(Thánh James nói: “Hãy tuân phục Thượng Đế. Hãy chống quỷ dữ, và nó sẽ chạy xa nhà ngươi. Hãy tìm đến gần Thượng Đế, và Ngài sẽ đến gần nhà ngươi.”) Ngày đó, một người thánh thiện đi bộ qua khu chợ trời, và ông gặp người bán chà là. Đầu óc của ông dục ông nên mua một số trái chà là ngọt lịm. Là người tu hành, ông cố gắng viện lý lẽ với đầu óc, nhưng vì nó là nô lệ của ngũ căn, đầu óc không nghe lời ông. Suốt đêm ông mơ tưởng về những trái chà là và không thể nào thiền được. Người tu hành này bị đầu óc đánh bại. Nên ông đi vào rừng sáng sớm hôm sau và thu nhặt một bó củi, nặng tới mức tối đa cho ông. Ông nghiêm khắc nói với cái đầu: “Nếu nhà ngươi muốn ăn chà là, thì ngươi phải vác gánh nặng này.” Ông đi được vài bước là ngã quỵ. Khó khăn lắm mới vác bó củi nặng lên vai, ông tiếp tục bước đi nữa, nhưng rồi lại té nữa, và đứng lên đi tiếp, cứ thế lặp đi lặp lại khổ nạn đó. Nhưng ông liên tục nói với đầu óc: “Nhà ngươi muốn ăn chà là mà.” Với vô vàn khó khăn, ông đi bộ khoảng hai dặm rưỡi xuống phố, bán củi, mua chà là với số tiền bán được, và trở về rừng. Ông đặt những trái chà là trước mặt mình, và nói với đầu ông: “Hôm nay nhà ngươi đòi ăn chà là, ngày mai nhà ngươi sẽ đòi ăn thức ăn ngon, mặc quần áo đẹp, và rồi, đòi lấy vợ. Khi vợ đến, con cái sẽ theo sau, và dĩ nhiên theo thời gian, ta sẽ trở thành nô lệ cho nhà ngươi.” Ngay lúc đó, một khách du hành đi ngang qua đó. Người thánh thiện gọi ông khách lạ đó và nói: “Này anh bạn, xin lấy những trái chà là này mà ăn dùm tôi.” Nếu chống lại được những ham muốn của đầu óc, thì chắc chắn mình sẽ sống một đời tốt đẹp nhất. Còn nếu nghe theo mệnh lệnh của đầu óc, thì mình sẽ tiếp tục làm nô lệ cho nó. Chúng ta phải sống theo ý chỉ của Minh Sư. Nếu Minh Sư bảo mình chăn cỏ, thì việc đó cũng đủ tốt cho mình rồi.
0 Comments
(“Vì ngài luôn luôn câu thông với Thượng Đế, nên chỉ có vị Thánh mới có thể hướng dẫn thành công và bảo vệ đệ tử tránh những cạm bẫy trên đường tu hành” – trích từ sách Ánh Rạng Đông.) Khwaja Hafiz là vị Thánh vĩ đại ở Ba Tư, một vị tiên tri có trí huệ tâm linh cao nhất. Trong một trường hợp, Ngài nói: “Nếu Minh Sư của con ra lệnh nhuộm tấm thảm ngồi thiền vào trong rượu vang, thì con cũng cứ nên làm như vậy.” Khi Ngài tuyên bố những lời nói này, thì có một sự tranh cãi sôi nổi, bởi vì trước hết, điều đó không thích hợp với Kinh Thánh Kôran. Thánh Kinh này cấm uống rượu vang, vì đó là giới luật của tất cả tín đồ Hồi Giáo tốt. Cùng lúc, tấm thảm ngồi thiền của tín đồ Hồi Giáo được xem là sở hữu cực kỳ linh thiêng và thánh thiện. Do đó, nhúng tấm thảm ngồi thiền vào trong rượu vang là một hành động nghịch đạo mà tuyệt đối không thể nghĩ bàn. Những gì Hafiz viết được tường trình lên một viên chánh thẩm, và Hafiz được lệnh lên gặp viên này. Quan chánh thẩm nói: “Nhà ngươi phạm tội nói láo lếu. Vậy nhà ngươi hãy lấy lại lời nói đó, hay là chứng minh câu nói của ngươi đi.” Một quan tòa khác hỏi: “Và các lời nói đó nghĩa là gì? Vì những lời nói đó không phù hợp với Thánh Kinh Kôran và hết sức vô lý.” Hafiz vặn lại: “Các ông có thấy ngọn đồi kia không? Có vị thánh nhân Hồi Giáo ngồi trên đỉnh đồi. Các ông hãy lên đó gặp vị thánh, và ngài sẽ giải thích ý nghĩa của những lời tôi nói.” Viên quan tòa leo lên ngọn đồi và hỏi vị thánh nhân Hồi Giáo: “Xin ngài giải thích cho chúng tôi biết về ý nghĩa của những lời mà Hafiz đã nói?” Vị thánh nhân Hồi Giáo mỉm cười đáp: “Hỡi viên quan tòa ơi, xin ông hãy đi đến phố láng giềng, tìm cô kỹ nữ sống ở đó, và cô ta sẽ giải thích ý nghĩa của những lời nói đó cho ông nghe.” Câu trả lời này làm ông quan tòa cực kỳ khó chịu, vì ông không thể thấy rằng một cô kỹ nữ lại có thể trả lời câu hỏi của ông. Nhưng dẫu sao, vì ông cảm thấy có bổn phận tìm cho ra lý lẽ của các lời nói đó, nên ông uể oải lê bước đi đến thôn xóm láng giềng, và tìm nhà của cô kỹ nữ. Khi ông đến nơi, thì cô kỹ nữ vắng nhà, và người quản gia, tin rằng ông là khách hàng sộp, nên yêu cầu một cô gái nhỏ tuổi khác, thay thế ra hầu ông. Đến gần cô gái nhỏ, người quản gia bảo cô bé rằng: “Vì chúng ta trông nom và nuôi dưỡng con hết lòng, vậy bây giờ con có bổn phận phải gia nhập vào nghề mà chúng ta đã sửa soạn cho con.” Sau đó, cô bé được dẫn vào phòng mà ông quan tòa đang ngồi. Cô bé quá đau khổ và lệ rơi đẫm hai má. Đương nhiên, viên quan tòa xem hành động đó quả thật không bình thường. Ông hỏi: “Tại sao cháu lại khóc? Cháu không sống trong nhà này hả?” Cô bé trả lời: “Thưa ngài, con là một trong những người bất hạnh nhất thế gian. Cho tới ngày hôm nay, con từng sống một đời trong sạch và đạo đức, và đây là lần đầu tiên con bị ép làm nghề xấu xa này.” “Thế nhà cháu ở đâu? Cháu có nhớ nơi nào không, và cha mẹ cháu là ai?” Cô bé trả lời: “Khi con còn nhỏ, một số tên cướp xông vào ăn cắp một trong những làng gần nơi con sống. Khi con chạy nạn, thì một tên cướp bắt được con. Và tên đó đem con đến làng này và bán con cho chốn lầu xanh.” Khi cô bé nói cho viên quan tòa biết tên làng đó, ông ta nhận ra chính là làng của ông; và khi hỏi tên cha mẹ, thì cô ta chính là con gái của ông, mà đã bị mất tích khi còn nhỏ! Viên quan tòa trở về gặp lại vị thánh nhân Hồi giáo và nói: “Trước tiên, tôi nghĩ là ngài chỉ gửi tôi đi gặp cô kỹ nữ. Có lẽ là một chuyện đùa cợt, ai biết được? Nhưng chuyến viếng của tôi trở thành một phương cách để tôi tìm lại được cô con gái của tôi mà đã từng mất tích.” Vị thánh nhân Hồi Giáo một lần nữa mỉm cười nói: “Bây giờ, hỡi ông quan tòa ơi, xin hãy trở lại gặp Khwaja Hafiz, và yêu cầu Ngài nói cho ông nghe câu kế tiếp đi.” Để trả lời cho lời yêu cầu của ông quan tòa, Khwaja Hafiz nói: “Sự hiểu biết thông thạo chân chính là không nên vô minh về những phương cách và bí ẩn của thế giới nội tại.” (“Chúng ta có thể thấy những điều vi tế chỉ khi nào chính mình trở thành vi tế. Thượng Đế là vô cùng vi tế” – trích từ quyển “Triết lý của các vị Minh Sư.”) Ngày xưa có một thiên nga bay từ hồ này sang hồ khác. Cần nghỉ ngơi, thiên nga đáp xuống bên bờ một cái giếng. Giếng đó là nhà của một con nhái. Khi con nhái thấy thiên nga hạ cánh đáp xuống, nhái ta hiếu kỳ hỏi: “Này anh, anh là ai và anh từ đâu đến?” “Ta là chim sống bên các bờ hồ và ăn ngọc trai.” Nhái ta, vì chưa bao giờ phiêu lưu ra khỏi giếng, bèn hỏi: “Hồ lớn cỡ nào?” Thiên nga trả lời: “Hồ lớn lắm.” Con nhái bơi ngược một chút và hỏi: “Lớn cỡ này chăng?” Thiên nga đáp: “Không, lớn hơn nhiều.” Con nhái bèn bơi một vòng tròn nhỏ và hỏi: “Lớn cỡ này?” Thiên nga trả lời: “Không, lớn hơn rất nhiều.” Con nhái bơi quanh vòng kính của cái giếng và nói: “Hồ không thể lớn hơn như vầy, phải không?” Thiên nga trả lời: “Hồ lớn hơn cái giếng nhiều lắm.” Nhái ta nhạo báng: “Quả là đồ chim điên. Rõ ràng nhà ngươi không biết mình nói cái gì hết.” Và nhái ta lặn xuống nước. Truyện này muốn nói là chúng ta không sẵn sàng để tin bất cứ gì vượt ngoài tầm hiểu biết của mình. (Maulana Rum nói: “Khi ngã mạn ngừng hiện hữu, thì ngươi sẽ tìm thấy Thượng Đế yêu quý của ngươi. Cho nên, hỡi con người khôn ngoan, hãy ráng quên đi ngã chấp, và đi tìm sự khiêm tốn.”) Trong khi nghỉ ngơi vào giữa trưa một ngày mùa hè nóng nực, vua nước Mughal, là Shah Jahan, đột nhiên khát nước quá. Ông vỗ tay ra hiệu cho người hầu mang nước đến cho ông, nhưng không có ai bên cạnh ông cả. Đứng dậy khỏi ghế nằm, ông nhìn vào bình nước mà ông luôn luôn giữ ở trong phòng. Nhưng bình cạn queo. Nhà vua tự nhủ: “Phải có nước uống ngay lập tức. Và bây giờ chỉ có cách duy nhất là ta phải ra giếng và tự kéo nước lên một mình.” Rời phòng trong cung điện, ông đi ra giếng và kéo lên một gầu đầy nước mát lạnh. Nhưng khi ông nghiêng mình để kéo gầu nước về phía mình, thì cán cần kéo đập vào trán của ông. Vị vua vĩ đại này đau quá la lên, nhưng rồi, bình tĩnh trở lại, ông cúi đầu trước Thượng Đế và nói: “Hỡi Thượng Đế yêu quý, con cám ơn Ngài từ tận đáy tim con, đã cho con thể nghiệm này. Con thật là một người khờ dại đến nỗi không biết cách lấy nước từ giếng. Thế mà qua lòng từ bi vô hạn của Ngài, Ngài lại cho con làm vua.” Ngay dù trong đau đớn, nhà vua vẫn nhớ đến Thượng Đế và biết ơn Ngài. (Thánh Matthew nói: “Cho nên, ta nói cho ngươi biết, không cần nghĩ gì cho đời mình, về những gì ngươi sẽ ăn, hoặc những gì ngươi sẽ uống; cũng không cần nghĩ gì về những gì ngươi sẽ mặc vào thân thể mình.”) Khi Kabir Sahib ở tại Kashi và khởi sự giảng pháp, những giáo sĩ cuồng tín của Ấn Độ giáo và Hồi giáo không bao lâu lên tiếng chống lại Ngài, vì giáo lý của Ngài khác với họ. Kabir nói rằng con người nên khám phá Thượng Đế bên trong họ, thay vì tham gia vào những tục lệ và lễ nghi để tôn thờ những hình tượng trong chùa chiền. Nhưng sự chống đối của các giáo sĩ đối với Kabir thì rất ít hoặc không có ảnh hưởng chi hết. Kabir tiếp tục giảng dạy bất cứ ai và tất cả những người tầm đạo đến gặp Ngài, và con số người đi theo Ngài tiếp tục tăng gia và danh tiếng của Ngài lan rộng khắp nơi. Những giáo sĩ, thấy tất cả nỗ lực của họ không hiệu quả, mới nghĩ ra một mưu kế láu cá. Trong khắp thành phố Kashi và thậm chí ngoài vòng biên giới của Kashi, họ gửi đi những thiệp mời, nói rằng Kabir rất giàu, và sẽ tổ chức buổi nghi lễ tôn giáo vào một ngày nào đó, và sẽ cung cấp thức ăn. Ai muốn tới dự đều được hoan nghênh. Vào ngày nghi lễ bắt đầu, hàng ngàn người thuộc đủ mọi thành phần và giai cấp kéo nhau đến ngôi nhà khiêm tốn của Kabir. Là một người dệt vải nghèo, Kabir không có tiền hoặc thực phẩm để mời một đám đông người như vậy; cho nên để tránh những chuyện không thoải mái, Ngài đi ra khỏi vòng thị xã và ngồi thiền dưới một gốc cây đầy bóng mát. Nhưng ngay khi Ngài ra khỏi nhà, thì chính Thượng Đế đến và hóa thân thành Kabir, sắp xếp một bữa tiệc khổng lồ thịnh soạn và thết đãi mọi người đến dự. Tất cả họ về nhà và đều ca ngợi: “Kabir hay quá, Kabir giỏi quá!” Tối hôm đó, khi ánh sáng ban ngày biến dạng, Kabir trở về nhà và được kể về những gì đã xảy ra. Lòng tràn đầy biết ơn và vui mừng, Ngài khóc lên: “Không phải tôi đã làm, và tôi cũng không thể làm được gì, và thân thể này cũng không có khả năng làm được gì hết. Bất cứ việc gì đã làm, đều được làm bởi Thượng Đế; qua lòng đại từ bi của Ngài, Ngài lại tặng công lao đó cho Kabir.” (Minh Sư Teg Bahadur nói: “Những ai tôn sùng Thượng Đế suốt ngày đêm, biết rằng họ chính là hình tướng của Ngài − giữa Thượng Đế và kẻ hầu hạ Ngài, không có ngăn cách. Hãy nhận lời nói của Nanak là thật.”)
Tulsi Sahib sinh ra đời là thái tử của hoàng gia Pune và Sitara, ở Maharashtra. Khi còn là một thanh niên, ông biết rằng cha ông đang dự tính từ bỏ ngai vàng, và trọng trách cai quản vương quốc sẽ rơi trên đôi vai của ông. Nhưng bấy giờ Tulsi Sahib lại yêu thương Thượng Đế vô vàn và cảm thấy ông cần phải sống một cuộc đời tu hành, chỉ bầu bạn với Thượng Đế mà thôi, cho nên ông bỏ trốn cung điện vào một đêm khuya. Không ai biết đến cuộc đời của ông sau khi ông bỏ trốn cung điện, cho tới khi ông sống ở Hathras, một thị trấn nhỏ ở Uttar Pradesh, và nơi đó ông khởi sự giảng về cách sống của các vị Thánh Nhân. Một ngày, có phụ nữ đến gặp Tulsi Sahib để diễn đạt sự hoang mang của cô về câu nói trong tác phẩm nổi tiếng của ông, quyển Ghat Ramayan: “Ta là vô hình tướng, tuy nhiên lại xuất hiện có hình tướng.” Cô ta nói: “Ngài ở đó, đang đứng trước mặt con. Con không hiểu tại sao Ngài lại cũng có thể vô hình tướng được.” Tulsi Sahib trả lời: “Được, nếu cô nghĩ là cô có lực lượng, thì tôi đề nghị cô hãy cố ráng nắm lấy tôi cho bằng được đi.” Người phụ nữ tiến đến gần ông, nhưng bất kể cô làm gì đi nữa, cũng không thể nắm được thân thể của ông. Tulsi Sahib nói với cô: “Hỡi kẻ nô lệ của ảo ảnh, ngươi biết được gì về một Thánh Nhân?” (Paltu Sahib nói: “Chỉ có những ai tìm được Chân Sư mới có thể thấy ánh sáng nội tại.”) Dadu Dayal là vị Thánh hoàn hảo và sinh trưởng là người Hồi giáo. Một lần, có hai nhà học giả quyết định đi đến nghe Ngài giảng pháp và sẽ xin Ngài làm Minh Sư của họ. Khi họ đến nhà tranh của Ngài, họ thấy một người đầu trọc đi đến trước mặt họ. Thấy người đầu trọc là điềm xấu cho họ, nên họ tìm cách trừ khử ảnh hưởng đó. Để hóa giải điềm tà, họ gõ lên đầu người đó như là gõ cửa vậy, và hỏi ông ta: “Dadu Dayal sống ở đâu?” Ông đó chỉ tay nói: “Ở nơi đó.” Khi họ đến nhà tranh của Dadu, họ mới biết là Ngài đi vắng. Họ đợi Ngài trở về. Khi Dadu trở về, hai vị học giả thấy rằng Ngài chính là người trọc đầu nọ. Họ bắt đầu run sợ, nhưng Dadu mỉm cười nói: “Người ta gõ vào bình đất rẻ tiền để xem nó có bể không, trước khi họ mua. Quý vị đi tìm Minh Sư. Để thử ông ta, quý vị phải gõ ông ấy cho tới khi mãn nguyện rồi mới nhận ông ta chứ.” Dadu Sahib, nổi tiếng khắp Ấn Độ là vị khoan dung, đúng là một vị Thánh trầm tĩnh vô vàn! Điều cần thiết tuyệt đối là phải nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi nhận vị Minh Sư, bởi vì nếu không có lòng tin tuyệt đối vào Minh Sư, chúng ta không thể tu hành tiến bộ được. (Minh Sư Amardas nói: “Tội lỗi của đời đời kiếp kiếp dính vào đầu óc này, biến nó thành tuyệt đối nhơ nhớp và đen bẩn. Cũng như ngươi rửa khăn lau dầu mỡ với nước hàng trăm lần, nhưng nó sẽ không bao giờ sạch.”) Ngày xưa có một thánh nhân được gọi là Đạo sĩ Parashar, tu tập du già suốt đời ông, và đạt được khá nhiều lực lượng. Ông trên đường trở về quê nhà sau khi tu hành khổ hạnh nhiều năm trong rừng, và đến một dòng sông. Ông hỏi người lái đò hãy đưa ông sang sông. Người lái đò trả lời: “Chúng tôi đang ăn sáng. Ngay sau khi ăn xong, chúng tôi sẽ đưa ông sang sông.” Ông đạo sĩ khăng khăng nói: “Vậy thì trời sẽ quá nóng đi. Hãy chở ta sang sông ngay lập tức, nếu không ta sẽ nguyền rủa nhà ngươi đấy.” Con gái ông lái đò thương hại ông đạo sĩ. Cô ta cầm lấy mái chèo và đẩy thuyền ra khỏi bờ, rồi nói: “Thưa cha, con sẽ chèo ông ta qua sông.” Đạo sĩ Parashar suốt đời ở trong rừng và chưa bao giờ để ý đến phụ nữ. Nhưng trước vẻ đẹp của cô con gái ông lái đò, ông ta mất tự chủ. Ông nói với cô đó rằng ông muốn cô ta. Cô gái trả lời: “Chúng tôi là dân đánh cá. Ông sẽ không thích mùi tanh từ mồm của tôi đâu.” Ông đạo sĩ bèn làm phép: “Cô bây giờ là hiện thân của nước hoa thơm nhất.” Ngay lập tức, mùi thơm từ miệng cô gái tỏa xa ra nhiều dặm. Nhưng cô gái cảnh cáo: “Thần thái dương đang quan sát chúng ta. Thần sẽ chứng giám việc làm của chúng ta.” Ông đạo sĩ bèn lấy tay vọc nước và vung nước lên không khí, làm thành một đám sương mù chung quanh họ. Cô gái bấy giờ la lên: “Xem kìa, Thủy tinh đang quan sát chúng ta đấy!” Không nao núng, ông đạo sĩ ném vài hạt cát xuống sông và ra lệnh: “Biến thành cát,” và tất cả nước sông biến thành dòng cát. Thấy chăng, một đạo sĩ thần thông quảng đại, có thể làm được nhiều phép lạ, nhưng lại không thể kiềm chế được đầu óc, mặc dù tu hành cực kỳ khổ hạnh bao nhiêu năm dài. Không có Minh Sư hướng dẫn mình ra khỏi đẳng cấp của đầu óc, thì mình sẽ phung phí tất cả lực lượng mà mình cố công cực nhọc vô cùng để đạt được. (Lời vàng ngọc: “Từ vị Minh Sư, hãy cầu xin chỉ có Minh Sư thôi, vì khi Ngài ban cho ngươi điều đó, ngươi sẽ đạt được tất cả từ Ngài.”) Sau khi sống một số năm làm đệ tử dưới chân Kabir, và nhận được gia trì của Minh Sư, Ibrahim Adham rời Kabir và trở về nước Bokhara, những không còn là vua nữa. Một ngày, ông ngồi bên bờ Sông Tigris (Dajla) và khâu quần áo với mũi kim nhỏ và sợi chỉ, thì quan tể tướng của ông đi săn nhìn thấy ông. Quan tể tướng đang đi săn trở về, và mặc dù không gặp nhà vua qua 12 năm, và nhà vua dù mặc quần áo tả tơi, quan tể tướng vẫn nhận ra vua, nhưng vẫn hỏi cho chắc có phải ông ta là Ibrahim Adham không. Nhà vua trả lời đúng. Người đi săn bèn quỳ xuống tâu: “Bẩm hoàng thượng, hạ thần là quan tể tướng của bệ hạ đây. Trong khi bệ hạ vắng mặt lâu dài, hạ thần đã huấn luyện con cái của Ngài về chiến pháp rất tường tận, và niềm ao ước duy nhất của hạ thần bây giờ là Ngài hãy lên ngôi trở lại.” Viên tể tướng thề sẽ phục vụ nhà vua tận tình. Sau khi nghe lời nói này, nhà vua ném mũi kim đang khâu xuống dòng sông đang chảy xiết và hỏi viên tể tướng: “Khanh có thể lấy lại mũi kim đó cho ta không?” Viên tể tướng trả lời: “Tâu hoàng thượng, việc đó hạ thần không thể nào làm được. Nhưng chỉ trong vòng ngắn hơn nửa tiếng, hạ thần có thể mang đến cho Ngài hàng trăm ngàn mũi kim như vậy từ trong thành phố.” “Không, ta chỉ muốn mũi kim của ta thôi, không cần bất cứ mũi kim nào khác.” Rồi viên tể tướng với nét mặt hoàn toàn thất vọng, tâu rằng: “Thưa bệ hạ, sông rất sâu, dòng nước lại đang chảy mạnh, thì tuyệt đối không thể nào hạ thần có thể lấy lại được mũi kim đó.” Nhà vua liền hỏi: “Vậy thì có cách nào khác để lấy lại mũi kim đó không? Hoặc có ai khác mà làm được điều đó cho ta hay không?” Viên tể tướng đáp rằng không có cách nào, và cũng không có ai. Nhà vua bèn tập trung tư tưởng, và hãy xem kìa! Một con cá nhỏ nhảy lên từ dòng sông, miệng ngậm mũi kim và đặt nó dưới chân của nhà vua. Rồi nhà vua nói với viên tể tướng: “Ta sẽ làm gì với vương quốc của khanh, khi ta trở thành kẻ hầu hạ cho Thượng Đế, là vị cai quản tất cả vũ trụ và thế giới, kể cả các cõi âm ty, và tất cả những gì sống trong đó là đều dưới mệnh lệnh của Ngài? Ngài đã làm cho ta trở thành vô giới hạn, giống như Ngài, và khanh lại đề nghị ta nên trở lại với vương quốc xưa kia của ta hay sao? Ta không còn là người như trước nữa. Ta đã thể nghiệm những cảnh giới vượt ngoài tầm tưởng tượng. Và cũng như khanh không thể lấy lại mũi kim cho ta, vì vậy khanh cũng không thể lấy lại ông vua mà khanh đã mất. Xin hãy về đi. Hãy để các con ta và chính khanh nữa, muốn làm gì thì làm. Ta không còn ham muốn gì về vương quốc của khanh nữa.” Âm Thanh nội tại là viên ngọc quý giá nhất. Những Thánh Nhân có được nó thì sẽ dửng dưng với giàu sang phú quý trên đời này. (Dadu Dayal nói: “Anh thợ rèn đâu có giận thỏi vàng khi anh ta đập nó với búa? Anh ta chỉ làm nó thoát ra khỏi những chất bẩn thỉu bám chung quanh, để vẻ đẹp chân thật của nó chiếu sáng ngời, và có thể làm vòng trang sức đeo cổ.”)
Ibrahim Adham, Quốc vương nước Bokhara, khát khao muốn biết Thượng Đế và khởi sự đi tìm các vị Thánh Nhân. Tuy nhiên, nhà vua sống trong sự xa hoa quá đỗi, như là ngủ trên nệm phủ đầy hoa tươi thơm ngát. Một buổi tối, khi nhà vua lên giường, ông ta nghe tiếng động trên mái nhà, và sau khi điều tra, ông thấy hai người đàn ông đang đi trên mái cung điện. Nhà vua quát lên: “Các ngươi làm gì ở đây?” Họ trả lời: “Bẩm bệ hạ, chúng hạ thần là hai người cưỡi lạc đà và đi tìm lạc đà đi lạc lối.” Ngạc nhiên vì sự ngu xuẩn của họ, nhà vua lại quát lần nữa: “Sao mà các ngươi có thể nghĩ là tìm lạc đà trên mái cung điện hoàng gia, hả?” Họ bèn nói: “Bẩm hoàng thượng, thì cũng giống như ngài vậy thôi, làm sao mà ngài hy vọng biết được Thượng Đế trên cái giường đầy hoa?” Câu này khiến nhà vua kinh hoảng và ông hoàn toàn thay đổi cách suy nghĩ của mình. Ông bèn từ bỏ ngai vàng và khởi sự ra đi tìm các vị Thánh Nhân trong vương quốc của ông, nhưng đều không được mãn nguyện. Sau đó, ông sang Ấn Độ và qua một thời gian tìm kiếm gian nan, ông vẫn thất bại, cho tới khi ông đến Kashi. Nơi đó, ông nghe tiếng tăm vị Thánh dệt vải, tên Kabir. Nhà vua cầu khẩn xin Kabir Sahib nhận ông làm đệ tử, nhưng Kabir trả lời: “Không có điều gì giống nhau giữa một ông vua và người dệt vải nghèo như tôi. Và hai người khác biệt như vậy thì thật mà khó hòa thuận với nhau.” Nhưng nhà vua vẫn nài nỉ: “Con không đến trước cửa nhà của ngài là một ông vua, mà chỉ là kẻ ăn mày. Con xin cầu khẩn xin Ngài ban cho con món quà mà con đang tìm kiếm.” Phu nhân Mai Loi của Kabir, với lòng nhân từ, yêu cầu phu quân chấp nhận ông ta, và vị Thánh thuận lời phu nhân của Ngài. Trong nhà người dệt vải, nhà vua biết làm gì ngoài việc sửa soạn những sợi giăng trên khung cửi? Sáu năm trôi qua, nhà vua làm công việc này mà không hề than van. Một ngày, bà Mai Loi khẩn khoản nói với Kabir: “Ông vua này đã ở với chúng ta sáu năm rồi, đã ăn những gì chúng ta cho ăn, đã làm những gì chúng ta yêu cầu, mà không hề mở miệng than phiền. Tất cả điều này chứng tỏ ông ta thật xứng đáng. Xin phu quân mở lượng hải hà mà ban Tâm Ấn cho ông ta.” Kabir bảo vợ: “Theo ta nghĩ, đầu óc của nhà vua vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng minh bạch.” Bà Mai Loi khẩn khoản xin lần nữa, và nhắc nhở Kabir rằng nhà vua đã phục vụ gia đình họ thật tình, và thậm chí không một phút nào mà bà nghĩ rằng ông ta không xứng đáng được Tâm Ấn. Nhưng Kabir trả lời: “Cách hay nhất để chứng minh cho chính bà, là làm y như lời tôi dặn. Và sau đó, hãy cho tôi biết những lời thốt ra từ cửa miệng của ông ta. Bà hãy leo lên nóc nhà và khi ông ta đi ra phố, thì hãy quét mọi rác rưới trong nhà rồi đổ lên đầu ông ta.” Bà Mai Loi làm y như lời phu quân dặn, quét rác đổ lên đầu ông vua. Nhà vua phẫn nộ hét lên: “Nếu đây là ở nước Bokhara, thì không một ai dám làm điều này đối với ta.” Bà Mai Loi về thuật lại cho Kabir, và Kabir hỏi vặn: “Có phải là tôi nói với bà rằng ông vua chưa hoàn toàn xứng đáng để nhận món quà Tâm Ấn vĩ đại hay chăng?” Do đó, sáu năm nữa trôi qua, và nhà vua vẫn làm việc nặng nhọc như ông đã làm trong sáu năm đầu tiên. Một ngày, Kabir bảo vợ rằng: “Bây giờ, bình đựng đã sẵn sàng rồi.” Bà Mai Loi trả lời: “Em không thấy sự khác biệt nào giữa hoàn cảnh của ông vua vào sáu năm trước và bây giờ. Ông ta vẫn luôn luôn vâng lời và sẵn sàng, không bao giờ mở miệng than phiền, ngay cả vào những ngày mà chúng ta có nhiều tu sĩ trong nhà, và không còn thực phẩm nào để chúng ta ăn hết.” Kabir bảo vợ: “Nếu bà muốn thấy sự khác biệt, thì một lần nữa hãy quét rác rưởi thối tha trong nhà đổ xuống đầu ông ta đi.” Ngày hôm sau, khi ông vua đi ngang qua nhà, bà Mai Loi làm y như lời chồng dặn dò. Sau khi nhận được món “quà”, ông vua nhìn lên và nói: “Cầu chúc cho người nào làm như vầy được sống lâu mạnh khỏe. Đầu óc này của tôi vẫn còn đầy ngã mạn. Nó cần được trị như thế này.” Một lần nữa, bà Mai Loi thuật lại cho chồng, và lần này, Kabir trả lời: “Như tôi đã bảo bà rồi, bây giờ ông ta không còn thiếu gì hết nữa.” Với Kabir là vị Minh Sư tuyệt hảo và đệ tử như Ibrahim Adham, thì còn gì có thể hơn được nữa! Khi Kabir truyền Tâm Ấn cho vua, linh hồn ông ta lên cao thật mau. Kabir bảo với ông rằng: “Sự tận tâm của con đã hoàn tất. Bây giờ con có thể ra đi bất cứ nơi nào con muốn.” Công đức của Tâm Ấn không phải là nhỏ. Muốn đạt được nó, Minh Sư Nanak phải ngủ trên đá sỏi trải qua 11 năm, và Minh Sư Amardas phải gánh nước trải qua 12 năm. Đầu óc càng trong sạch, ảnh hưởng của Tâm Ấn càng vĩ đại. |
Archives
January 2023
Categories |