phố đều rất đẹp, được sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ, rất thoải mái. Trong quốc gia đó, đó bốn con đường bằng bạc. Và rồi những con đường khác nữa, đường bằng vàng, cây cối bằng vàng. Nghe tựa như Thiên Đàng. Trong nước ấy có bốn hàng cây bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Những hồ ao trong thành phố đó được làm bằng bốn thể trân bão. Tất cả bồn ô và bờ hồ trong quốc gia cũng được bao quanh bởi tượng với đủ loại trân báo này. Và dưới nước, dưới đáy hồ, ao ngoài hoa trên mặc nước. Cát dưới lòng ao cũng làm bằng bốn thứ trân báo nói trên. Trong cung điện của nhà vua, chu vi bốn mươi dặm cũng làm bằng bốn loại đó. Vào thời đó, nước giầu dân mạnh, an vui sung sướng. Một hôm, vua ngồi trên báo điện, thốt nhiên nghĩ như vầy: Người ta ở trên đời, tôn vinh hay phú quý, thiên hạ kính nễ, muốn gì được nấy, cũng do quả báo, tích đức từ thiện đời trước đem lại. Bây giờ, họ gặt hái phần thưởng. Nhà vua nghĩ như vậy. Cũng ví như người nông phu, mùa xuân cất công cày bừa, gieo mạ cấy lúa. Tới mùa hạ mùa thu gặt hái được thóc gạo mang về ăn. Nếu mùa xuân, họ không cất công cày cấy trên cánh đồng của họ, dĩ nhiên mùa hạ, mùa thu không gặt hái thu hoạch được. Chính ta cũng thế. Đời trước tu phúc lành và làm việc tốt. Đời nầy hưởng quả tốt nầy. Nếu bây giờ ta không tiếp tục tu theo, đời sau lấy gì an hưởng? Sau khi ta dùng hết công đức này. Thì đời sau ta sẽ không còn lại gì nữa. Vua nghĩ vậy, rồi bảo các quan mở tất cả kho, đem tiền của, vàng bạc hoặc bất cứ gì, và thức ăn, khô, ngủ cốc đem bố thí cho tất cả thẩn dân. Và vua cũng ra sắc lệnh cho tám vạn bốn ngàn ông vua nhỏ cũng phải mở kho bố thí cho dân túng thiếu. Khi đó các ông vua nhỏ phải tuân theo mệnh lệnh. Thông báo cho toàn dân chúng biết. Cho nên ai đến đều nhận bất cứ gì họ muốn. Ngày phát chẵn, dân chúng kéo nhau đến kinh thành đông như kiến cỏ. Người mạnh cõng người yếu. Người trẻ chăm sóc người già. Người sáng dắt người mù. Ai nấy đều được nhà vua phân cấp tiền gạo, áo quần đầy đủ. Từ đó muôn dân được an vui sung sướng. Danh đức của vua lừng lẫy, tiếng khen đồn khắp bốn phương. Thời đó, có một ông vua tên là Tỳ Ma Từ Na, thấy dân chúng khắp nơi ca tụng và cảm phục vua Nguyệt Quang rất nhiều, ông đem lòng ganh ghét. Ganh tỵ đến nỗi ngày không thể ngủ, đêm không thể ăn. Ông vua nầy thầm nghĩ: nếu mà ta không dùng mưu để tiêu diệt được vua Nguyệt Quang, có lẽ tiếng tâm của ta sẽ không bao giờ vang khắp thiên hạ! Nghĩ xong ông gọi các thầy Bà La Môn trong nước đến hoàng cung. Ông cúng dường họ ba tháng với thức ăn ngon, quần áo đẹp, cung phụng mọi thứ tốt nhứt. Rồi thì, sau ba tháng hối lộ, ông nói: “Thưa quí tăng sĩ, tôi có một việc đang lo rất nhiều cả ngày lẫn đêm, quý tăng có cao kiến, hay có cách nào giải quyết hộ tôi vấn đề này hay không?” Một trong các thầy Bà La Môn thưa: “Tâu bệ hạ! Ngài có việc chi lo lắng, xin nói cho chúng tôi rõ, nếu giúp được chúng tôi xin hết sức.” Nhà vua nói: “Hiện nay vua Nguyệt quang được muôn phương mến phục, tôn kính như Trời, phúc đức lớn lao. Đây là vấn đề ta lo sợ sau này. Các tăng có thần phép gì hay có cách nào tiêu diệt ông ấy hộ không?” Các thầy Bà La Môn bẩm: “Tau bệ hạ, Vua Nguyệt Quang là người có đức lớn, một minh quân, thương dân như con. Người dân coi vua như cha mẹ. Chúng tôi nở đem tâm gì để mưu hại? Chúng tôi thà chịu chết, chứ không nở hại người hiền như thế. Nói xong ai nấy cúi lạy nhà vua xin rút lui. “ Ông vua ganh tỵ càng giận dữ, ông liền ra lệnh loan báo cho toàn quốc biết: “Nếu ai lấy được đầu vua Nguyệt Quang, ta sẽ gã con gái và chia nước này thành hai và cho cai trị một nửa.” Khi đó có một người dòng Bà La Môn tới gặp vua ganh tỵ và xin đi lấy đầu vua Nguyệt Quang. Nhà vua vui vẻ, cười nói: “Nếu khanh làm được việc này, ta sẽ giữ lời hứa, và định hôm nào đi cho ta biết.” Người này nói: “Xin khất bệ hạ 7 ngày nữa. Nói xong từ tạ ra về. Về nhà nhập thất 7 ngày. 7 ngày dài, y tập trung trì chú hộ thân. Qua bẩy ngày, y đến cung vua nói rằng y đã sẵn sàng để đi. Nhà vua cung cấp lương thực, tiền lộ phí, và những thứ cần thiết. Khi bước ra đi y cương quyết nói với ông vua ganh tỵ: “Xin bệ hạ chớ lo, tôi thể rằng nếu không lấy được đầu vua Nguyệt Quang, tôi quyết không trở về.” Rồi y lên đường. Lúc đó ngay sau khi dứt lời y đi tới nước của vua Nguyệt Quang. Lúc đó trong nước của vua Nguyệt Quang xuất hiện nhiều điềm dữ, như động đất, sấm sét trái mùa, sương mù cả ngày. Sao chổi xuất hiện, mưa đá. Các loại chim kêu rất thảm thiết trên hư không và chúng tự rỉa lông cánh, rồi rơi xuống đất và chết đầy mặt đất hết. Báo, chó sói tự lao mình xuống hố mà chết, hoặc kêu gào thảm khốc. Tất cả các ông vua nước nhỏ đều mộng thấy cảnh phướn vàng của nhà vua bị gãy, trống vàng bị thủng. Và rồi tễ tướng của nhà vua Đại Nguyệt mơ thấy quỷ lại cướp mũ vàng của vua mang đi. Mọi người đều rất lo lắng. Khi đó vị thần coi thành biết tên Bà La Môn nầy tên là Lao Độ Sai đến xin đầu vua. Nên khi vị thần nầy thấy tên Lao Độ Sai tới gần cổng thành liền hóa phép làm cho y mơ màng không biết lối vào. Y cứ đi lẩn quẩn bên ngoài thành không biết để đi vào thành. Nhưng một trong các Thiên Đế thấy vậy nên đi vào giấc mộng khi vua đang ngủ và bẩm với vua rằng: “Tâu bệ hạ, Ngài làm hạnh bố thí, hiện có người đến xin ngài bố thí và y đang chạy quanh bên ngoài thành không vào được.” Nhà vua thức dậy, ngạc nhiên gọi quan thừa tướng vào phán: “Ông ra ngoài cổng thành cấm không được ai ngăn giữ người nào vào xin.” Thừa tướng Đại Nguyệt khi đó ra cổng thành nhìn ngơ ngác không thấy ai cả. Khi đó ông thần coi thành hiện lên nói rằng: “Thưa thừa tướng! Hiện có một người dòng Bà La Môn ở nước khác tới đây muốn xin đầu vua thế nên tôi không cho vào.” Thế nên thừa tướng nói: “Trời ơi! Nếu quả như vậy sẽ là bất hạnh khủng khiếp.” Nhưng vua đã ra lệnh nên ông thần cho tên Bà La Môn này vào thành. Thừa tướng Đại Nguyệt thầm nghĩ rằng: “Nếu tên này xin đẩu vua thì ta sẽ làm 500 cai đầu bằng thất bảo bằng bảy loại châu báu.” Cho nên ông ra ngoài đặt rất nhiều thợ thủ công làm kim hoàn làm 500 cái đầu bằng thất bảo. Vào lúc đó Tên bà La Môn nầy bỗng nhiên tỉnh mộng. Rồi y vào cổng thành, Y bước vào cung vừa to tiếng, làm như hoàng cung của y vậy rất thô lỗ nói: “Tôi ở nơi xa tới đây vì tôi biết nhà vua làm hạnh bố thí ai muốn xin gì cũng cho, tôi cũng tới đây xin một việc. Nhưng việc tôi xin này rất khó.” Nhà vua thấy người này có vẻ ăn nói thô lỗ. Nhà vua thầm nghĩ: Tên nầy muốn thử thách ta đây. Nhà vua có vẻ mừng thầm! Vua tự đứng dậy ra đón chào và lịch sự hỏi thăm từ đâu tới và đi đường có mệt mỏi không, có ăn uống gì chưa? Rồi nhà vua hỏi: “Thứ mà nhà ngươi muốn xin là gì? Xin cứ nói. Dù cho khó đến đâu, nếu được, ta sẽ biếu ngươi.” Lao Độ Sai, người Bà La Môn nói: “Tất cả những gì Ngài bố thí như thức ăn, tiền bạc, quần áo, thuốc hay mọi thứ, chắc chắn sẽ mang lại cho Ngài công đức rất lớn. Nhưng công đức này không là gì hết so với công đức nhận được từ việc Ngài bố thí một phần thân thể của Ngài. Vậy tôi không muốn gì khác, tôi chỉ muốn xin đầu nhà vua. Nếu được xin cho tôi biết.” Nhà vua nghiêm túc và trịnh trọng nói: “Được, ta vui lòng và biếu đầu ta cho ngươi.” Người Bà La Môn hỏi: “Bây giờ hay khi nào?” Nhà vua trả lời: “Xin khất đại đức bẩy ngày nữa. Sau bẩy ngày, ta sẽ biếu đầu ta cho ngươi.” Vào lúc đó, thừa tướng Đại Nguyệt đem năm trăm cái đầu tạc bằng châu báu đến, đi vào và đấm tay vào ngực nói với người Bà La Môn: “Đầu nhà vua chỉ là thịt và máu hợp thành. Không có gì tốt. Nó sẽ bốc mùi. Không có gì thật sự có giá trị. Nó đồ bẩn. Ta cho ngươi 500 cái đầu thất bảo đây. Khi mang chúng về nước, đại đức và gia đình sẽ sung sướng suốt đời.” Người Bà La Môn trả lời: “Thưa ông tôi không cần những cái đầu thất bảo này. Tôi chỉ xin đầu của nhà vua thôi. Thừa tướng thấy người này quá ương ngạnh và ác độc như thế. Ông không thể làm gì hơn, nên ông hạ giọng. Ông cầu xin đổi ý. Đừng lấy đầu vua và thay vào đó nhận lấy 500 cái đầu thất bảo. Ổng năn nỉ rất ngọt ngào, tự hạ mình xuống. Nhưng tên Lao Độ Sai nhất quyết đòi cho được đầu vua. Thừa tướng quá thất vọng và phẫn uất nên chết ngay tại đó vì nhồi máu cơ tim. Khi đó nhà vua và các quan triều đình rất thương tiếc và kinh hoàng. Mọi người đều sa nước mắc. Họ thu xếp làm lễ an táng cho ông. Xong việc an táng, nhà vua cho thông báo cả xứ biết: “Thần dân nên biết Vua Nguyệt Quang, vì tinh thần làm hạnh bố thí rất sâu đậm trước đây đã phân phát cho các thần dân thiếu thốn những thứ họ cần. Bây giờ có người Bà La Môn tên Lao Độ Sai ở xứ khác đến để xin đầu vua. Nên nhà vua quyết định bố thí đầu để thực hiện đại nguyện của ngài. Vậy có thần dân nào muốn đến ngày hôm đó để nói lời từ biệt với nhà vua hãy chứng kiến việc bố thí này thì có thể đến.” Được tin như vậy, tất cả dân chúng trong nước ai ai cũng thương tiếc. Tám vạn bốn ngàn nước nhỏ cũng rất buồn bực. Nên tất cả đều tụ họp tại hoàng cung của nhà vua. Họ đều quỳ xuống, thưa với nhà vua rằng: “Tâu bệ hạ, toàn thể châu diêm phù này, thế giới này đều nương tựa vào ân điển, phước lành, công đức, và đại hạnh của ngài mới được hạnh phúc, mãn túc và an hưởng thái bình. Do đó chúng tôi mới có mùa màng tốt, mưa thuận gió hòa. Tại sao chỉ vì một người mà ngài hy sinh như thế, không quan tâm tới muôn dân?” Nên 10.000 quan đại thần đồng thanh nhất trí tâu vua: “Xin ngài ngừng việc bố thí đầu lại. Chúng thần chưa từng nghe yêu cầu nào nực cười như vậy. Bây giờ ngài nghe lời một trong những tên đáng ghét, một gã điên. Một tên ngu ngốc và điên rồ khiến chúng thần rất hoang mang và lo lắng. Xin đừng nghe y.” Và rồi hai tỷ, hai triệu hậu phi cùng 500 hoàng tử đều đến. Và họ gieo mình xuống đất khóc lóc, và cầu xin nhà vua ngửng bố thí đầu. Nhưng nhà vua vẫn an nhiên điềm tĩnh, an ủi họ, và nói: “Tất cả vương hầu, hoàng hậu, và hoàng tử hãy bình tĩnh và lắng nghe ta nói: Con người từ thời xa xưa bởi vì ái dục mà phải luôn luôn lặn ngụp trong vòng sinh tử mãi mãi. Rất khó tìm được người nào, ta chưa từng thấy ai có thể từ bỏ việc yêu bản thân mình. Ta xét thấy rằng từ vô số ức kiếp đến nay, ta sống rồi chết rồi tái sinh, và lại chết, hết kiếp này đến kiếp khác. Ta không nhớ hay đếm được đã sống bao nhiêu kiếp. Có lúc còn đọa địa ngục nữa. Hiện giờ, thân ta đây không có gì nhiều, chỉ toàn nhơ bẩn bên trong. Một ngày kia, thân thể này cũng sẽ bị thối rửa như những người khác. Và bây giờ nếu ta bỏ cái đầu người để đổi lấy pháp thân, sau đó mãi mãi hạnh phúc và an lạc. Vậy các khanh nên nhìn xa, trông rộng vào tương lai. Không nên chỉ chú tâm vào đối tượng nhỏ bé. Nếu ta chỉ hy sinh một thứ nhỏ bé, để được thành Phật sau này. Khi ta thành Phật rồi ta sẽ cứu tất cả các khanh. Các khanh sẽ được giải thoát mãi mãi và sống trong hạnh phúc. Sao còn cố ngăn cản ý định cao thượng của ta?” Mọi người nghe Phật giảng dạy cho họ như vậy. Tất cả đều yên lặng, không dám nói gì nữa. Nhà vua thấy mọi người đã lắng xuống, nên quay sang bảo Lao Độ Sai. “Bây giờ ngươi có thể lấy đầu ta.” Lao Độ Sai nói: “Tâu bệ hạ, hiện tôi có một mình ở đây, lực yếu thế cô, chung quanh vua, quan quân, dân chúng nhiều. Nếu nhà vua thật sự muốn bố thí đầu cho tôi, xin ra hậu viên, nơi vắng vẻ, chỉ riêng một mình tôi với nhà vua mà thôi, thì tôi mới dám chặt đầu ngài.” Nhà vua lúc đó thông báo với mọi người: “Nếu tất cả các khanh có thương ta xin chớ làm hại đến Lao Độ Sai.” Nói xong cùng người Bà La Môn ra hậu viên, phía sau vườn thượng uyển. Lao Độ Sai nói: “Sức vua hùng tráng khỏe mạnh. Khi tôi cắt đầu ngài, có lẽ ngài sẽ thấy đau đớn, rồi lúc đó có thể hối tiếc, và hại tôi thì sao, hay ngài sẽ chạy trốn thì biết làm sao? Vậy nhà vua hãy lấy dây buộc cổ treo lên để tôi cắt cho dễ.” Nhà vua liền ngồi dưới gốc cây đại thụ lấy tóc buộc vào cây và nói: “Được rồi, ngươi cắt đầu ta xong, rồi đặt lên bàn tay ta, để ta có thể long trọng dâng biếu cho ngươi.” Sau đó nhà vua nguyện rằng: “Kính lạy các vị thánh và hiền nhân, thập phương tam thế, tôi xin chân thành bố thí đầu tôi. Nguyện dùng công đức này để cầu quả vị Phật trong tương lai. Tôi không muốn dùng công đức nầy cầu làm Phạm vương, Ma vương để vui hưởng trong ba cõi. Tôi chỉ muốn trở thành Phật, để trong tương lai, khi đạt được quả vị Phật, tôi có thể độ chúng sinh thoát vòng đau khổ. Đây là những gì tôi ước muốn. Rồi Lao Độ Sai vừa giơ dao lên, muốn chém đầu vua, thì ở đó có thần cây chỉ ngón tay vào đầu của Lao Độ Sai. Làm cho y rụng rời chân tay. Ý vất dao xuống đất. Y không làm được gì hết. Y còn mê mệt, ngã lăn trên mặt đất. Rồi nhà vua ngửa mặt bảo thần cây rằng: “Thụ thần ông nên biết từ thời xa xưa, dưới gốc cây này ta đã bố thí 999 cái đầu. Hôm nay ta bố thí một cái đầu nữa, là đủ 1000 cái. Khi đó nguyện bố thí của ta sẽ được hoàn tất. Đừng cản trở nguyện bố thí của ta.” Nghe xong, Thụ thần tha Lao Độ Sai ra, nhà vua nói: “Đừng quay y vòng vòng trên mặt đất nữa.” Sau đó, Lao Độ Sai đứng dậy múa dao với chỉ một nhát chém đứt đầu vua, và đặt nó trong tay vua. Nhà vua tâm thức vẫn còn tỉnh táo, kính cẩn dâng đầu lên biếu. Ngay giờ phút đó, trời đất đều chấn động. Các thiên cùng rung lắc dữ dội, nghiên ngã tứ phía. Các Thiên Đế và thiên nhân đều giật mình. Ho thậm chí không biết điều gì đang xảy ra. Họ nhìn xuống nhân giang thì họ thấy một vị bồ tát bố thí đầu của ngài vì lợi ích của mỗi chúng sinh. Cho nên tất cả họ đều vô cùng xúc động. Họ bay xuống từ thiên đàng khóc như mưa. Nhưng họ cũng tán thán rằng: Bồ tát, ngài làm hạnh xuất tục phi phàm. Chưa từng có ai dám làm hạnh bố thí như ngài. Chúng tôi đều tôn kính và thán phục bởi vì tình thương vô điều kiện của ngài. Ông vua ganh tỵ Tỳ Ma Tư Na sau khi hay tin Lao Độ Sai đã lấy được đầu vua Nguyệt Quang, ông vui mừng khôn xiết nên bị cao huyết áp ngã xuống chết tức thì. Lao Độ Sai mang đầu vua về nước. Tất cả quan lại, triều đình nhân công và thần dân khi thấy cái đầu đó họ ngã lăn xuống đất khóc than thương tâm. Họ quá tức giận, đến nỗi họ cũng bị nhồi máu cơ tim mà chết. Một số đứng sững như bức tượng không còn biết gì hết. Hoàng hậu và những quý phi khác bức tóc ra từng mảnh, có người xé quần áo, gào thét và lăn lộn trên mặt đất. Lao Độ Sai mang đầu vua đi trên đường về đất nước. Đi được mấy hôm, thấy đầu hôi thối ghê tởm, y vứt đầu xuống đất rồi đạp lên trên mà đi. Dân chúng dọc đường thấy y tất cả họ đều la mắng y, chưởi rủa tên này và nói rằng: “Y là tên bất lương độc ác. Nếu không dùng được, thì ngươi đi xin làm chi?” Ai cũng nguyền rủa y. Và rồi họ bảo nhau, cùng nhau ngăn cấm không cho ai được cho y ăn uống gì hết. Y quá đói, y đi mệt mỏi và rồi y gặp một người quen, y hỏi về vua Tỳ Ma Tư Na. Họ nói rằng Nhà vua mừng quá nên nhồi máu cơ tim chết rồi. Lao Độ Sai, nghe thấy vậy quá thất vọng, nên cũng buồn quá chết luôn. Cả hai, ông vua ganh tỵ và Lao Độ Sai bị đọa địa ngục sâu nhứt. Còn những người chết vì thương nhà vua đều được lên thiên đàng. Nói tới đây Phật nhắc nhở Anan rằng: Anan ông nên biết, vua Nguyệt Quang thuở đó chính là một trong những tiền thân của ta. Vua Tỳ Ma Tư Na, nhà vua ganh tỵ đó giờ là ma vương. Lao Độ Sai này là ông Diệu Đất và thần cây nay là Mục Kiền Liên. Thừa tướng Đại Nguyệt, nay là Xá Lợi Phất. Thời bấy giờ, ông không nở thấy ta chết, nên ông chết trước. Ngày nay cũng vậy, ông không nở thấy ta chết nên ông đi trước đó. Thế thôi. Tôi và đại chúng trong pháp hội nghe Phật giảng xong, thương Phật vô vàng, và cảm động tình thương của Xá Lợi Phất. Tất cả tán thán đức hạnh của ông. Tất cả mọi người trở nên trung nghĩa hơn, nên nhiều người được cảnh giới tâm linh cao hơn. Một số phát tâm đạt quả vị Phật trong tương lai. Mọi người lễ tạ và lui ra. BMD 270 Sư Phụ ở Trên núi Yang Min năm 1992 tại Đài Bắc-Đài Loan Ngày xưa có một ông vua trẻ. Ông còn độc thân và muốn kết hôn với một người vợ thông minh. Ông không cần một bà vợ giàu hay nghèo, đẹp hay xấu mà chỉ cần thông minh để giúp ông cai trị cho tốt và thế giới được hòa bình. Cho nên ông rời hoàng cung bận đó thường dân và đi với vài bộ hạ thân tín. Ông tìm trong vương quốc của ông nhưng ông không tìm được. Ông cảm thấy mệt mỏi và ngồi xuống nghĩ ngơi. Lúc đó ông gặp một ông già đang đi bộ. Ông già trông có vẻ thông minh và đúng đắn. Nên ông hỏi ông già: “Thưa ông, ông đi đâu thế?” Ông già nói là ông đang đi bộ tới một thành phố nọ. Ông vua hỏi: “Tôi đi chung với ông có được không?” Ông già trả lời: “Sao lại Không.” Thế là họ đi chung với nhau. Đi được một khoảng, ông vua hỏi ông già: “Ông có nghĩ rằng ông cần cõng tôi hay tôi cần cõng ông không?” Ông già nghĩ rằng người này chắc là điên mới nói như vậy, nên ông không thèm trả lời. Họ tiếp tục đi và thấy một cánh đồng lúa mì. Ông vua hỏi nữa: “Ông có biết là cánh đồng lúa mì này có ai ăn chưa?” Ông già lại nghĩ rằng người này chắc điên thật tôi. Cánh đồng lúa mì còn sờ sờ đây mà lại hỏi có ai ăn chưa. Nên ông làm như không nghe thấy. Và họ vẫn tiếp tục đi đến thành phố. Khi qua cổng thành, họ thấy một đám ma. Và ông vua hỏi ông già lần nữa: “Ông nghĩ rằng người trong hòm nầy còn sống hay đã chết?” Ông già lắc đầu nghĩ: “Trên đời này không ai mà điên bằng người này.” Nghĩ vậy nên ông không muốn đi chung với ông vua nữa. Ông nói: “Sắp tới nhà tôi rồi, thôi mình chia tay.” Ông nói lời từ giả rồi vội rẽ sang hướng khác. Ông vua nói: “Vâng, hãy cẩn thận, và nhớ gõ cửa khi vào nhà nhé.” Ông già lắc đầu, rời khỏi càng nhanh càng tốt. Khi về tới nhà, ông sô cửa vô nhà. Ông sô mạnh quá cánh cửa đập vào trán con gái ông. Cô gái đau quá sắp xỉu rồi. Ông nói: “Rất tiếc là ta không nghe lời người bạn trẻ hồi nảy.” Con gái ông hỏi: “Ba nói người bạn trẻ nào?” Ông già trả lời: “Có một người vừa mới gặp trên đường về nhà. Nhưng mà những chuyện khác hắn toàn là nói bậy bạ không.” “Hắn đã nói gì ba kể lại nghe coi.” Con gái hỏi. Ông già nói: “Trong lúc đi đường hắn hỏi là tôi có nên cõng ông hay là ông cõng tôi?” Con gái nói: “Sao ba không hiểu vậy? Đơn giản là ý người kia nói là hắn kể hay là ba kể nhau nghe một câu chuyện để cho đi đường bớt chán. Vừa đi vừa kể chuyện thì sẽ thấy đoạn đường ngắn lại.” Ông già nói: “Ở! vậy thì có lẽ hắn đúng.” Cô gái hỏi: “Ông còn nói gì nữa?” Ông già nói là khi đi qua cánh đồng lúa mì, hắn hỏi là đồng lúa mì này có ai ăn chưa? Cô gái nói: “Ba, đơn giản có nghĩa là có ai đã mua đồng lúa mì này chưa. Nếu không thì ông nông dân có thể tự gặt đề ăn.” Ông già nói: “Thì ra là vậy. Nhưng còn chuyện này thì hoàn toàn vô lý. Khi thấy một đám ma thì hẳn hỏi là người trong hòm còn sống hay đã chết? Một câu hỏi lãng nhách.” Cô gái trả lời: “Đơn giản vậy mà ba cũng không hiểu. Ý hắn muốn hỏi là người trong hòm nay có con nối giòng chưa? Nếu có con nổi giòng thì coi như gia tộc còn sống. Nếu chưa có con thì coi như giòng họ chấm dứt.” Ông già nói: “Ô! Con thông minh quá. Để cha tìm người trẻ tuổi đó lại và mời về nhà chơi. Mời hắn thức ăn để xin lỗi.” Đoạn ông đi tìm ông vua và mời về nhà. Ông vua hỏi: “Sao ông từ già tôi rồi mà. Ông nghĩ là tôi điên, sao giờ lại mời tôi về nhà.” Ông già nói; “Tôi đã hiểu hết những gì ông nói rồi nên muốn mời về nhà để xin lỗi ông.” Ông vua hỏi: “Ông tự hiểu hay có ai giúp ông?” Ông trả lời: “Con gái tôi đã giúp tôi.” Xong ông vua đi chung với ông già về nhà. Cô gái nấu một con gà và mời dùng bữa. Ông vua lấy cây dao cắt cái đầu cho ông già. Cặp chân thì cho người mẹ và đôi cánh thì cho cô gái. Phần còn lại thì ông vua ăn. Ông già giận dữ nghĩ: “Sao hắn đưa cho mình cái đầu đâu có thịt đâu mà ăn.” Cô gái bèn giải thích: “Ô! cha à, đừng có giận, anh tôn trọng nên mới cho ba cái đầu. Chứng tỏ rằng ba là chủ gia đình này. Anh đưa cho mẹ cặp chân bởi vì anh biết rằng mẹ luôn đi tới đi lui để lo cho gia đình. Anh đưa cho con cặp cánh vì không bao lâu con sẽ lấy chồng và sẽ rời xa gia đình. Anh lấy phần còn lại vì đâu còn ai để chia sẽ nữa.” Lúc đó ông vua thầm nghĩ rằng: “Cuối cùng rồi ta đã gặp một người đàn bà thông minh để lấy làm vợ. Cho nên ông có ý lấy nàng làm vợ.” Ông nói: “Thật xứng đáng công của ta đã đi tìm.” Sau đó thì mọi người đều biết rằng ông là vua và một đám cưới được chuẩn bị ngay tức thời. Tìm một người vợ thông minh còn khổ như vậy, huống chi là tìm một Minh Sư. Nhưng đa số chỉ lo tìm người vợ cho vừa ý mình thôi chớ không lo tìm một người để hướng dẫn linh hồn của mình. Đương nhiên là tìm một Minh Sư còn quan trọng hơn rất nhiều. Nhưng thế giới này là như vậy. BMD 270 Sư Phụ ở Trên núi Yang Min năm 1992 tại Đài Bắc-Đài Loan Có hai người lái buôn ở trong một thành phố nọ. Một người là đạo Do Thái người kia là đạo thiên chúa. Tiệm của người Do Thái thì rất đông khách hàng và tiệm của người đạo thiên chúa thì vắng khách. Và chủ của tiệm vắng khách ganh tỵ với tiệm kia. Nên ông đạo thiên chúa tìm cách gạt người kia. Ông nói: “Này anh bạn tốt, nếu mình có thể hùng hạp nhau buôn bán có lẽ tốt hơn nữa, thịnh vượng hơn nữa.” Cho nên họ cùng hợp tác nhau 2 tiệm thành một tiệm. Một thời gian sau, ông đạo thiên chúa lại gạt nữa và tìm cách chiếm nguyên cả cái tiệm. Ông kia thật thà hơn nên không biết làm sao xoay sở nên đã để bị mất phần của ông. Và cũng không có bằng chứng để thưa kiện ông kia. Nên ông nói với vợ ông rằng: “Thôi hãy quên nó đi, không sao đâu. Anh sẽ đi nơi khác để làm ăn. Khi nào làm ăn khá anh sẽ trở về.” Và bà vợ đồng ý. Sau đó người chồng mới đi qua xử Ấn Độ, hy vọng sẽ làm ăn được ở đây. Ở Ấn Độ, ông không quen với một ai. Khi tới thành phố đông đúc ông vào ngồi trong một quán cà phê. Ông ngồi uống cà phê và trà đến tối. Ông chủ tiệm hỏi ông: “Ông có sao không? Sao lại ngồi đây suốt ngày như vậy? Ông phải đi ngay bây giờ để chúng tôi sẽ đóng cửa tiệm.” Ông trả lời: “Tôi không biết đi đâu bây giờ. Nơi đây xa lạ đối với tôi. Tôi có cửa tiệm buôn bán rất tốt, nhưng tôi đã bị gạt hết vốn rồi. Nếu ông để tôi làm việc ở đây tôi sẽ cố gắng làm thật tốt. Và ông muốn trả công cho tôi thế nào cũng được.” Ông chủ tiệm cà phê rất vui lòng vì mướn được một người với mức lương rẽ. Và để hắn ở lại đây. Mỗi ngày, ngoài việc phải ra làm bánh chapati phục vụ cho khách, ông còn phải đổ đầy 3 lu nước để sáng mai có nước để dùng. Cho nên mỗi buổi chiều ông đổ đầy 3 lu nước. Nhưng mỗi buổi sáng ông lúc nào cũng thấy có một lu bị cạn nước. Ông rất lấy làm ngạc nhiên. Nên ông quyết định tìm hiểu lý do. Nên chiều hôm đó ông chỉ đồ nữa lu nước thôi, rồi ông chui vào ngồi bên trong lu để rình chừa lỗ mũi lên để thở thôi. Và chờ coi chuyện gì xảy ra. Vào lúc nửa đêm, ông thấy một con chim đại bàng lớn xà xuống và dùng cẳng của nó quắp lấy cái lu bay đi. Lúc gần sáng con chim bay trở lại và trả lại chỗ cũ với cái lu không còn nước. Thế là ông biết là con chim đã ăn cắp nước. Qua ngày hôm sau, ông quyết định tìm hiểu xem con chim đem cái lu nước đi đâu. Nên chiều hôm đó ông chỉ đổ nữa lu nước thôi, cái lu mà bị lấy trộm nước đó, rồi ông chui vào ngồi bên trong. Vào lúc nửa đêm, con chim đại bàng cũng đến quắp cái lu đó có ông ngồi bên trong và bay đi. Con chim bay qua nhiều ngọn núi và nhiều con sông. Cuối cùng con chim đáp xuống trên một ngọn núi và để cái lu nước xuống. Đây là cái ổ chim con của nó. Nó đem nước về cho chim con uống. Ống leo ra khỏi cái lu và thấy chung quanh ông rất nhiều vàng và đá quý. Ông rất mừng bèn lấy một mớ bỏ vào túi xong rồi chui vào ngồi trong lu. Sau đó con chim đem cái lu bay về trả chỗ cũ. Và mỗi ngày đều như vậy ông ngồi trong lu rồi con chim chở ông đi lấy vàng. Sau một năm như vậy ông đã có được một số vàng khá nhiều. Ông nói với người chủ tiệm cà phê: “Tôi đã làm cho ông được một năm rồi và nay tôi muốn trở về nhà. Tôi không cần ông trả tiền công cho tôi, mà chỉ xin ông trả công cho tôi bằng một số bột. Thế là người chủ trả công cho ông bằng vài bao bột và ông dấu vàng và đá quý vào trong số bột đó và mang về quê. Khi về tới nhà ông mua nhà lớn sang trọng, xe lớn, bò ngựa và lập một cơ sở kinh doanh lớn. Gia đình vợ con ông sống sung sướng, thoải mái. Tên mà gạt tiền ông lúc trước thấy ông đột nhiên rất giàu có như vậy. Hắn rất ngạc nhiên. Tại sao ta đã gạt hẳn lấy hết tiền bạc rồi mà giờ hắn lại giàu hơn ta nữa. Tên này đến hỏi han nguyên do. Ông thành thật kể lại toàn bộ câu chuyện đi làm ở Ấn Độ. Làm Chapati, pha trà và chuyện con chim trộm nước uống kể lại hết. Tên ganh tỵ bây giờ bắt chước ông. Từ giã vợ con và đi Ấn Độ làm ăn. Chỉ mang theo một ít tiền thôi. Tên ganh tỵ nhờ ông viết giùm một lá thơ giới thiệu với chủ tiệm cà phê để y có thể làm ở đó. Người chủ tiệm cà phê sau khi đọc lá thư thì chấp nhận cho y làm việc ở đó. Ngay đêm đó, y đỗ nữa lu nước và vào trong lu nước ngồi chờ. Lúc đó đã vào mùa đông nền trời rất lạnh. Bên Ấn Độ mùa đông rất lạnh. Lúc nửa đêm con chim đại bàng cũng đến rồi chở cái lu nước lên đỉnh núi. Nhưng kỳ này ở đỉnh một ngọn núi lửa. Vì là mùa đông nên con chim đại bàng đem mấy chim con tới đây cho ấm. Y nghe con chim nói với đàn con nó: “Để mẹ hâm nước cho nóng lên cho các con uống. Sau khi nghe như vậy y la lên vì sợ hãi. Hẳn vội la lên: “Đừng đem tôi tới núi lửa. Đem tôi tới núi vàng đi.” Khi nghe như vậy con chim giận dữ hỏi: “Mày dám trả lời như vậy hả? Mày ngồi trong đây làm cho mấy con tao không đủ nước uống. Mày muốn tao đem mày đi đâu? Đoạn con chim Mang cái lu đem bỏ ngoài biển.” Ông chủ tiệm café chờ rất lâu mà không thấy y trở lại và thấy có một cái lu bị lấy mất. Ông gọi cho người trước biết là bạn của ông đã ăn trộm cái lu của tôi và đi đâu mất tiêu rồi. Người lái buôn hiểu chuyện gì đã xảy ra. Ông lấy làm tiếc nhưng ông đâu có ý làm hại ông này. Tánh ganh tỵ đã giết ông. Thượng Đế đã trừng phạt ông. Nhưng người lái buôn đã chăm sóc giúp đỡ cho vợ con của ông ganh tỵ kia. Mặc dù ông ganh tỵ đã đối xử với ông rất xấu, nhưng ông vẫn chăm sóc cho họ vì bây giờ ông đã có nhiều tiền. Luật nhân quả là như vậy. Đôi khi chúng ta làm những việc xấu, dầu cho không ai biết. Và không ai làm hại mình được. Nhưng gieo nhân nào sẽ gặt quả đó. Nhưng trên thế gian nầy ít ai biết việc nầy nên cuộc sống mới đau khổ như vậy. BMD 270 Sư Phụ ở Trên núi Yang Min năm 1992 tại Đài Bắc-Đài Loan Có một người đàn ông kia rất là sợ vợ. Một ngày kia ông đi trốn vợ ông và gặp một con quỷ. Con quỷ hỏi: “ông đi đâu mà vội vã quá vậy?” Ông trả lời: “Tôi đi trốn vợ tôi.” Con quỷ nói: “Tôi cũng vậy, tôi cũng đang chạy trốn vợ tôi, như vậy là mình giống nhau rồi. Mình có thể đi chung được rồi. Mình sẽ đi tới một xứ kia nơi mà ông vua có một nàng công chúa rất đẹp. Tôi sẽ làm cho Công chúa bệnh không đi lại được, mà không có một y sĩ nào trị nỗi. Sau đó nhà vua sẽ rao thưởng một số tiền rất lớn cho ai trị được bệnh của công chúa. Đến lúc đó, anh sẽ tới xin trị bệnh. Anh sẽ được thưởng một số tiền rất lớn và tôi sẽ làm cho công chúa đi lại được rồi mình sẽ chia đôi số tiền thưởng. Chịu không?” Người đàn ông sợ vợ đáp: “Hay lắm! Đúng lắm!” Sau đó cả 2 đi tới xứ nọ, và con quỷ làm cho công chúa bệnh không đi được. Sau đó rất nhiều y sĩ tới chữa cho cô nhưng đều không được. Rồi dĩ nhiên ông vua truyền chỉ cho cả nước rằng ai mà trị được cho công chúa hết bệnh thì sẽ được hậu thưởng. Lúc đó thì anh chàng sợ vợ đến và nói: “Anh ta là một y sĩ rất tài giỏi có thể trị được cho công chúa.” Nhà vua nói: “Nếu công chúa không hết bệnh thì sao?” Ông sợ vợ trả lời: “Thì thần sẽ bị chém đầu.” Sau đó nhà vua cho anh ta rất nhiều tiền. Ông sợ vợ hẹn 3 ngày sau công chúa sẽ hết bệnh. Đoạn ông đến gặp con quỷ và nói: “Tôi đã nhận tiền rồi, ngươi hãy làm cho công chúa hết bệnh di.” Nhưng con quỷ nói là không được. Thế rồi 3 ngày trôi qua công chúa vẫn chưa hết bệnh. Ông vua ra lệnh chém đầu ông sợ vợ. Nhưng anh ta năn nỉ rằng bệnh này nặng quá xin cho thêm ba ngày nữa mới trị hết được. Nhà vua bèn cho ông thêm 3 ngày nữa. Sau đó ông đi gặp con quỷ và nói nó hãy làm cho công chúa hết bệnh đi. Minh đã giàu lắm rồi. Nhưng con quỷ vẫn không chịu. Tin lời con quỷ là tới số rồi! Thế là ba ngày nữa trôi qua. Bệnh của công chúa vẫn không trị được. Nhà vua ra lệnh chém đầu ông sợ vợ. Ông lại năn nỉ xin thêm ba ngày nữa bởi vì bệnh công chúa rất nặng. Vua nói đây là lần cuối cùng nếu 3 ngày nữa mà công chúa không hết bệnh thì ngươi chắc chắn sẽ chết. Anh ta đi năn nỉ con quỷ, những con quỷ vẫn không chịu tha cho côn chúa. Ông sợ vợ bèn nói với ông vua xin gọi một số quân lính vào đây cho đánh trống, thổi kèn ầm ĩ lên. Ông vua cho làm y như vậy. Ông sợ vợ đi gặp con quỷ. Con quỷ mới hỏi: “Sao có chuyện gì ầm ĩ dữ vậy?” Ông sợ vợ nói: “Đâu có gì đâu vợ của mày tới đó.” Con quỷ nghe vợ nó tới thì hoảng hồn bỏ chạy mất. Và công chúa được hết bệnh. BMD 270 Sư Phụ ở Trên núi Yang Min năm 1992 tại Đài Bắc-Đài Loan Có một người rất thích học thần thông. Ống nghe có một vị thấy ở Ai Cập rất giỏi về thần thông, nên ông quyết định đi Ai Cập tìm vị thầy này. Khi ông đi ngang quịa lãnh thổ Nga Sô ở một thành phố tên là Koritz. Nơi đây có một nhà tu hành chân chính. Sau khi nghe tên tuổi của nhà tu hành này ông quyết định đến gặp vị thầy này trước khi đi tiếp tới Ai Cập để học thần thông. Đúng lúc ông tới thì gặp một bữa tiệc mà người tu hành nọ có mời nhiều người tới tham dự. Ông không phải là đệ tử nhưng cũng được mời vào ăn. Nhưng mới ăn được vài miếng thì ông cảm thấy bị đau bụng. Nên ông đi ra ngoài tìm chỗ giải quyết bầu tâm sự. Ông vào một góc vườn và thấy có một cái chòi nhỏ. Trong cái chòi có một cầu thang đi xuống. Sau khi xuống đó thì ông thấy một khoảng trống rất rộng. Ông đi dạo trong một khu rừng cây. Thình lình bị một tên cướp trông thấy. Tên cướp đánh ông gần chết. Ông van xin là có lấy gì thì cứ lấy nhưng xin hãy tha mạng cho ông. Sau đó ông đi trở lại tìm vị thầy tâm linh nọ. Nhưng ông đã bị lạc đường, ông chỉ còn ăn lá cây và trái dâu rừng để sống sót. Ba ngày sau, ông ra khỏi rừng và đi tới một thành phố. Ông định vào thành phố, nhưng bị người lính gác chặn lại xét. Nhưng ông không có giấy tờ tùy thân để chứng minh, nên ông bị bắt nhốt vào nhà lao. Sau khi bị giam chừng một tuần thì họ buộc ông phải vào quân đội. Làm lính được vài năm. Một ngày kia ông đi đến một con sông. Đây là một con sông lớn và đa số người ở thành phố này thường xuống đây để tắm rửa lúc mùa hè. Ông cùng họ xuống tắm. Bỗng nhiên một trận bão lớn thổi tới. Con sông bị tràn bờ. Nhiều người bị nước cuốn trôi và cả ông nữa. Nhưng ông vẫn may mắn chưa chết và bị cuốn vào một bờ cát. Ông cố sức đứng dậy đi vào bờ và ông nhận ra là đây chính là nơi mà vị thầy tâm linh nọ mà ông muốn gặp. Ông thu hết can đảm đi vào nhà thì ông rất ngạc nhiên là quang cảnh vẫn còn y như lúc ông ra đi. Các vị khách vẫn còn ngồi ở bàn và chưa thưởng thức xong bữa tiệc. Y như cách đây vài năm trước. Lúc đó súp và thức ăn vừa mới bưng lên. Vị thầy tâm linh hỏi ông đã đi đâu vậy? Ông kể lại mọi việc ông đã trải qua. Lúc đó ông thầy mới nói: “Ông đã hiểu thần thông như thế nào chưa? Thời gian ông phải trải qua nhiều năm gian khổ đó thì nơi đây chỉ là một khoảnh khắc ngắn thôi.” Ông đã đứng chết trân đó mà không biết nói gì. Ông ngồi xuống ăn cùng mọi người. Sau bữa ăn, vị thầy vào phòng nghỉ. ông đi theo và than vãn về thời gian rất gian khổ để được trở lại nơi đây và ông bắt đầu khóc thảm thiết cho rằng cuộc đời này rất khổ không đáng sống chút nào. Lúc đó ông thầy an ủi ông rằng cuộc đời này cũng như một giấc mộng vậy thôi. Ta chỉ muốn chỉ cho ông biết rằng thần thông không tốt, không bình thường, chỉ làm rồi loạn con người, không được tự nhiên. Hãy suy nghĩ về khinh nghiệm này. Hãy tránh xa các vị thầy giả dối. Không nên học thần thông. Hãy nên theo đường chính đạo như Chúa đã dạy. |
Archives
January 2023
Categories |