BMD 467 20150908 King name Moonlight Một thời Đức Phật ở nước Tỳ Xá Ly, trong vườn cây Ala. Khi đó, Đức Thế Tôn hỏi tôi như vầy (Tức là Anan): “Những người đã đạt được tứ thân túc thì thọ được một kiếp, như ta đã có tứ thân túc mà vẫn còn phải tu tập, nghĩa là công đức còn nhiều hơn nữa. Ngươi có biết như lai thọ được bao nhiêu không?” Đức Phật hỏi Anan ba lần. Anan tự nghĩ và không biết có bị ma quỷ ám ảnh không mà cứ lặng yên không trả lời. Phật lại bảo: “Anan! Ông hãy đi đến chỗ tỉnh mịch mà suy xét.” Tôi vâng lời đứng dậy đi vào trong rừng. Vừa đi khỏi, thì ma Vương tới bạch Phật rằng: Kính lạy Đức Thế Tôn, Ngài ở đời giảng pháp đã lâu, tế độ nhân gian được thoát sinh tử, nhiều như số cát sông Hằng. Nay tuổi đã già yếu. Ngài nên nhập Niết Bàn!” Nghĩa là rời thế gian, bỏ nhục thể. Thế là Phật lấy chút đất để trong tay, rồi hỏi Ma Vương rằng: Số cát ít ỏi trong tay ta đây nhiều hay ít so với đất trên Địa Cầu này?” Ma Vương nói: Thưa Ngài, dĩ nhiên là cát trên Địa Cầu nhiều hơn cát trên tay Ngài. Và rồi Đức Phật nói: “Ta độ chúng sanh cũng ít như cát trên tay ta vậy. Còn những chúng sinh chưa được độ cũng nhiều như cát trên Địa Cầu này. Nhưng không sao, ba tháng nữa, ta sẽ nhập Niết Bàn.” Ma vương nghe Phật nói như vậy lấy làm vui mừng và bái tạlui ra. Tôi đang ngồi trong rừng và hơi ngủ gật và mơ thấy một cây to lớn che lấp cả hư không, cành lá um tùm hoa quả tốt tươi. Công đức của cây này vi diệu. Không ai có thể diễn tả được. Và bỗng nhiên không biết từ đâu có một trận cuồng phong kéo tới làm cho cành lá tơi tả, lá hoa trái đều rụng hết. Tôi lo sợ quá, giật mình tỉnh dậy. Lồng ngực hãy còn đập liên hồi. Cho nên tôi thầm nghĩ: “Ta mộng thấy cây đại thụ này là một cây mà muôn loài được nhờ. Vì nó khổng lổ, to lớn như vậy. Tự nhiên lại bị trận gió kéo đến làm tan nát như thế Cây này được ví như Đúc Thế Tôn của ta, Ngài tế độ cho khắp nhân thiên, phạm thanh, muôn loài ham sinh đều lợi ích. Cũng như cây này che chở cho khắp thiên hạ. Mộng này có lẽ ngụ ý Đức Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn.” Tôi đứng lên vào tịnh xá cúi đầu làm lễ bạch Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn, vừa đây con mộng thấy một cây to lớn che chở cho muôn loài trên Địa Cầu này, cây đó thậm chí che cả bầu trời. Bỗng gặp cơn cuồn phong lớn kéo đến đập gãy tan tành. Con dự đoán hay Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn, lạy Ngài có phải, cúi xin Ngài chỉ giáo?” Phật dạy rằng: “Thực thế đấy, sau ba tháng nữa, ta sẽ nhập Niết Bàn. Cũng như lời ta vừa nói đây, những người đã đạt được tứ thân túc thì thọ một kiếp. Như ta đã có tứ thân tức còn phải tu tập. Và ta hỏi ông vậy Như Lại (ta) thọ được bao nhiêu? Nghĩa là đã phán con người khi có được tứ thân túc thì họ có thể dừng lại. Nhưng Ngài vẫn tiếp tục. Ngài có nhiều công đức hơn nữa. Và tuổi thọ của Ngài sẽ nhiều hơn nữa. Ta hỏi luôn ba lần như thế mà ông không đáp. Khi ông đi khỏi, Ma Vương đến mời ta nhập Niết Bàn, và ta đã hứa.” Tôi nghe xong như sét đánh bên tai, lo sợ quá, ân hận quá. Buồn khổ quá! Giờ đây Ngài nhập Niết Bàn, mỗi chúng sinh bị mất nơi nương náu. Chúng sinh biết đi về đâu? Nương tựa vào ai? Và sau đó mọi người đều biết, các tăng ni biết, toàn thể giáo đoàn biết. Các đệ tử ai ai cũng âu sầu buồn bã, tề tựu lại hỏi thăm Ngài. Phật dạy rằng: “Tất cả thế gian đều bị luật vô thường chuyển biến luôn luôn, nay còn mai mất, không đoán trước được, không ai thoát khỏi, từ loài người, loài vật, cho đến núi sông, đại dương, vũ trụ bao la, không có một vật gì được tồn tại mãi mãi đâu. Ta vì chúng sinh trong pháp giới mà đến châu Diêm Phù này. Việc nên làm ta đã làm xong, những việc phải nói, ta đã nói hết. Các ông nên chăm chỉ tu hành, lo buồn làm chi vô ích. Ngài Xá Lợi Than: “Than ơi! Con mắt sáng nhứt của thế gian sắp mất đi, Đức Như Lai sắp nhập Niết Bàn. Chúng sinh hết chỗ trông chờ.” Nói xong, ông quỳ bạch rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn, Con không nở lòng nào nhìn thấy Ngài nhập Niết Bàn, Cúi xin Ngài cho con nhập Niết Bàn trước. Cúi xin Ngài hoan hỷ cho con được thỏa nguyện.” Ông thưa luôn ba lần như vậy. Phật nói: “Được rồi. Phật hầu như chấp nhận yêu cầu của ông. Ông quỳ thẳng đi bằng hai gối, đi vòng quanh Phật 100 vòng. Rồi ông tới trước mặt Phật đỡ lấy chân Phật để lên đầu ba lần. Đó là biểu hiện hết sức tôn kính của ông và rồi ông bạch Phật: kính lạy Đức Thế Tôn, hôm nay là lần cuối con tự biết Ngài. Nói rồi ông cúi đầu chắp tay nghiêm kính đi ra. Ông trở về nước, nơi sinh quán của ông. Rồi một sa di, tỳ kheo trẻ đi tới triều đình đưa tin cho vua quan và các nhân thân tin hay, để họ tới thăm viếng lần cuối. Rồi vua A Xà Thế, là một trong những tín đồ rất thành tâm của Đức Phật, biết tôn giả Xá Lợi Phất sắp nhập Niết Bàn. Nên nhà vua tự nhủ: “Tôn giả Xá Lợi Phất là một vị đại tướng trong phật pháp. Than ôi! Ngài nhập Niết Bản chi sớm thế? Biết lấy ai để trần tĩnh người gian tà.” Sau đó mọi người, vua quan, dân chúng, thân nhân đến đông đủ. Họ thưa rằng: “Kính lạy Đức Tôn Giả, được tin Ngài sắp nhập Niết Bàn chúng tôi đây như con mất cha, như gà mất mẹ, không chốn nương thân, không bề trong cậy. Và rồi Xá Lợi Phất đáp rằng: “Cac Phật tử chớ buồn chi. Tất cả muôn vật trên thế gian này đều thuộc hai chữ vô thường. Đã có sinh tất phải có tử, trong ba cõi đều khổ, không ai thật sự được an vui.” Các vị đời trước trồng nhân lành, nên đời này được hưởng may mắn sinh gặp Phật tại thế, kinh pháp khó được nghe. Cả hai, các vị đều biết. Thân người khó đặng. Nhưng tất cả quý vị đều có. Vậy nên tận dụng sự may mắn này tiếp tục chăm chỉ tu hành, và gieo nhân lành. Rồi ta sẽ hồi hướng công đức này để giải thoát cho các vị thoát khỏi sinh tử luân hồi vĩnh viễn. Ngài tiếp tục giảng giải như vậy tùy theo trình độ, tâm thức của chúng sinh. Ngài giảng giải rất khéo léo, cũng như thầy thuốc, tùy theo bệnh mà kê đơn thuốc cho từng bệnh nhân để họ mau bình phục. Khi giảng xong, cũng có nhiều người được thăng hoa quả vị tâm linh, như từ sơ quả lên nhị quả, nhị quả lên cao hơn, v. v. Mọi người đều phát tâm cầu đạo vô thuợng. Ai nấy tâm ý an hòa tạ lễ lui ra. Giờ này đã quá nửa đêm, Ngài Xá Lợi Phất Nghiêm tĩnh tâm ý để tại trước mặt. Rồi từ cõi sơ thiên lên cõi nhị thiên, rồi cõi tam thiên. Sau đó lên cao hơn, cao hơn. Ngài Thiên Đế đem đoàn tùy tùng của ông khoảng một trăm ngàn người, mang rất nhiều hương hoa xuống để cúng dường lần cuối. Rồi ông than rằng: “Tôn giả trí huệ rộng sâu, như trời cao, như biển lớn, biện luận ứng cơ, rất nhanh. Biện tài của Ngài mau như tia chớp. Và tiếng nói của Ngài êm như nước chảy. Giới định luật của Ngài tất cả đều hoàn mỹ. Ngài là một đại tướng trong Phật pháp thay Đức Như Lai chuyển pháp luân. Bây giờ hồi Thiên Đàng, Ngài nhập Niết Bàn thế gian mất con mắt sáng.” Từ thành thị cho đến thôn quê người người mang hương hoa đến cúng dường đông như kiến cỏ. Và rồi Thiên Đế Thích và các vị Thiên Đế khác và các tùy tùng mang xe cõi trời xuống rước Xá Lợi Phất lên Thiên Đàng. Xe của Tôn Giả Xá Lợi Phất đi trước đi sau có bộ thiên, bộ long, quỷ Thần, vua quan, dân chúng đến một nơi bình phẳng, cao sạch. Vua Đế Thích sai các quỷ dạ xoa ra bờ biển nơi tất cả các loại gỗ, lấy gỗ chiên đàn, gỗ ngưu đầu, v.v Hãy mang gỗ từ khắp nơi về chất thành đống rồi đổ dầu phóng hỏa để hỏa táng thân thể Ngài. Hỏa táng xong, mọi người bái tạ ra về. Thị giả của Ngày tên là Sa Di Quan Đề chờ cho lửa tắt, rồi thu xá lợi đặt trong tấm áo cà sa của mình đem về chốn Phật. Và bạch Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn, thầy con là Xá Lợi Phất đã nhập Niết Bàn. Đây là xá lợi và áo bạt của Ngài ấy.” Nghe thấy Sa Di Quan Đề bạch xông tôi cảm động quá. Tôi quỳ xuống bạch Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn! Tôn giả Xá Lợi Phất, sao Ngài ấy vào Niết Bàn sớm như vậy? Và Đức Phật cũng sắp nhập diệt. Chúng con biết nương cậy vào ai?” Nên Đức Phật nói: “Tuy Xá Lợi Phất nhập Niết Bàn song pháp thân của ông, giới, định, huệ, lực lượng giải thoát của ông, giải thoát tri kiến của ông đâu có nhập niết Bàn. Vì ông không nở thấy ta rời thế gian nên ông nhập Niết Bàn trước ta đấy thôi. Đó là lý do duy nhứt. Đây không phải là lần đầu tiên mà ông làm vậy. Chẳng những đời này ông nhập Niết Bàn trước ta. Đời quá khứ, ông cũng không đành lòng nhìn Ta ra đi, nên ông đi trước.” Nghe vậy Anan nói: “Bạch Đức Thế Tôn, đời quá khứ, Tôn giả Xá Lợi Phất chết trước Ngài sao? Việc đó thế nào cúi xin Phật nói cho chúng con và chúng sinh đời sau được rõ?” Cho nên Phật nói: “Anan, ông nên biết đời quá khứ đã lâu lắm cũng ở Châu Diêm Phù đề này, có một ông vua tên là Chiên Ba Đà La Tỳ, tiếng hoa dịch là Nguyệt Quang. Ông là một đại hoàng đế thống lãnh tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, sáu muôn ức bộ lạc và ông có hai muôn hậu phi. Tên bà thứ nhứt tên là Hoa Thị. Và vua có một vạn quan đại thần. Và ông quan lớn nhứt tên là Đại Nguyệt. Vua có 500 hoàng tử. Và hoàng tử đầu tiên là Hiền Thọ. Thành ấy ngang dọc đó 400 square miles. Thành làm bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê v. v... Và bốn mặt có bốn trăm hai mươi cửa. Đường xá thành phố trang nghiêm và nhà cửa trong thành phố đều rất đẹp, được sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ, rất thoải mái. Trong quốc gia đó, đó bốn con đường bằng bạc. Và rồi những con đường khác nữa, đường bằng vàng, cây cối bằng vàng. Nghe tựa như Thiên Đàng. Trong nước ấy có bốn hàng cây bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Những hồ ao trong thành phố đó được làm bằng bốn thể trân bão. Tất cả bồn ô và bờ hồ trong quốc gia cũng được bao quanh bởi tượng với đủ loại trân báo này. Và dưới nước, dưới đáy hồ, ao ngoài hoa trên mặc nước. Cát dưới lòng ao cũng làm bằng bốn thứ trân báo nói trên. Trong cung điện của nhà vua, chu vi bốn mươi dặm cũng làm bằng bốn loại đó. Vào thời đó, nước giầu dân mạnh, an vui sung sướng. Một hôm, vua ngồi trên báo điện, thốt nhiên nghĩ như vầy: Người ta ở trên đời, tôn vinh hay phú quý, thiên hạ kính nễ, muốn gì được nấy, cũng do quả báo, tích đức từ thiện đời trước đem lại. Bây giờ, họ gặt hái phần thưởng. Nhà vua nghĩ như vậy. Cũng ví như người nông phu, mùa xuân cất công cày bừa, gieo mạ cấy lúa. Tới mùa hạ mùa thu gặt hái được thóc gạo mang về ăn. Nếu mùa xuân, họ không cất công cày cấy trên cánh đồng của họ, dĩ nhiên mùa hạ, mùa thu không gặt hái thu hoạch được. Chính ta cũng thế. Đời trước tu phúc lành và làm việc tốt. Đời nầy hưởng quả tốt nầy. Nếu bây giờ ta không tiếp tục tu theo, đời sau lấy gì an hưởng? Sau khi ta dùng hết công đức này. Thì đời sau ta sẽ không còn lại gì nữa. Vua nghĩ vậy, rồi bảo các quan mở tất cả kho, đem tiền của, vàng bạc hoặc bất cứ gì, và thức ăn, khô, ngủ cốc đem bố thí cho tất cả thẩn dân. Và vua cũng ra sắc lệnh cho tám vạn bốn ngàn ông vua nhỏ cũng phải mở kho bố thí cho dân túng thiếu. Khi đó các ông vua nhỏ phải tuân theo mệnh lệnh. Thông báo cho toàn dân chúng biết. Cho nên ai đến đều nhận bất cứ gì họ muốn. Ngày phát chẵn, dân chúng kéo nhau đến kinh thành đông như kiến cỏ. Người mạnh cõng người yếu. Người trẻ chăm sóc người già. Người sáng dắt người mù. Ai nấy đều được nhà vua phân cấp tiền gạo, áo quần đầy đủ. Từ đó muôn dân được an vui sung sướng. Danh đức của vua lừng lẫy, tiếng khen đồn khắp bốn phương. Thời đó, có một ông vua tên là Tỳ Ma Từ Na, thấy dân chúng khắp nơi ca tụng và cảm phục vua Nguyệt Quang rất nhiều, ông đem lòng ganh ghét. Ganh tỵ đến nỗi ngày không thể ngủ, đêm không thể ăn. Ông vua nầy thầm nghĩ: nếu mà ta không dùng mưu để tiêu diệt được vua Nguyệt Quang, có lẽ tiếng tâm của ta sẽ không bao giờ vang khắp thiên hạ! Nghĩ xong ông gọi các thầy Bà La Môn trong nước đến hoàng cung. Ông cúng dường họ ba tháng với thức ăn ngon, quần áo đẹp, cung phụng mọi thứ tốt nhứt. Rồi thì, sau ba tháng hối lộ, ông nói: “Thưa quí tăng sĩ, tôi có một việc đang lo rất nhiều cả ngày lẫn đêm, quý tăng có cao kiến, hay có cách nào giải quyết hộ tôi vấn đề này hay không?” Một trong các thầy Bà La Môn thưa: “Tâu bệ hạ! Ngài có việc chi lo lắng, xin nói cho chúng tôi rõ, nếu giúp được chúng tôi xin hết sức.” Nhà vua nói: “Hiện nay vua Nguyệt quang được muôn phương mến phục, tôn kính như Trời, phúc đức lớn lao. Đây là vấn đề ta lo sợ sau này. Các tăng có thần phép gì hay có cách nào tiêu diệt ông ấy hộ không?” Các thầy Bà La Môn bẩm: “Tau bệ hạ, Vua Nguyệt Quang là người có đức lớn, một minh quân, thương dân như con. Người dân coi vua như cha mẹ. Chúng tôi nở đem tâm gì để mưu hại? Chúng tôi thà chịu chết, chứ không nở hại người hiền như thế. Nói xong ai nấy cúi lạy nhà vua xin rút lui. “ Ông vua ganh tỵ càng giận dữ, ông liền ra lệnh loan báo cho toàn quốc biết: “Nếu ai lấy được đầu vua Nguyệt Quang, ta sẽ gã con gái và chia nước này thành hai và cho cai trị một nửa.” Khi đó có một người dòng Bà La Môn tới gặp vua ganh tỵ và xin đi lấy đầu vua Nguyệt Quang. Nhà vua vui vẻ, cười nói: “Nếu khanh làm được việc này, ta sẽ giữ lời hứa, và định hôm nào đi cho ta biết.” Người này nói: “Xin khất bệ hạ 7 ngày nữa. Nói xong từ tạ ra về. Về nhà nhập thất 7 ngày. 7 ngày dài, y tập trung trì chú hộ thân. Qua bẩy ngày, y đến cung vua nói rằng y đã sẵn sàng để đi. Nhà vua cung cấp lương thực, tiền lộ phí, và những thứ cần thiết. Khi bước ra đi y cương quyết nói với ông vua ganh tỵ: “Xin bệ hạ chớ lo, tôi thể rằng nếu không lấy được đầu vua Nguyệt Quang, tôi quyết không trở về.” Rồi y lên đường. Lúc đó ngay sau khi dứt lời y đi tới nước của vua Nguyệt Quang. Lúc đó trong nước của vua Nguyệt Quang xuất hiện nhiều điềm dữ, như động đất, sấm sét trái mùa, sương mù cả ngày. Sao chổi xuất hiện, mưa đá. Các loại chim kêu rất thảm thiết trên hư không và chúng tự rỉa lông cánh, rồi rơi xuống đất và chết đầy mặt đất hết. Báo, chó sói tự lao mình xuống hố mà chết, hoặc kêu gào thảm khốc. Tất cả các ông vua nước nhỏ đều mộng thấy cảnh phướn vàng của nhà vua bị gãy, trống vàng bị thủng. Và rồi tễ tướng của nhà vua Đại Nguyệt mơ thấy quỷ lại cướp mũ vàng của vua mang đi. Mọi người đều rất lo lắng. Khi đó vị thần coi thành biết tên Bà La Môn nầy tên là Lao Độ Sai đến xin đầu vua. Nên khi vị thần nầy thấy tên Lao Độ Sai tới gần cổng thành liền hóa phép làm cho y mơ màng không biết lối vào. Y cứ đi lẩn quẩn bên ngoài thành không biết để đi vào thành. Nhưng một trong các Thiên Đế thấy vậy nên đi vào giấc mộng khi vua đang ngủ và bẩm với vua rằng: “Tâu bệ hạ, Ngài làm hạnh bố thí, hiện có người đến xin ngài bố thí và y đang chạy quanh bên ngoài thành không vào được.” Nhà vua thức dậy, ngạc nhiên gọi quan thừa tướng vào phán: “Ông ra ngoài cổng thành cấm không được ai ngăn giữ người nào vào xin.” Thừa tướng Đại Nguyệt khi đó ra cổng thành nhìn ngơ ngác không thấy ai cả. Khi đó ông thần coi thành hiện lên nói rằng: “Thưa thừa tướng! Hiện có một người dòng Bà La Môn ở nước khác tới đây muốn xin đầu vua thế nên tôi không cho vào.” Thế nên thừa tướng nói: “Trời ơi! Nếu quả như vậy sẽ là bất hạnh khủng khiếp.” Nhưng vua đã ra lệnh nên ông thần cho tên Bà La Môn này vào thành. Thừa tướng Đại Nguyệt thầm nghĩ rằng: “Nếu tên này xin đẩu vua thì ta sẽ làm 500 cai đầu bằng thất bảo bằng bảy loại châu báu.” Cho nên ông ra ngoài đặt rất nhiều thợ thủ công làm kim hoàn làm 500 cái đầu bằng thất bảo. Vào lúc đó Tên bà La Môn nầy bỗng nhiên tỉnh mộng. Rồi y vào cổng thành, Y bước vào cung vừa to tiếng, làm như hoàng cung của y vậy rất thô lỗ nói: “Tôi ở nơi xa tới đây vì tôi biết nhà vua làm hạnh bố thí ai muốn xin gì cũng cho, tôi cũng tới đây xin một việc. Nhưng việc tôi xin này rất khó.” Nhà vua thấy người này có vẻ ăn nói thô lỗ. Nhà vua thầm nghĩ: Tên nầy muốn thử thách ta đây. Nhà vua có vẻ mừng thầm! Vua tự đứng dậy ra đón chào và lịch sự hỏi thăm từ đâu tới và đi đường có mệt mỏi không, có ăn uống gì chưa? Rồi nhà vua hỏi: “Thứ mà nhà ngươi muốn xin là gì? Xin cứ nói. Dù cho khó đến đâu, nếu được, ta sẽ biếu ngươi.” Lao Độ Sai, người Bà La Môn nói: “Tất cả những gì Ngài bố thí như thức ăn, tiền bạc, quần áo, thuốc hay mọi thứ, chắc chắn sẽ mang lại cho Ngài công đức rất lớn. Nhưng công đức này không là gì hết so với công đức nhận được từ việc Ngài bố thí một phần thân thể của Ngài. Vậy tôi không muốn gì khác, tôi chỉ muốn xin đầu nhà vua. Nếu được xin cho tôi biết.” Nhà vua nghiêm túc và trịnh trọng nói: “Được, ta vui lòng và biếu đầu ta cho ngươi.” Người Bà La Môn hỏi: “Bây giờ hay khi nào?” Nhà vua trả lời: “Xin khất đại đức bẩy ngày nữa. Sau bẩy ngày, ta sẽ biếu đầu ta cho ngươi.” Vào lúc đó, thừa tướng Đại Nguyệt đem năm trăm cái đầu tạc bằng châu báu đến, đi vào và đấm tay vào ngực nói với người Bà La Môn: “Đầu nhà vua chỉ là thịt và máu hợp thành. Không có gì tốt. Nó sẽ bốc mùi. Không có gì thật sự có giá trị. Nó đồ bẩn. Ta cho ngươi 500 cái đầu thất bảo đây. Khi mang chúng về nước, đại đức và gia đình sẽ sung sướng suốt đời.” Người Bà La Môn trả lời: “Thưa ông tôi không cần những cái đầu thất bảo này. Tôi chỉ xin đầu của nhà vua thôi. Thừa tướng thấy người này quá ương ngạnh và ác độc như thế. Ông không thể làm gì hơn, nên ông hạ giọng. Ông cầu xin đổi ý. Đừng lấy đầu vua và thay vào đó nhận lấy 500 cái đầu thất bảo. Ổng năn nỉ rất ngọt ngào, tự hạ mình xuống. Nhưng tên Lao Độ Sai nhất quyết đòi cho được đầu vua. Thừa tướng quá thất vọng và phẫn uất nên chết ngay tại đó vì nhồi máu cơ tim. Khi đó nhà vua và các quan triều đình rất thương tiếc và kinh hoàng. Mọi người đều sa nước mắc. Họ thu xếp làm lễ an táng cho ông. Xong việc an táng, nhà vua cho thông báo cả xứ biết: “Thần dân nên biết Vua Nguyệt Quang, vì tinh thần làm hạnh bố thí rất sâu đậm trước đây đã phân phát cho các thần dân thiếu thốn những thứ họ cần. Bây giờ có người Bà La Môn tên Lao Độ Sai ở xứ khác đến để xin đầu vua. Nên nhà vua quyết định bố thí đầu để thực hiện đại nguyện của ngài. Vậy có thần dân nào muốn đến ngày hôm đó để nói lời từ biệt với nhà vua hãy chứng kiến việc bố thí này thì có thể đến.” Được tin như vậy, tất cả dân chúng trong nước ai ai cũng thương tiếc. Tám vạn bốn ngàn nước nhỏ cũng rất buồn bực. Nên tất cả đều tụ họp tại hoàng cung của nhà vua. Họ đều quỳ xuống, thưa với nhà vua rằng: “Tâu bệ hạ, toàn thể châu diêm phù này, thế giới này đều nương tựa vào ân điển, phước lành, công đức, và đại hạnh của ngài mới được hạnh phúc, mãn túc và an hưởng thái bình. Do đó chúng tôi mới có mùa màng tốt, mưa thuận gió hòa. Tại sao chỉ vì một người mà ngài hy sinh như thế, không quan tâm tới muôn dân?” Nên 10.000 quan đại thần đồng thanh nhất trí tâu vua: “Xin ngài ngừng việc bố thí đầu lại. Chúng thần chưa từng nghe yêu cầu nào nực cười như vậy. Bây giờ ngài nghe lời một trong những tên đáng ghét, một gã điên. Một tên ngu ngốc và điên rồ khiến chúng thần rất hoang mang và lo lắng. Xin đừng nghe y.” Và rồi hai tỷ, hai triệu hậu phi cùng 500 hoàng tử đều đến. Và họ gieo mình xuống đất khóc lóc, và cầu xin nhà vua ngửng bố thí đầu. Nhưng nhà vua vẫn an nhiên điềm tĩnh, an ủi họ, và nói: “Tất cả vương hầu, hoàng hậu, và hoàng tử hãy bình tĩnh và lắng nghe ta nói: Con người từ thời xa xưa bởi vì ái dục mà phải luôn luôn lặn ngụp trong vòng sinh tử mãi mãi. Rất khó tìm được người nào, ta chưa từng thấy ai có thể từ bỏ việc yêu bản thân mình. Ta xét thấy rằng từ vô số ức kiếp đến nay, ta sống rồi chết rồi tái sinh, và lại chết, hết kiếp này đến kiếp khác. Ta không nhớ hay đếm được đã sống bao nhiêu kiếp. Có lúc còn đọa địa ngục nữa. Hiện giờ, thân ta đây không có gì nhiều, chỉ toàn nhơ bẩn bên trong. Một ngày kia, thân thể này cũng sẽ bị thối rửa như những người khác. Và bây giờ nếu ta bỏ cái đầu người để đổi lấy pháp thân, sau đó mãi mãi hạnh phúc và an lạc. Vậy các khanh nên nhìn xa, trông rộng vào tương lai. Không nên chỉ chú tâm vào đối tượng nhỏ bé. Nếu ta chỉ hy sinh một thứ nhỏ bé, để được thành Phật sau này. Khi ta thành Phật rồi ta sẽ cứu tất cả các khanh. Các khanh sẽ được giải thoát mãi mãi và sống trong hạnh phúc. Sao còn cố ngăn cản ý định cao thượng của ta?” Mọi người nghe Phật giảng dạy cho họ như vậy. Tất cả đều yên lặng, không dám nói gì nữa. Nhà vua thấy mọi người đã lắng xuống, nên quay sang bảo Lao Độ Sai. “Bây giờ ngươi có thể lấy đầu ta.” Lao Độ Sai nói: “Tâu bệ hạ, hiện tôi có một mình ở đây, lực yếu thế cô, chung quanh vua, quan quân, dân chúng nhiều. Nếu nhà vua thật sự muốn bố thí đầu cho tôi, xin ra hậu viên, nơi vắng vẻ, chỉ riêng một mình tôi với nhà vua mà thôi, thì tôi mới dám chặt đầu ngài.” Nhà vua lúc đó thông báo với mọi người: “Nếu tất cả các khanh có thương ta xin chớ làm hại đến Lao Độ Sai.” Nói xong cùng người Bà La Môn ra hậu viên, phía sau vườn thượng uyển. Lao Độ Sai nói: “Sức vua hùng tráng khỏe mạnh. Khi tôi cắt đầu ngài, có lẽ ngài sẽ thấy đau đớn, rồi lúc đó có thể hối tiếc, và hại tôi thì sao, hay ngài sẽ chạy trốn thì biết làm sao? Vậy nhà vua hãy lấy dây buộc cổ treo lên để tôi cắt cho dễ.” Nhà vua liền ngồi dưới gốc cây đại thụ lấy tóc buộc vào cây và nói: “Được rồi, ngươi cắt đầu ta xong, rồi đặt lên bàn tay ta, để ta có thể long trọng dâng biếu cho ngươi.” Sau đó nhà vua nguyện rằng: “Kính lạy các vị thánh và hiền nhân, thập phương tam thế, tôi xin chân thành bố thí đầu tôi. Nguyện dùng công đức này để cầu quả vị Phật trong tương lai. Tôi không muốn dùng công đức nầy cầu làm Phạm vương, Ma vương để vui hưởng trong ba cõi. Tôi chỉ muốn trở thành Phật, để trong tương lai, khi đạt được quả vị Phật, tôi có thể độ chúng sinh thoát vòng đau khổ. Đây là những gì tôi ước muốn. Rồi Lao Độ Sai vừa giơ dao lên, muốn chém đầu vua, thì ở đó có thần cây chỉ ngón tay vào đầu của Lao Độ Sai. Làm cho y rụng rời chân tay. Ý vất dao xuống đất. Y không làm được gì hết. Y còn mê mệt, ngã lăn trên mặt đất. Rồi nhà vua ngửa mặt bảo thần cây rằng: “Thụ thần ông nên biết từ thời xa xưa, dưới gốc cây này ta đã bố thí 999 cái đầu. Hôm nay ta bố thí một cái đầu nữa, là đủ 1000 cái. Khi đó nguyện bố thí của ta sẽ được hoàn tất. Đừng cản trở nguyện bố thí của ta.” Nghe xong, Thụ thần tha Lao Độ Sai ra, nhà vua nói: “Đừng quay y vòng vòng trên mặt đất nữa.” Sau đó, Lao Độ Sai đứng dậy múa dao với chỉ một nhát chém đứt đầu vua, và đặt nó trong tay vua. Nhà vua tâm thức vẫn còn tỉnh táo, kính cẩn dâng đầu lên biếu. Ngay giờ phút đó, trời đất đều chấn động. Các thiên cùng rung lắc dữ dội, nghiên ngã tứ phía. Các Thiên Đế và thiên nhân đều giật mình. Ho thậm chí không biết điều gì đang xảy ra. Họ nhìn xuống nhân giang thì họ thấy một vị bồ tát bố thí đầu của ngài vì lợi ích của mỗi chúng sinh. Cho nên tất cả họ đều vô cùng xúc động. Họ bay xuống từ thiên đàng khóc như mưa. Nhưng họ cũng tán thán rằng: Bồ tát, ngài làm hạnh xuất tục phi phàm. Chưa từng có ai dám làm hạnh bố thí như ngài. Chúng tôi đều tôn kính và thán phục bởi vì tình thương vô điều kiện của ngài. Ông vua ganh tỵ Tỳ Ma Tư Na sau khi hay tin Lao Độ Sai đã lấy được đầu vua Nguyệt Quang, ông vui mừng khôn xiết nên bị cao huyết áp ngã xuống chết tức thì. Lao Độ Sai mang đầu vua về nước. Tất cả quan lại, triều đình nhân công và thần dân khi thấy cái đầu đó họ ngã lăn xuống đất khóc than thương tâm. Họ quá tức giận, đến nỗi họ cũng bị nhồi máu cơ tim mà chết. Một số đứng sững như bức tượng không còn biết gì hết. Hoàng hậu và những quý phi khác bức tóc ra từng mảnh, có người xé quần áo, gào thét và lăn lộn trên mặt đất. Lao Độ Sai mang đầu vua đi trên đường về đất nước. Đi được mấy hôm, thấy đầu hôi thối ghê tởm, y vứt đầu xuống đất rồi đạp lên trên mà đi. Dân chúng dọc đường thấy y tất cả họ đều la mắng y, chưởi rủa tên này và nói rằng: “Y là tên bất lương độc ác. Nếu không dùng được, thì ngươi đi xin làm chi?” Ai cũng nguyền rủa y. Và rồi họ bảo nhau, cùng nhau ngăn cấm không cho ai được cho y ăn uống gì hết. Y quá đói, y đi mệt mỏi và rồi y gặp một người quen, y hỏi về vua Tỳ Ma Tư Na. Họ nói rằng Nhà vua mừng quá nên nhồi máu cơ tim chết rồi. Lao Độ Sai, nghe thấy vậy quá thất vọng, nên cũng buồn quá chết luôn. Cả hai, ông vua ganh tỵ và Lao Độ Sai bị đọa địa ngục sâu nhứt. Còn những người chết vì thương nhà vua đều được lên thiên đàng. Nói tới đây Phật nhắc nhở Anan rằng: Anan ông nên biết, vua Nguyệt Quang thuở đó chính là một trong những tiền thân của ta. Vua Tỳ Ma Tư Na, nhà vua ganh tỵ đó giờ là ma vương. Lao Độ Sai này là ông Diệu Đất và thần cây nay là Mục Kiền Liên. Thừa tướng Đại Nguyệt, nay là Xá Lợi Phất. Thời bấy giờ, ông không nở thấy ta chết, nên ông chết trước. Ngày nay cũng vậy, ông không nở thấy ta chết nên ông đi trước đó. Thế thôi. Tôi và đại chúng trong pháp hội nghe Phật giảng xong, thương Phật vô vàng, và cảm động tình thương của Xá Lợi Phất. Tất cả tán thán đức hạnh của ông. Tất cả mọi người trở nên trung nghĩa hơn, nên nhiều người được cảnh giới tâm linh cao hơn. Một số phát tâm đạt quả vị Phật trong tương lai. Mọi người lễ tạ và lui ra.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |