Buddhist Stories The Story of Khuda, Aug. 24, 2015 Tôi có nghe (A Nan). Một thời Đức phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại núi Kỳ Xà Quật. Vào lúc đó Đức Thế Tôn bị cảm lạnh. Nhiều đệ tử đi triệu ông Kỳ Vực Y Vương, một bác sĩ nổi tiếng đến chăm sóc Đức Phật. Ông hòa 32 vị thuốc trong chén. Ông dâng lên và bạch với Phật rằng: “Kính lại Đức Thế Tôn, thời tiết năm nay bất hòa. Rất nhiều người mắc nhiều thứ bệnh lạ, con thành kính luyện thuốc này dâng Ngài. Cúi xin Ngài mỗi ngày dùng ba mươi hai lạng.” Đức Thế Tôn hoan hỷ thứ y dược và uống theo lời dặn và chủ nguyện của vị y vương. Nhưng vào thời đó, Đề Bà Đạt Đa luôn luôn vô cùng ganh tỵ với Đức Phật. Và người này cũng vô cùng tự cao tự đại. Ông muốn mọi người kính trọng ông cũng nhiều như Đức Phật. Mặc dù ông không có công đức tâm linh như Đức Phật. Bởi vì ông nghe nói Đức Phật uống y dược đặc biệt từ vị y vương ông cũng muốn uống. Vị y vương dâng lên Đức Phật và dặn mỗi ngày uống 32 lạng. Và Đề Bà Đạt Đa cũng gọi vị y vương đến và luyện một số y dược cho ông. Và rồi vị y vương cũng làm một số y dược và dặn rằng: “Thưa ngài thuốc này mạnh lắm ngài chỉ dùng bốn lang một ngày thôi.” Đề Bà Đạt Đa hỏi: “Đức Phật dùng một ngày mấy lạng?” Y vương: “Thưa ngài! Phật uống ngày 32 lạng.” y nói: “Vì lẽ gì Phật uống 32 lạng mỗi ngày mà ngươi cho ta chỉ bốn lạng mỗi ngày? Tại sao?” Y vương nói: “Phật khác, ngài khác. Nếu ngài uống nhiều như Đức Phật, tất bị tổn thương đến thân thể, ngài sẽ bị bệnh.” “Nếu ta uống hết bao nhiêu đó ta cũng có đủ lực tiêu hóa. Thân ta, thân Phật khác chi, để ta uống coi, có hiệu lực như Phật không.” Và rồi vị y vương nói: “Tùy ý ngài, nhưng xảy ra việc gì, tôi không chịu trách nhiệm.” “Dĩ nhiên, ông đừng lo.” Thế là Đề Bà Đạt Đa cân đủ 32 lạng và uống luôn một hơi. Sau đó ông ngã quay lơ, và lăn ra sắp chết. Mắt trợn ngược và sùi bọt mép. Rồi ông nhảy lên giường, và nhảy xuống đất, chạy khắp nơi, không chịu nổi, kêu la rên rỉ. Phật thấy thương xót cho ông nên từ xa ông duỗi cánh tay vàng và xoa đầu ông. Nhờ vậy Đề Bà Đạt Đa có thể tiêu hóa được liều thuốc mạnh này. Và ông không còn vấn đề nữa. Ông nhìn lên thấy bàn tay của Đức Phật. Ông thầm nghĩ: “Tất Đạt Đa có nhiều thần thông. Đối với thế giới này cũng vô dụng. Không thiết thực. Không thể sử dụng được nhiều. Hắn không có việc làm. Bây giờ hắn lại học nghề thuốc để cầu thêm danh lợi.” Sau khi nghe Đề Bà Đạt Đa nói những lời vô ơn nghĩa như vậy, A Nan quỳ xuống trước mặt Phật bạch rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn, Đề Bà Đạt Đa vô ơn bất nghĩa quá. Ngài vừa cứu ông ấy, ông không cám ơn Ngài thì thôi, lại còn nói xấu Ngài như thế, luôn ganh tỵ và tranh đấu với Ngày.” Đức Phật nói: “A Nan, không phải chỉ lần này. Đề Bà Đạt Đa, đời đời kiếp kiếp đã dùng rất nhiều muu kế xấu xa để hại ta bằng nhiều cách khác nhau.” Tôi lại hỏi Đức Phật: “Kính lạy Đức Thế Tôn, chẳng hay trong kiếp trước ông ấy làm hại thế nào? Xin cho chúng con được rõ.” Đức Phật nói: Ông hãy nghe kỹ, tôi vì ông mà nói. Đã từ lâu lắm rồi, hằng ức kiếp về trước, cũng ở Châu Diêm Phù Để này, có một vương quốc tên là Ba La Nại. Có nhà vua tên là Phạm Ma Đạt, tính rất hung tàn, không có từ tâm, lại ham mê sắc dục, và đủ loại lạc thú. Và ông hay gây ra nhiều đau khổ cho muôn dân. Như thể nọc độc trong tâm ong. Một hôm nhà vua nằm mộng thấy con thú tuyệt đẹp có lông vàng trên những đầu lông tỏa ánh sáng. Khi tỉnh giấc ông nghĩ: “Con thú ta nằm mộng thấy ắt phải có trên đời này. Ta phải tìm nó.” Thế là ông triệu tập tất cả thợ săn trong vương quốc lại và bảo họ: “Hôm nay ta mời các khanh đến đây, bởi vì ta muốn kể cho các khanh một chuyện. Trong giấc mộng, ta thấy con thú sắc vàng ngời sáng, trên những đầu lông phóng ra những tia sáng tứ phía. Ta chắc rằng trong rừng, hoặc trên núi nhất định có loại thú này. Vậy nếu các khanh đến đó, hãy đi khắp nơi tìm bắt nó rồi lột lấy da và mang về đây cho ta. Rồi ta sẽ trọng thưởng cho ngươi và con cháu bảy đời, có đầy đủ nhu yếu phẩm suốt đời. Nếu không thì ta sẽ xử trảm tất cả quý vị và cả gia tộc quý vị.” Tất cả các thợ săn nghe nhà vua dọa dẫm như thế, họ đều sợ toát mồ hôi. Bởi vì họ biết tánh nhà vua. Nhưng mọi người không biết trình bày làm sao, nên họ chỉ biết cúi lạy vua rồi lui ra. Và mọi người về nhà, tất cả các thợ săn hợp bàn. Họ nói với nhau: “Thưa bằng hữu việc này rất khó cho chúng ta. Bởi vì tôi là một trong những thủ lĩnh của nhóm. Từ thuở tôi biết dùng súng săn, từ nhỏ đến giờ, tôi chưa từng nhìn thấy con thú như vậy. Có lẽ đó chỉ là giấc mộng. Nhưng nếu chúng ta không thể bắt được con thú có bộ lông sáng và phát ra tia sáng như thế, thì tất cả gia tộc chúng ta sẽ bị sát hại. Chi bằng chúng ta đưa vợ con trốn sang nước khác.” Và một trong những thợ săn nói: “Thưa các bạn tôi nhận thấy trong núi này, gần chỗ vua và nơi vua thấy con thú. Nơi đây có rất nhiều thú dữ, rắn độc và đủ loại ác thú và trùng độc rất nhiều. Nơi đây rất nguy hiểm cho chúng ta. Có ngày đi mà không hẹn ngày về. Thế nên có lẽ bọn ta chỉ mướn người khác làm hộ là hơn.” Mọi người đều tán thành. Sau một hồi tìm kiếm họ tìm được một người sẵn lòng đi. Anh là người nghèo, anh không có gì nhiều trong nhà. Vậy nên anh nghĩ: Tốt hơn là đi làm việc này, lỡ như trở về vẫn còn có tiền hơn là ở nhà dù sao cũng chết đói thôi. Nhưng trước khi anh đi, họ làm kiểu như giấy cam đoan, nói: “Anh hãy an tâm vào rừng núi làm việc được giao và săn hộ con thú lông vàng trên đầu lông có ánh sáng. Nếu anh được bình an trở về, chúng tôi sẽ trọng thưởng cho anh rất nhiều vàng bạc. Nếu chẳng may mất mạng trong núi, chúng tôi sẽ mang số vàng bạc đó cho vợ con anh dùng và chăm sóc họ.” Nhưng người nầy thầm nghĩ. Ô mình làm việc này cũng là để cứu mạng sống của họ. Dù có chết cũng cam lòng. Người này cũng là một người rất cao thượng. Sau khi nghĩ như thế anh nói với các thợ săn: “Thưa các bằng hữu, đừng lo lắng. Tôi xin bảo đảm việc đó và làm hết sức mình. Tôi nguyện rằng nếu không thành công, tôi sẽ không trở về.” Vì vậy mọi người đều rất vui mừng. Va sắm sửa cơm hộp lương thực để anh lên đường. Khi bắt đầu lên đường, mọi người đều chúc anh vạn sự tốt lành. Trong nhiều ngày liền, anh trải qua rất nhiều nguy hiểm, và lương thực đã gần hết. Rồi từ từ, dần dần, anh không còn thức ăn nửa, bị đói khát. Thân thể trở nên ốm yếu. Anh cảm thấy đã kiệt sức. Rồi sau đó anh cũng phải băng qua sa mạc cát nóng. Gần như chờ chết. Trong phút cuối, anh cầu nguyện: Có ai ở đó không, xin nhủ lòng từ bi, giúp tôi với. Khi đó trong núi ấy có loại thú tên là Cừ Đà. Thân thể thú có lông vàng, và tất cả lông phát ra ánh sáng khắp mọi hướng. Chú không phải là loài thú bình thường. Chú có thể nghe rất xa. Vì vậy, chú nghe tiếng kêu cứu của anh thợ săn. Chú động lòng thương, dấn thân đi tìm. Chú băng qua dòng suối nước lạnh và cát nóng để tìm người đó. Tới nơi, chú thấy một người nằm phơi trên mặt đất, hầu như sắp chết. Khi đó vì khí hậu lạnh, trong sa mạc, nên thú lông vàng đến và dùng thân mình ôm người ấy để che chở anh, giữ cho anh ấm. Sau một hồi, từ tình trạng kiệt sức, người đó tỉnh dậy. Và rồi chú mang anh tới khe nước trong vắt. Chú tắm gội lau chùi cho anh, và cho anh uống nước. Xong rồi chú để anh ở đó và đi khắp nơi để tìm hoa quả ngon ngọt, đem về cho người nầy ăn. Sau đó người này trở lại bình thường, khỏe mạnh. Sau khi anh tỉnh dậy, anh thấy con thú đó. Anh thầm nghĩ: Ô, đây là con thú có lông mà mình đi săn bắt, nhưng khi ta gặp nguy cùng cực, chú đã cứu mạng sống của ta. Ơn ấy ta chưa đền đáp. Nở lòng nào còn hại chú? Nhưng nếu không bắt chú mang về cho nhà vua thì nhiều người sẽ chết. Anh cảm thấy rất khó xử, không biết làm sao. Lúc đó Cừ Đà, con thú hỏi anh: “Tại sao anh không vui?” Người này rơi lệ đáp: “Vì tôi đang nghĩ tới một việc riêng, rất khó quyết định. Cừ Đà hỏi tiếp: ‘A, vấn đề gì vậy? Anh có thể nói cho tôi nghe không?” Anh thợ săn nói: “Ô việc này rất khó giải quyết và tôi cũng không dám nói.” Cừ Đà tiếp tục ép hỏi: “Xin cứ nói. Có lẽ tôi giúp được anh.” Sau khi chú cứ thúc ép. Anh thợ săn kể hết sự tình. Cừ Đà rất vui mừng hoan hỷ. Chú nói: “Ô, việc này dễ mà. Nếu anh muốn, tôi có thể biếu da của tôi. Anh nên biết rằng, nếu tôi đem những kiếp đầu thai, và sinh tử của tôi. Thì đây đã vô số lần rồi. Anh không thể tưởng tượng là tôi đã sống bao nhiêu kiếp, để chết bao nhiêu kiếp. Nhưng tôi chưa từng làm được việc gì hữu ích cả, với thân thế mà tôi có. Vậy nên lần nầy hôm nay tôi có thể dùng da tôi để giúp anh và nhiều người khác, thì đó là điều tốt nhất. Điều đó làm tôi rất vui. Anh cứ việc lột da tôi, lột lông của tôi. Nhưng xin đừng giết tôi quá nhanh. Tôi không thấy hối tiếc, chỉ là đừng giết tôi nhanh quá.” Anh thợ săn nghe con thú Cừ Đà nói và anh vẫn không thể quyết định. Anh thấy rất buồn. Nhưng rồi vì mạng sống của nhiều người, nên anh bất đắc dĩ phải làm vậy, lột da sống như thế. Trong đời sống chúng ta hiện nay, nhiều loài vật cũng chết như thế, nhất là chó. Không cần phải là thú lông vàng. Mỗi năm hàng tỉ con vật bị giết như vậy. Cừ Đà có lời thề rằng: “Tôi chính tôi, thành tâm hy sinh da và lông này để cứu nhiều mạng sống. Nguyện đem công đức hướng về tất cả chúng sinh để họ có thể được giải thoát và thoát khỏi sinh từ, cùng tất cả đau khổ rồi về nơi Niết Bàn.” Sau khi con thú Cừ Đà nguyện vừa xong, 3000 thế giới chấn động sáu lần. Nhiều thiên cung nghiêng ngửa, quay cuồng. Nhiều thiên nhân, nhiều thiên vương đều rất kinh ngạc. Nên họ nhìn xuống xem chuyện gì xảy ra. Khi đó họ thấy một Bồ Tát lột da bố thí, cứu sinh. Vậy nên tất cả họ từ Thiên Đàng bay xuống, tung hoa cúng dường con thú ấy. Ai nấy đều rơi lệ. Lột da xong, toàn thân chú đỏ như gấc chín, huyết chảy lênh láng. Nhìn rất rùn rợn. Rồi ruồi kiến bu xúm xít đầy mình, rỉa thịt uống huyết. Thật đau đớn cho chú, chú muốn quay mình lại nhưng sợ làm hại chết loài ruồi kiến nên đành phải đứng vậy không dám động đậy. Chú cố chịu đựng. Sau khi những loại con trùng nầy ăn thịt uống huyết của chú. Sau khi chết đi chúng được sinh trên Thiên Đàng. Người thợ săn được da từ thú lông vàng mang về vương quốc. Nhà vua rất, rất hài lòng, khen ngợi và ban thưởng cho anh rất nhiều tiền và vàng bạc, tước lộc ngôi cao. Nhà vua dùng lông thú đó để trải giường nơi ông ngủ. Mỗi khi ngủ trên tấm lông đó ông cảm thấy rất an lạc. Tới đây Đức Phật nhắc lại cho A Nan biết rằng: “A Nan ông nên biết Cừ Đà lúc đó là ai? Là tiền thân của ta, một trong những tiền thân của ta. Vua Phạm Ma Đạt, nhà vua lúc đó nay là ông Đề Bà Đạt Đa. Những ruồi kiến ăn thịt, và uống huyết ta thuở đó khi ta mới đắc quả vị Phật, tất cả họ ta giảng đạo và tất cả họ đã lên Thiên Đàng. Đề Bà Đạt Đa làm tổn thương tánh mạng ta và gây đau khổ cho ta. Tới nay, ông không bao giờ có một chút thiện tâm gì đối với ta. Suốt ngày ông chỉ nghĩ cách để hại ta mà thôi. Lúc đó tôi, A Nan và đại chúng nghe Đức Phật nói thế ai nấy đều rất buồn, và cảm động trong lòng. Nhiều người vì điều đó đã bắt đầu tu hành tinh tấn hơn nên họ đạt quả vị Tư Đà Hoàn, A La Hán v.v.. Ai nấy đều vui vẻ và chào Phật và rút lui.
0 Comments
video 2015 Sai Ma 20150907 Chính tôi nghe được, một thời Đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ tại tịnh xá Trúc Lâm với một số đệ tử. Bây giờ, có một người từ dòng Bà La Môn, anh ta rất nghèo. Anh rất siêng năng, chăm làm, nhưng không đủ thức ăn, và áo mặc. Có lần, anh nhà nghèo hỏi một người mà anh biết, ở gần chỗ anh: “Bác có biết làm những hạnh thiện lành nào trên thế gian này để mình có thể giàu có trong đời này không?” Rồi sau khi hỏi rất nhiều người, thì có một người biết nên ông bảo anh Bà La Môn nghèo: “Anh không biết ư? Hiện giờ Đức Phật đang tại thế. Và Ngài đang tạo lợi ích cho mọi người nhờ có sự hiện diện và phước lành của Ngài. Không chỉ thế, Ngài có bốn đại đệ tử xuất gia. Thứ nhất, Ma Ha Ca Diếp, thứ hai Mục kiền Liên, Xá Lợi Phất và A Na Luật. Bốn vị hiền sĩ này họ thương yêu và có lòng từ bi đối với người nghèo. Tất cả những gì họ làm là chỉ ban phước cho rất nhiều người, nhứt là những người đau khổ. Bất cứ ai có lòng thành và đức tin, và cúng dường bốn đệ tử thánh thiện này của Đức Phật thì trong đời hiện tại này, bất cứ điều gì anh muốn, ước muốn của anh sẽ được toại nguyện.’ Ồ, anh Bà La Môn này nghe nhiều người nói những điều tương tự nên vui mừng quá đỗi. Và kể từ hôm đó anh làm việc chăm chỉ hơn để kiếm thêm chút đỉnh tiền. Anh đi ra chợ và mua nhiều món ăn khác nhau với số tiền đó. Rồi anh khiêm tốn đến mời một số thánh nhân, các thánh tăng đến nhà anh để anh cúng dường bữa cơm chay với tất cả lòng thành và tôn kính để cầu phước báu hiện kiếp. Vợ anh tên là Sai Ma nghĩa là an ổn. Họ không nói đây là bốn vị xuất gia đã đề cập ở trên hay không, họ chỉ nói: Các vị thánh tăng này, sau khi dùng cơm xong thì họ ngồi đó thuyết pháp, khuyên đôi vợ chồng như vầy: “Tội lỗi hay phúc đức như bóng theo hình, như tiếng vang của giọng nói. Gieo nhân nào thì gặt quả nấy.” Thời bây giờ có một vị vua rất tốt. Bữa tối hôm đó ông cảm thấy thương hại cho những tù nhân. Lo mấy tù nhân bị đói nên ông ra lệnh cho người hầu đem thức ăn ra ngoài thành tới cho họ. Lềnh rằng: “Hôm nay, nếu có ai mang thức ăn của đức vua cho tội nhân bị treo bên đường đó thì nhà vua sẽ ban thưởng cho 1.000 lạng vàng. Nhưng không ai dám đi cả. Nhưng vợ của anh Bà La Môn nghèo thì thầm nghĩ: Có nghe rằng nếu ai giữ Bát Quan Trai Giới thì ngay cả ác thú cũng không dám làm hại họ. Thậm chí ma quỷ cũng không dám đến gần quấy rầy họ. Nên cô ấy có đức tin mãnh liệt. Cho nên cô đến thỉnh cầu nhà vua đưa thức ăn cho cô và tâu rằng cô sẽ đi. Và rồi trước khi cô đi, nhà vua phán ràng: “Nếu trở lại an toàn, ta sẽ thưởng ngươi 1000 lạng vàng. Rồi khi cô ấy lên đường đến chỗ tội nhân, cô rất thành tâm và tập trung trì ngủ giới, niệm Phật luôn luôn. Và khi vừa ra khỏi thành, thì cô gặp một con quỷ La Sát, quỷ cái. Tên của nó là Lam Bà. Và lúc đó nó vừa hạ sinh 500 quỷ con. Lúc đó nó đang rất đói. Khi nó thấy vợ Sai Ma nó muốn nhảy chồm lên người, bắt lấy cô để ăn. Nhưng bởi vì vợ Sai Ma đã ăn chay, nên Quỷ La Sát không dám tới. Và nó hỏi cô bằng một giọng lịch sự: “Chị ạ, chị đi đâu đó? Chị có đồ ăn cho tôi không? Có thể chia cho tôi một chút không?” Cô Sai Ma lấy một ít thức ăn dành cho tội nhân và đưa cho quỷ la sát. Rất ít, những vì ma quỷ, có lực lượng nên ăn vô nó cảm thấy khoẻ hơn. Sau đó quỷ la sát rất vui nên nó hỏi: “Thưa chị, chị tên là chi?” Và cô ta trả lời: “Tôi tên là Sai Ma.” Con quỷ nói: “Hôm nay tôi sinh được nhiều cháu. Mọi việc đều thuận lợi. Đó là nhờ ân điển của chị, mà hôm nay tôi còn sống và tôi cũng được nghe quý danh tốt của chị. Trong nhà tôi có hai cây búa vàng, tôi xin dùng để đền đáp ơn chị. Khi chị trở về qua lối này xin hãy ghé đến nhà tôi để tôi có thể trao cho chị. Và rồi vì vậy Sai Ma cũng rất lịch sự nói: “Dạ, chị thật tốt bụng, em xin nhớ. Khi trở về em sẽ ghé qua.” Nữ quỷ lại hỏi: “Nhưng bây giờ chị đi đâu?” Sai Mà trả lời: “Em đến đó để mang thức ăn cho một tội nhân bị trói vào cái cột ở nơi đó.” Và nữ quỷ nói: “Ô tôi cũng có một cô em gái ở đó tên là A Lâm Bà, chị có thể vui lòng cho tôi gởi lời thăm đến cô em, và nói với cô em rằng tôi mới sinh được 500 cháu và mẹ con tôi đều khỏe mạnh và rất vui.” Rồi Sai Ma đi, cũng đi ngang qua chỗ cô quỷ em này và nói với cô em như vậy. Và A Lam Bà, cũng rất mừng sau khi nghe tin và hỏi: “Chị tên là chi?” Và Sai Ma trả lời: “Em tên là Sai Ma.” Và rồi có quỷ em vui vẻ và nói: “Ô, chị tôi đã sinh được rất nhiều cháu mà tất cả đều vui vẽ khỏe mạnh, tên của chị cũng rất tốt lành. Nhà tôi có hai cái búa vàng. Tôi sẽ tặng chị làm quà. Khi chị trở về xin hãy đến nhà tôi để tôi có thể trao cho chị.” Sai Ma nói: “Ô quý hóa quá! Dĩ nhiên, nếu chị rộng lượng như vậy thì em xin nhớ.” Và cô quỷ em hỏi: “Nhưng bây giờ chị đi đâu?’ Thì cô trả lời: “Thưa chị, em tuân lệnh nhà vua mang một ít thức ăn đến cho tội nhân bị trói ở chỗ như thế.” Và rồi quỷ Ạ Lam Bà nói: ‘Ô tôi cũng có đứa em sống gần đó tên là Phân Na Ky. Xin cho tôi gởi lời hỏi thăm đến người em ruột nầy.” Sai Ma nói lời tạm biệt, và đi gặp đứa em ruột Phan Na Ky. Sau khi chuyển lời thăm hỏi của mấy người chị và cho biết người chị lớn sanh được 500 quỷ con. Cả mẹ con đều khỏe mạnh. Y rất hân hoan và hỏi chị tên gì? Cô nói tên Sai Ma. Quỷ em nói: “Tên cô rất tốt, tôi có 2 cái búa vàng trong nhà. Tôi xin tặng chị làm quà xin chị ghé qua nhà tôi lúc trở về.’ Sai Ma cũng trả lời là chị tốt qua tôi xin nhớ. Sai Ma tạm biệt và đi tiếp. Sau đó cô ấy tìm đến chỗ tội nhân bị trói. Và đưa thức ăn và nước uống cho người đó và nói: “Nhà vua ban cho anh thức ăn và nước uống này. Xin hãy nhận lấy.” Anh này quá đổi vui mừng và cảm ơn chị ta. Thế là Sai Ma quay về nhà, và trên đường về nhận lấy sáu cái búa vàng. Gặp nhà vua nhận lấy 1000 lượng vàng nữa. Từ đó về sau, họ trở nên giàu có và nổi tiếng. Vua Bình Sa bây giờ thấy rằng Sai Ma là người mạnh mẽ như vậy. Cô dám đi đến đó và không có quỷ ma nào dám chạm vào cô. Nhà vua triệu cô ấy vào cung, phong cho cô ấy làm quan đại thần. Giờ không những cô ấy giàu có, mà còn nổi tiếng quyền cao chức trọng. Và từ đó về sau, đức tin của Sai Ma vào Phật, Pháp,Tăng còn mạnh mẽ hơn nữa. Một ngày nọ, Sai Ma sửa soạn trai nghi thỉnh Đức Phật và chư tăng tới nhà để cúng dường. Khi Đức Phật dùng cơm xong, Ngài lên tòa cao và thuyết pháp về công đức bố thí và công đức trì giới và phép sinh thiền. Làm thế nào để sinh lên thiên đàng. Sau khi Sai Ma nghe xong những lời này, nhiều nghiệp chướng của cô được tiêu tan, tâm khai mở, tâm trí thanh tịnh hơn. Và cô đắt quả Tư Đà Hoàn. Mọi người trong pháp hội lúc đó, ai nấy đều hoan hỷ, và phát tâm cúng dường cho những người thánh thiện và trì giới, bố thí cho người nghèo và trao dồi đạo đức của họ. Rồi mọi người cúi đầu, lễ tạ Đức Phật và lui ra. Vượt Qua Tiên Đạo và Bước Vào Phật Đạo bản tin 56 Lúc đi thăm Hoa Lục tôi có gặp hai đồng tu. Hai vị này đã thuật lại với tôi những kinh nghiệm đã trải qua khi họ đi khắp các đạo tràng và danh sơn tại Trung Quốc để tu tập Phép Tiên. Sau đó, họ được biết về Thanh Hải Vô Thượng Sư và đã có cơ may bước vào Phật Đạo - một trình độ tu hành tâm linh cao đẳng. Tần Lĩnh tại Thiểm Tây xưa nay vốn là nơi có rất nhiều người tu hành, đặc biệt là núi Chung Nam càng có tiếng. Lý và Hoàng sư tỷ tại Tần Lĩnh, đã gặp hai tiên đồng nấu trà. Tại núi Thái Bạch, họ gặp vị hộ pháp đã từng chứng kiến Lão Tử vượt Hàm Cốc Quan. Tại núi Hoa Sơn, họ thấy tiên đánh cờ. Tại một núi khác, họ đã thấy tận mắt trận binh pháp Chu Tiên của Khương Tử Nha thời Nhà Chu. Họ đã tò mò bước vào trong trận và suýt nữa không ra được. TRĂM NGÀY Luyện Pháp Cơ Bản Vì một cơ duyên nào đó không biết, Lý và Hoàng sư tỷ đã được Tiên Giới chọn làm đệ tử. Họ chưa bao giờ biết sư phụ mình là ai, cũng chưa hề gặp mặt. Có khi họ có khả năng thiên nhãn thông hoặc thiên nhĩ thông, biết được một số sự việc và câu thông với sư phụ họ. Lúc đầu họ thường không nghe lời, làm trái với chỉ thị, và bị những bài học thích đáng. Sau này họ mới biết tất cả đều là để giúp họ, sau đó mới chịu khuất phục, cúi đầu chấp nhận số mệnh! Trước hết, sư phụ họ bảo họ đến núi Thanh Thành luyện tập căn cơ một trăm ngày. Núi Thanh Thành là một trong những đạo tràng lừng danh nhất của Đạo Giáo. Khi đến núi Thanh Thành, họ xin tạm trú tại Đạo quan của một lão ni. Ba ngày sau, vị lão ni đã trách họ: "Các ngươi tu pháp gì vậy? Đuổi mấy con ma nhỏ tôi nuôi đi đâu hết?" Hai sư tỷ thành thật trả lời: "Đâu có! Quả thật chúng con đâu có tu luyện gì đâu." Hóa ra vị lão ni là một người thâm tàng bất lộ, lão thuộc phái Mao Sơn, tập luyện thần thông, võ cũng rất giỏi, có thể đứng ngược bằng một ngón tay (nhất chỉ thiền). Lão có nuôi mấy con ma nhỏ giúp trông coi ruộng vườn nhà miếu. Thường những người lạ, chưa ai dám ở lại hơn một ngày. Vậy mà hai sư tỷ đã trải qua một cách bình an vô sự. Lão ni mới lấy làm lạ, sao mấy com ma nhỏ lão nuôi lại biến đâu mất! Lão ni trong bụng lấy làm lạ. Sau khi trò chuyện mới hay là có tiên nhân bảo hộ. Lão nói với hai sư tỷ rằng, lão có mười ba đệ tử không thuộc giống người. Đệ tử nào cũng có thần thông, có thể biến thành người. Giống chồn biến giống nhất, đẹp nhất; heo biến xấu hơn, mũi, tai và chân không giống người cho lắm. Hiện đệ tử hồ ly của lão đang đi du hóa tại Hồ Bắc. Thường lão ni dạy bí pháp cho các đệ tử vào ban đêm. Ban ngày các đệ tử ẩn tại phía sau núi, sợ bị người ta nhìn thấy. Hàng ngày khoảng hai ba giờ sáng, hai sư tỷ đã được tiên nhân đánh thức dậy luyện công, và không được cho người ta nhìn thấy. Nếu lỡ bị người ta bắt gặp, sẽ tự nhiên đình chỉ. Hai sư tỷ đã ngoài bốn mươi, nên phải luyện cho có sức khỏe. Họ đánh đủ các loại quyền, tất cả đều do tự nhiên mà ra. Sư phụ họ dặn không nên nhớ bất cứ chiêu thức nào, nếu không, chiêu kế tiếp sẽ bị kẹt lại đánh không ra. Họ khi thì nhảy, khi thì lăn, thường bị trầy da chảy máu cũng mặc. Đến khi ngưng tập và nghỉ ngơi thì những vết thương tự nhiên hồi phục, không để lại một dấu vết gì cả. Sau khi rèn luyện xong thân thể, kế đến là luyện đả thông hai mạch nhâm và đốc. Họ nhận được chỉ thị, phải đến động Thiên Sư bế quan, sư phụ họ chỉ họ cách dủng đơn điền hướng về mặt trời để hấp thụ tinh hoa của nó, cho đến đơn điền cảm thấy nóng hực mói thôi (phải có bí quyết và giờ giấc đặc biệt). MANG THAI MƯỜI THÁNG Đại Ôn Dưỡng Sau khi luyện xong phần căn bản một trăm ngày, hai vị nhận được chỉ thị phải rời núi Thanh Thành, đi tập luyện tại những danh sơn khác. Họ đã thăm Ngũ Đài Sơn, là đạo tràng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Đà Sơn, v.v... đã chứng kiến rất nhiều kỳ tích. Trước năm 1986, tất cả thần hộ pháp tại mỗi danh sơn nào cũng rất là tuyệt diệu, nhất là kim thân của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lớn tựa như một ngọn núi, Quán Âm Bồ Tát rất trang nghiêm từ bi. Tại núi Nga Mi, hai sư tỷ đã bị Lý Thiết Quải tiên sinh của nhóm Bát Tiên chọc phá một lần. Họ vẫn nhớ cây gậy sắt lóng lánh của ngài. Cũng trong lúc này, ngươn khí trong đơn điền bắt đầu bành trướng (như đang mang thai), sau mười tháng, kết lại thành một viên kim đơn. Sau khi kết thành kim đơn, mới dâng lên đến trung đơn điền được sức ấm nuôi dưỡng. Tại đây phải trải một thời gian rất dài, bị khảo rất nhiều, qua nhiều chướng ngại, chịu khổ vô vàn. Cho nên hai người đã săn sóc nhau, người này gặp trở ngại thì người kia làm hộ pháp canh giùm. Sau 1986, khi họ trở lại thăm các danh sơn tự miếu, thì thấy các thần hộ pháp đã biến hết, thay vào đó toàn là những chúng sinh thuộc A tu la làm hộ pháp. NHẢ KIM ĐƠN Hồng Nhi Xuất Khiếu Theo các Đạo Gia thì hạ đơn điền luyện tinh hóa khí, trung đơn điền luyện khí hóa thần, thượng đơn điền (mắt trí huệ) luyện thần hoàn hư. Pháp Môn Quán Âm của chúng ta luyện trực tiếp từ thượng đơn điền, đã công hiệu vượt xa biết bao! Sau khi tu đại ôn dưỡng xong, một hôm, hai sư tỷ nhận được chỉ thị là phải đến một khu rừng sâu tại Tần Lĩnh. Trên đường lên núi, họ đã gặp một con ngựa bay có sừng, trông vừa giống trâu vừa giống ngựa, trên mình có vảy. Đường núi nhỏ hẹp, chỉ vừa đủ chỗ cho từng người một đi qua, ngựa bay tiến rất nhanh hướng về phía họ. Hai người rất sợ hãi, nhưng không có chỗ né. Tuy nhiên, khi ngựa bay đến trước mặt họ, lại gật đầu chào họ, rồi nhảy tung lên một cái quay đầu lại, dắt họ đến một miếu sơn thần, rồi đi mất. Vào nửa đêm hôm đó, hai sư tỷ nhả kim đơn. Khi đơn được nhả ra, biến thành một anh nhi nhỏ bé, bay từ từ lên trời. Lúc bấy giờ, trên không chợt nghe nhạc tiên vang lên, một luồng kim quang chiếu từ trên không xuống phủ khắp anh nhi. Trong ánh quang, Thái Thượng Lão quân bảo: "Về mau, con nít không đi ra ngoài rong chơi!" Anh nhi lại từ từ trở vào trong thân thể họ. Họ cho biết việc hồng nhi xuất ra như vậy rất nguy hiểm, phải có giờ giấc địa điểm đặc biệt mới được. Lúc xuống núi, hai sư tỷ gặp phải một bé gái cư ngụ tại chân núi. Em rất lấy làm lạ thấy hai người còn sống sót xuống núi, vì cha em khi lên núi đã bị ngựa bay có sừng nắm cổ và ném xuống giòng suối rồi chết. SƯ PHỤ THỊ HIỆN Truyền Pháp Môn Quán Âm Đến khi họ tu thượng đơn điền thì thấy tiến bộ rất chậm. Sau đó họ gặp Pháp Môn Quán Âm, được biết Sư Phụ Suma Ching Hai quả thật là một vị minh sư vạn kiếp khó tìm, và Pháp Môn Quán Âm là vô thượng. Họ mới hỏi sư phụ họ có thể tu Pháp Môn Quán Âm không? Và câu trả lời là: "Được, hãy mau tu pháp này!" Rồi một hôm khi họ đang tọa thiền, thì thấy Suma Ching Hai thị hiện trong không trung truyền pháp cho họ. Họ đã được hưởng gia trì vô thượng và pháp hỉ. Sau khi thọ Tâm Ấn tu Pháp Môn Quán Âm, có thể nghiệm rất tốt, họ rất cảm ơn Sư Phụ, và còn nói rằng nếu gặp Pháp Môn Quán Âm sớm một chút, thì đâu đến nỗi phải chịu những cực khổ đến vậy. Từ khi tu Pháp Môn Quán Âm, trình độ tâm linh mà họ đã đạt được trước kia không những không suy giảm, mà còn tiến bộ nhiều. Vì tu thượng đơn điền là luyện thần hoàn hư, nếu không có căn cơ trí huệ thích đáng thì không dễ gì tu được. Nhưng Pháp Môn Quán Âm là trực tiếp khai mở Phật Tánh của ta, cho ta thấy chân tánh để bước vào Đạo là tức khắc thể nghiệm được giòng âm lưu, và nhờ âm lưu này sẽ dễ lên đến cảnh giới cao hơn. Bởi vì hai sư tỷ đã giúp Sư Phụ làm những việc hoằng pháp hữu ích cho chúng sinh, chỉ trong một thời gian ngắn một hai tháng, bên trong họ đã đạt được đẳng cấp nội tại cao hơn. Ngoài ra, trong đời sống hàng ngày, hóa thân Sư Phụ cũng chăm sóc họ rất chu đáo, họ không còn gì lo lắng cả. Họ cho biết trong số minh sư mà họ đã từng gặp, Sư Phụ là vị thầy có đẳng cấp cao nhất. Họ rất vinh hạnh được làm đệ tử của Ngài, và mong rằng sau này có thể được diện kiến Ngài, cho thỏa lòng mong ước. Buddhist Stories: The Merit of Charity and Keeping The Five Precepts & Brahma Asks for Dharma, Part 1 of 10, Aug. 03, 2015 Thuở đó có ông trưởng giả giàu, giàu lắm, nhưng lại không có con trai. Thành ra hai ông bà, hai vợ chồng hay đi khắp các miếu thần để cầu xin một đứa con trai. Vì lòng thành kính khẩn nguyện, nên cuối cùng bà sinh được cậu con trai quý. Một hôm ông bà bồng cậu bé ra ngoài đến gần bờ sông chơi đùa, ăn uống. Sau đó vì vui quá, họ tung cậu bé, tung lên, tung xuống. Bà mẹ cứ tung cậu bé lên rồi lại đỡ lấy. Vì quá vui đùa với cậu con qúy, nên bà bị phân tâm sẩy tay đánh rơi cậu bé xuống sông. Trời ơi! Bà la to kêu cứu, nhảy khắp nơi, có nhiều người nhảy xuống sông tìm. Sông sâu, nước chảy mạnh, tuyệt vô tăm tích! Dĩ nhiên, bà mẹ bị ngất đi vì quá đau buồn, tự trách mình. Ba ngất đi hồi lâu tới khi người ta tới xức dầu, xoa thuốc, bà mới tỉnh. Cuối dòng sông này, có một thôn nhỏ, thôn ấy cũng có một nhà rất giàu, người cha trưởng giả cũng không có con trai. Ông cũng cầu trời khấn đất, đền nọ, miếu kia, bất cứ chỗ nào người ta cho là linh ứng, cứ đi khắp nơi cầu, và vô hiệu quả. Hôm ấy ông sai gia nhân thả lưới ở dòng sông này, bắc được con cá lớn bèn mang về nhà mổ bụng cá ra, thì thấy một đứa bé vẫn còn sống. Mà lại là bé trai nữa; ôi, gia đình này quá đổi vui mừng. Họ tắm rửa sạch sẽ cho em bé, rồi đưa cho ông chủ. Ông chủ xem xong mừng rỡ, thầm nghĩ: "Nhà ta từ trước đến nay chí thành cầu đạo, hôm nay thật là Trời cho ta đứa con này. Đây là phép màu. Đúng là Trời cho." Ông tin như vậy. Sau đó tất nhiên, ho chăm sóc cậu bé rất chu đáo, cho cậu mọi thứ cậu cần. Ông trưởng giả mất con nghe tin, có người mách bảo, cuối dòng sông này, có người bắt được con cá lớn, mở ra được đứa con trai vẫn còn sống. Nên cả hai ông bà cùng nhau đến xem. Khi nhìn thấy, họ nói rằng: "Này ông, đây chính là con tôi. Đích thực là con tôi. Vì hôm trước vợ tôi chơi đùa với cháu, không may đánh rơi xuống sông, nhưng phúc đức quá, phúc đức quá! Nhờ Trời, ông bà lại cứu được cháu. Vậy xin ông bà cho tôi xin lại." Người kia, ông trưởng giả kia nói: "Ông nói cái gì? Đây là con tôi! Trời ban cho tôi mà. Nhà tôi thành kính cầu đạo thần kỳ đã lâu, được sự linh ứng cho tôi đứa con này. Đúng là thiên ý. Đây là con tôi để nuôi chứ không cho ông được." Hai ông bà kia nói: "Ôi, chúng tôi thương con đứt ruột bao ngày nay vì mất nó. Xin ông bà thương tình trả lại con cho chúng tôi. Ông bà muốn gì, chúng tôi cũng xin dâng." Ông kia nói: "Tôi không muốn gì hết. Tôi giàu có, quyền hành. Sao lại muốn gì của ông? Đây là con của tôi, mời ông đi đi." Hai ông tranh luận qua lại mãi mà không giải quyết được, rồi hai gia đình mang đứa bé lên vua... Coi vua phân xử làm cách nào. Ông mất con tâu rằng: "Tâu Bệ hạ! Đây thật là con trai tiện dân. Hôm trước vợ tiện dân bồng cháu đi chơi cạnh dòng sông, sảy tay rơi xuống sông. Đây thật là con trai của tiện dân. Xin Bệ hạ minh xét. Cho chúng tôi nhận lại đứa con." Người kia, người mà tìm thấy cậu bé, cũng nói: "Tâu Bệ hạ! Gia nhân nhà tiện dân đánh lưới được con cá, đem về thấy đứa bé này trong bụng cá, chứ không phải gia đình ấy sinh ra. Mà từ con cá." Nhà vua nói: "Trời ơi! Bây giờ có một đứa bé mà hai nhà cùng muốn nhận." Nhà vua cất tiếng: "Được rồi. Đứa bé này ta cho hai nhà nuôi chung. Thay phiên nhau nuôi. khi cậu bé lớn lên, mỗi nhà cưới cho cậu một cô vợ. Vợ nhà ai sinh thì con thuộc nhà ấy." Hiểu không? Hai vợ và hai gia đình. Vợ nào sinh con trai thì nó thuộc vào gia đình đó. Hai ông đều cảm tạ vua, nghĩ là như vậy được rồi, giải quyết vậy cũng không đến nỗi nào. Họ muốn tuân lệnh nhà vua. Cụ thể, hai nhà về nuôi chung, năm qua tháng lại, không bao lâu cậu bé đã lớn. Của cải hai bên thuộc về cậu này. Mỗi nhà đều cưới cho cậu một cô vợ. Một lần nọ, cậu phải đi sang xứ khác, thành phố khác để làm gì đó. Cũng là đại nhân duyên. Khi xong việc ra về, cậu gặp Đức Phật đi du hóa nhân gian. Cậu nhìn thấy Phật oai đức lớn lao, quang minh sáng ngời, đầy vẻ tôn nghiêm và thấy dân chúng theo Phật tu học rất nhiều. Bỗng dưng cậu cảm thấy vô cùng kính trọng, cảm thấy như mình mới tìm được điều mình ao ước. Cậu tới trước Phật đảnh lễ, rồi lui ngồi một bên, nghe Phật thuyết pháp. Sao một hồi, sau khi nghe Phật giảng, cậu cảm thấy mình như cây kia bị nắng héo khô, nay được sống dậy như xuân lại đến sau một mùa đông dài. Và rồi được gặp trận mưa tươi mát, lại đâm chồi nẫy lộc, cành lá xanh tươi. Nghe xong lễ bái tạ ơn Đức Phật lùi ra, về nhà cậu rất sung sướng với ý niệm muốn xuất gia dưới sự bảo hộ của Phật. Ai gặp Phật cũng muốn xuất gia. Ý định sắc đá đã phát khởi từ đáy lòng, như không có gì lay chuyển được, không gì thay đổi được. Dù cho cha mẹ đôi bên lắm bạc nhiều tiền, vinh hoa phú quý, cậu vẫn không thấy mãn nguyện. Xem của cải, giầu sang như mây bây. gió nhẹ thổi qua là không còn gì hết, hay như bọt nước biển, khi sóng vỗ vô bờ, bọt nước một hồi sau là biến mất. Cậu cảm thấy của cải, đời sống là vậy đó. Cho nên thật lòng mong được xuất gia. Cậu thưa với cha mẹ đôi bên: "Kính thưa song thân, lúc con mới sinh đã mắc nạn rơi xuống sông, bị cá nuốt. Cũng may thoát chết, lẽ ra đã chết rồi. Đằng nào cũng đã chết rồi. Còn nhìn lại thì thấy đời không có gì vĩnh cửu, không có gì vững chắc, lâu bền. Dù cho lắm bạc nhiều tiền, quyền cao chức trọng, vợ đẹp hầu xinh, không ai tránh khỏi hai chữ vô thường, chỉ có xuất gia cầu đạo giải thoát là hạnh phúc nhất, hạnh phúc thật sự và lâu dài đối với con ". Vậy kính xin cho con xuất gia tu học! " Nghe xong, hai bên gia đình bỗng nhiên cũng khai ngộ, tâm khai mở và đáp: "Được rồi, nếu con muốn vậy." Thế là cậu được sự đồng ý của đôi bên cha mẹ cho đi xuất gia. Sau đó cậu lên đường đi đến nơi Phật ngụ, cúi đầu làm lễ bạch rằng: "Kính lạy Đức Thế Tôn, thân người khó đặng, đời là ảo mộng, con thành thực trút bỏ nơi tục lục, tới đây cầu Thế Tôn cho con được nhập đạo tu hành, xin Ngài từ bi tế độ." Phật nói: "Thiện lai, thiện lai, tỳ kheo! " Thế là cậu được xuất gia. Đơn giản quá hả? Ngài vừa nói dứt lời, tóc trên đầu cậu tự nhiên rụng hết, áo mặc trên mình biến thành áo cà sa. Phật đặt pháp hiệu cho cậu là Trung Tín. Và cậu rất là tinh tấn chuyên tâm vào đời sống mới. Không lâu sau, cậu đạt quả A La Hán. Thấy vậy, tôi (A Nan) hỏi Phật. A Nan quỳ xuống, xin Phật giảng giải: "Chẳng hay Trung Tín trong tiền kiếp làm hạnh gì, trồng nhân lành gì, mà rơi vào miệng cá, nằm trong bụng cá lâu vậy mà không chết. không bị ngộp thở hay là bị a-xít trong dạ dày cá tiêu hóa bất cứ gì." Hơn nữa lại được hưởng hai gia nghiệp giàu có, bây giờ lại được tới đây làm đệ tử xuất gia của Ngài." Phật mới dạy rằng: "A Nan, nghe này. Ông nên biết, từ thời quá khứ, cách đây rất lâu, có một vị Phật ra đời cũng trên thế gian này, hiệu là Tỳ Bà Thi. Một hôm, Ngài đang thuyết pháp cho đại chúng, khi đó có một ông trưởng giả đến nghe giảng. Hôm ấy Phật giảng về công đức bố thí, và công đức trì giới, ông vui mừng, sung sướng, phát khởi lòng tin mạnh mẽ. Ông quá đổi vui mừng bỗng nhiên phát khỏi lòng tin mạnh mẽ, xin Phật nhân ông làm đệ tử tại gia, quy y Tam Bảo, nghĩa là Phật, Pháp, Tăng."Phật, Tăng nghĩa là những người xuất gia và Pháp nghĩa là giáo Pháp." Dĩ nhiên ông cũng thọ giới bất sát, không sát sanh, không hại chúng sanh." bất bạo động, giới đầu tiên của mình." Sau đó, khi quy y Tâm Bảo xong, ông đem một đồng vàng dâng Phật, cúng dường Phật. Bởi thế cho nên, đời đời kiếp kiếp được phước báu vô biên.Trên cõi nhân gian, ít người bị kịp về phú quý, phước báu, sức khỏe, cũng như tất cả những thứ tốt đẹp mà ông có. A Nan! Ông Trưởng giả thuở đó nay chính là Trung Tín, người xuất gia, tỳ kheo." Tỳ kheo là cao tăng rồi. Sa-đi là tiểu tăng, người mới tu. Vậy ông đã là tỳ kheo rồi, nghĩa là cao tăng." Kể từ đó, Trung Tín được hưởng phú quý trọn chín mươi mốt vô lượng kiếp." Tưởng tượng xem! Đó chỉ là con số thôi, có nghĩa là nhiều, nhiều lắm, nhiều lắm. Vì quý vị thấy Phật hay nói nếu người nào có nhiều, thật nhiều phước báu, Ngài sẽ nói chín mười mốt vô lượng kiếp. Phật rất thích con số. Nhờ vậy mà ngày nay Trung Tín được thụ hưởng phú quý từ hai gia đình. Do Trung Tín luôn giữ ngủ giới và hết sức thành tâm, bất sát, bất bạo động, không làm hại người khác, nên cá nuốt vào cũng không tiêu hóa được, không chết. Nuốt vô nhưng không làm gì được. Và cũng quy y Tam Bảo nên nay mới được gặp ta, tam giới pháp hóa của ta và đắt quả A La Hán, giải thoát sinh tử trong ba cõi." Khi đó, tôi (A Nan) và tất cả mọi người nghe Phật nói xong, ai nấy đều sung sướng phát tâm tu đạo, cúi đầu lễ tạ lùi ra. |
Archives
January 2023
Categories |