Bạn có biết (bản tin 65) Suma Ching Hai giảng tại đạo tràng Tây Hồ, Formosa ngày 30 tháng 6, 1995 (Nguyên văn tiếng Âu Lạc) Có một câu chuyện về một vị tăng. Sư Phụ (nguyên văn tôi) nghĩ là ở Hoa Kỳ và cũng là một tu sĩ người Mỹ. Người này có viết một cuốn sách nói về thể nghiệm của mình trong lúc làm tu sĩ tại một thiền viện trước kia. Lúc còn là một tu sĩ, trong thiền viện đó anh ta đã tuyệt đối tuân theo luật lệ của nơi này. Giống như giờ nào thì làm việc gì, quý vị biết, giờ làm việc trong vườn, rồi giờ ăn uống, giờ cầu nguyện và giờ đi ngủ. Bất kỳ công việc gì anh cũng đều triệt để tuân theo các quy luật và luôn luôn tập trung, anh cũng không màng than phiền hay muốn thay đổi chính sách của tu viện. Rồi khi anh ta ăn uống, có lúc anh ta không quen với thức ăn trong thiền viện. Một loại thức ăn đơn giản. Đôi khi những người tu sĩ, quý vị biết, đa số còn độc thân, và còn trẻ nên không biết nấu ăn. Cho nên đồ ăn nấu rất tệ. Anh phải công nhận. Nhưng sau này, ở lâu rồi, anh cố gắng hòa mình vào đời sống ở đó, và ăn uống không bao giờ nghĩ ngợi gì hết. Anh ta ăn bất kỳ món gì để trước mặt, và nhờ vậy đã cảm thấy tam hồn càng bình an. Sao đó, anh đã thất sự có được sự thăng hoa về tâm linh, thậm chí không cần Tâm Ấn, minh sư hay gì cả. Có lẽ đó là cách mà nhiều người trong giòng kín của Cơ Đốc giáo hay Thiên Chúa Giáo đạt được ít nhiều khai ngộ. Cho nên anh này đã đạt được quả vị thánh nhân ở một mức nào đó, bằng cách giao phó hết cho Thượng Đế và hoàn toàn chấp nhận bất kỳ vận số gì đến với anh. Nhờ vậy mà đầu óc của anh ta không ba giờ nghĩ ngợi đến việc chuyện nầy tốt hay xấu, có nên thay đổi tập quán hay luật lệ của tu viện hay không, đại khái vậy. Anh ta đã viết ra một số thề nghiệm rất, rất là tốt. Cho nên Sư Phụ (Nguyên văn tôi) ý muốn nói với quý vị rằng tâm đơn thuần là điều rất, rất là quan trọng cho việc tu hành.
0 Comments
Thanh Hải Vô Thượng Sư kể lại tại Cam-Pu-Chia Ngày 27 tháng 3, 1996 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa) Bản tin 96 Nghe Nói có một người đem một chiếc bánh sinh nhật thật to đến cúng dường cho một vị Hòa Thượng. Lẽ dĩ nhiên, sau đó chiếc bánh được cắt làm từng miếng để mọi người cùng ăn. Nhưng kể từ ngày đó về sau, có rất nhiều người đến nói rằng họ là bạn của những người bạn của người đã tặng chiếc bánh này. Họ nói vậy. Hòa Thượng nghe vậy, đương nhiên sẽ cho họ ăn và chỗ ngủ, vì đó là những gì mà họ mong muốn - một nơi ở, một bữa ăn, vì liên quan tới cái bánh. Ðiều này cũng tốt, và vị hòa thượng đã tiếp đãi họ. Rồi rất nhiều người cứ tiếp tục đến, cho tới một ngày vị hòa thượng không chịu nổi nữa. Người thứ 101 đến cũng nói là bạn của một người bạn với người đã tặng chiếc bánh. Ông bèn lấy một ly nước, để sang bên cạnh, lôi ra một ít bột mì, và nói với người thứ 101 rằng "Ðây là những nguyên liệu của các nguyên liệu của các bánh. Tương tự, đa số người ở thế giới này cũng đều nghe lời nói lại. Họ nghĩ rằng có tín ngưỡng, và họ đã được khai ngộ. Buddhist Stories: The Bondswoman Punna, Sư Phụ giảng ngày 15 tháng 9 tại Pháp Quốc Chuyện này xảy ra khi Đức Phật còn tại thế. Đức Phật còn ở tại núi Linh Thưu liên quan đến Punna, người tớ gái của vị chưởng khố thành Vương Xá. Có một ngày Punna phải giã gạo rất nhiều từ sáng sớm đến tận đêm khuya, thắp đèn lên làm cũng không hết việc. Cuối cùng mệt quá, cô bước ra ngoài nghĩ một lát và đứng trước gió, thân thể ước đẫm mồ hôi. Rồi bây giờ vị trưởng lão Dabba Mallaputta có nhiệm vụ đưa chư tỳ kheo về chỗ nghỉ. Sau khi nghe pháp xong, ông làm ngón tay sáng lên để dẫn đường các tỳ kheo về chỗ nghỉ, và ông đi trước, ông dùng lực lượng thiền định làm đèn dẫn đường họ. Ánh sáng khiến Punna chú ý đến các Sa môn đang đi trên đường núi. Cô nghĩ thầm: “Mình lầm thân ở đợ nên giờ này còn chưa được ngủ. Còn các vị tỳ kheo tôn kính kia sao chưa ngủ được?” Cô nghĩ vậy vì đời sống cô thấp hèn, khổ cực thành ra cô không ngủ được. Nhưng tại sao các vị tỳ kheo kia chưa ngủ được, mà đêm khuya đi như vậy? Sau khi nghĩ ngợi, cô đi đến kết luận như sau: “À, chắc là có vị tỳ kheo nào ở đó đau ốm hay bị rắn cắn gì đấy.” Sáng sớm hôm sau, Punna lấy một ít cám, đặt vào lòng bàn tay, nhồi với nước lạnh, nắn bánh chapati và đem nướng trên lò than. Sau đó, cô thầm nghĩ: Ta sẽ ăn bánh trên đường đi đến bờ sông tắm. Cô để bánh trong áo, cầm bình nước, ra chỗ tắm bên bờ sông. Lúc đó Đức Phật cũng đi trên đường ấy, vào làng để khuất thực. Punna thấy vị Phật, cô thầm nghĩ: Có mấy hôm gặp Phật mình không có gì để cúng dường, hoặc khi có đồ cúng dường thì lại không gặp Phật. Tuy nhiên hôm nay mình đích thân gặp Phật, lại là lúc có sẵn bánh đây. Nếu Ngài nhận bánh chapati này mà không để ý bánh ngon hay dở, mình sẽ cúng dường Ngài. Rồi cô đặt bình nước xuống bên đường, đảnh lễ Đức Phật và thưa: “Bạch Tôn Giả, xin nhận phẩm vật đơn sơ này và ban phước cho con.” Vị Phật nhìn sang Tôn giả Anan, Anan lấy bát ra từ dưới áo trao cho Phật. Phật đưa bát và nhận bánh chapati. Punna để bánh chapati vào bát của Phật xong, cô đảnh lễ sát đất và bạch với Phật: “Thưa Tôn Giả, xin cho chân lý Ngài chứng ngộ con cũng được dự phần.” Phật đáp: “Con sẽ được như vậy.” Và đứng ngay tại chỗ, Ngài bài tỏ lời tạ ơn. Nhưng Punna vẫn nghĩ: “Mặc dù Đức Phật ban phước cho ta khi Ngài nhận bánh chapati, nhưng chắc là Ngài không ăn. Chắc Ngài cầm nó đi một quãng đường rồi ném cho quạ, cho chó ăn. Rồi Ngài đến nhà hoàng tử hay quốc vương nào đó nhận thức ăn thượng vị.” Cô nghĩ Đức Phật sẽ không ăn bánh của cô. Ngài chỉ nhận cho cô vui thôi rồi vứt đi. Vị Phật thầm nghĩ: Người phụ nữ này đang nghĩ gì? Đức Phật biết Punna nghĩ như thế, nên Phật nhìn Tôn giả Anan tỏ ý muốn ngồi xuống. Tôn giả anan trải tọa cụ và mời Phật ngồi. Đức Phật ngồi xuống ngoài cổng thành và ăn điểm tâm. Chư thiên các cổng trời bèn đổ mật thức ăn thích hợp cho cả trời lẫn người trên khắp các cõi, vào chiếc bánh của Phật. Punna đứng nhìn Ngài thọ thực. Khi Thế Tôn dùng xong điểm tâm Tôn Già dâng nước. Khi Thế Tôn dùng xong bữa sáng, Ngài quở Punna: “Này Punna, tại sao ngươi phỉ báng đồ đệ của ta?” - Bạch Thế Tôn, con đâu có. - Vậy ngươi nói gì khi thấy họ? - Bạch Thế Tôn, con nghĩ đơn giản rằng con bị buộc phải làm việc nên không đi ngủ được. Còn các sa môn tôn kính kia vì sao không ngủ? Nhất định là một vài vị ở đó có bệnh hoặc bị rắn cắn chi đây. Thế Tôn nghe xong dạy Punna: “Này Punna, trường hợp ngươi khổ sở vì không được ngủ, Nhưng các đệ tử của ta luôn luôn tỉnh giấc nên không ngủ.” Rồi Ngài đọc bài kệ như sau: “Những người thường giấc tỉnh, ngày đêm siêng tu học, chuyên tâm hướng Niết Bàn, Mọi lậu hoặc được tiêu.” Sau khi Phật khai thị xong, Puna, dù đứng đó, liền chứng sơ quả. Hội chúng cũng được lợi ích. Tâm linh của cô được thăng hoa. Đức Phật ăn xong chiếc bánh Chapati mà Punna đã làm bằng bột cám nướng trên lò than, bếp lửa, rồi trở về tịnh xá. Các tỳ kheo bắt đầu bàn tán trong thiền đường, Chư huynh đệ, chắc hẳn Đấng Giác Ngộ Tối Thượng đã ăn sáng khó nuốt lắm vì dùng bánh của Punna làm bằng bột cám, bà nướng bằng than cúng dường Ngài.” Lúc đó Phật đến gần hỏi họ: “Này các tỳ kheo, các ông tụ họp ở đây nói chuyện gì vậy?” Khi nghe kể lại, Ngài nói: "Này các tỳ kheo, đây không phải là lần đầu ta ăn bột cám mà Punna cúng dường; sự việc này cũng đã xảy ra vào thời quá khứ.” Và Ngài kể lại chuyện tiền thân của Ngài Kundakasindhavapotaka. DVD 151F Trò chơi của Thượng Đế, Sư Phụ Kể Chuyện Ngày xưa, ở một cái làng nọ, có một con rắn rất lớn và rất dữ tợn. Nó bắt gà ăn thịt, Nó cắn nhiều người trong làng cho nên ai cũng rất sợ nó. Một ngày nọ có một nhà sư đến dựng một túp lều ở gần hang con rắn đó mà tu hành. Mỗi ngày ông rất châm chỉ ngồi thiền, và ông đã cảm hóa được con rắn đó. Con rắn cũng muốn tu hành, cho nên ông dạy nó là phải giữ năm giới luật: không được cắn người ta, không được sát sanh, phải ăn chay vân vân và vân vân. Kể từ ngày đó, con rắn trở nên rất hiền từ. Mỗi khi ông sư thiền nó cũng thiền chung với ông. Một ngày nọ, ông sư có chuyện đi xa vài ngày nên dặn con rắn ở nhà phải ráng tu hành. Khi ông đi rồi thì có mấy đứa nhỏ trong xóm tới lều thấy con rắn đang có thiền. Con rắn bây giờ rất hiền nên mấy đứa nhỏ tới gần nó, đụng nó thấy nó cũng không phản ứng gì. Mấy đứa nhỏ bèn nằm lấy đuôi nó quay vòng vòng rồi liệng nó xuống, xong rồi lấy đá liệng nó đến mình mẩy sưng vù hết chóng mặt mệt đức hơi sắp chết rồi. Tôi lúc ông sư trở về thấy vậy mới hỏi nó: “Bộ mày đi đánh lộn với mày mấy con rắn khác hả? Sao mà mình mầy bị sưng dù vậy?” Nó mới nói là tại 5 giới luật đó. Cho nên mấy đứa nhỏ nó liệng tôi mà tôi cũng ráng giữ giới luật làm thinh nên mới như vậy. Ông sư mới nói: “Trời ơi, ta bảo ngươi đừng cắn người ta, chớ ta đâu có cấm mi hù dọa mấy đứa nhỏ để cho nó đừng đánh ngươi.” Cho nên, nên biết rằng tu hành không cứ nằm yên đó không phản ứng gì cả. Gặp trường hợp nào thì phản ứng theo trường hợp đó miễn là mình không có lòng ác là được. Giới luật là để bảo vệ con người chớ con người không phải để bảo vệ giới luật. BMD 790 Sư Phụ kể ngày 27 tháng 12 năm 2008 tại Pháp Quốc Ngày xưa, lâu lắm rồi, có một cô gái xinh đẹp tuyệt vời. Nhưng mà cô nầy tuy đẹp mà không có may mắn lắm. Cho nên tuổi còn trẻ mà cha mẹ mất sớm. Cô gái phải đi làm thuê, làm mướn, để mà kiếm ăn qua ngày. Tuy cô gái nghèo, nhưng mà nết na hiền dịu, cho nên mọi người xung quanh đều thương mến. Và họ còn trầm trồ khen ngợi nữa. Bao nhiêu bậc cha mẹ muốn cưới cô gái đó về làm con dâu. Có bao nhiêu người sai mai mối tới dạm hỏi rồi, nhưng cô gái chưa có nhận lời ai cả. Tiếng đồn cái sắc đẹp nết na của cô vang khắp mọi nơi hết. Ở làng kia có một ông nhà giàu, dinh cơ rất là đồ sộ, nhà ngang dãy dọc tấp nập người ăn kẻ hầu, trâu bò ruộng vườn không đếm hết. Ông ta có đến 5, 7 bà vợ. Nhưng mà ông chỉ sinh được có một đứa con trai. Con trai của ông năm nay tới tuổi trưởng thành. Và muốn cưới cô con gái mà coi đẹp mà nết na. Anh ta nhờ một người mối lân la tới nhà cô kia để mà dạm hỏi. Bà mai nầy tìm cách làm quen với cô gái. Cô gái nầy nghèo nàn cho nên hơi tủi phận, cho nên ban đầu cô cứ trốn tránh hoài, nhưng sau đó bà mối nói riết rồi cô gái cũng chịu. Hai người được an bài để gặp nhau. Anh chàng thề non hẹn biển không bao giờ đổi lòng. Cho nên cô gái nhận lời cầu hôn của anh chàng đó. Sau đó thì cô nghĩ rằng mình sao may mắn quá được nâng khăn sửa túi cho người mà mình thương yêu. Và người thương yêu cũng là người có địa vị nữa. Nhưng bà mối này không tốt. Cái anh chàng nhà giàu cho bà bao nhiêu tiền cũng không đủ hết. Bà tham quá. Bà đã làm mối cho cô gái nghèo rồi, sau này bà thấy cái vùng gần bên có một cô gái khác, nhà rất giàu, nhưng mà xấu, xấu xí lắm và lười biếng nữa, cho nên ế chồng. Mụ mối bèn tìm tới đó để mà tỉ tê với cô ta. Cô này mừng quá, vội vàng đem ra nhiều vàng, nhiều bạc để mà thưởng cho bà đó, nhờ bà đó tác thành đôi lứa cho cô ấy với cái anh chàng nhà giàu bên kia. Từ hôm đó bà mai đến nhà anh chàng nhà giàu kia nói xấu về cô con gái nhà nghèo đó, thiêu dệt đủ thứ hết, nói rằng cô kia không có chung thủy lang chạ với anh chàng nào đó trong làng. Anh chàng nhà giàu nầy mặc dù có phải lòng cô kia, nhung tánh không được tốt lắm, cọc cằn, tham lam nên nỗi máu ghen tuông và tức giận cô gái nghèo. Rồi trong khi đó thì bà mai cứ tâng bốc cái cô gái nhà giàu mới đó, khen cô nầy đủ thứ hết. Không bao lâu, mưu kế của bà thành công. Anh chàng kia giận quá mất khôn chán ghét người của mình yêu. Không chịu dò xét, hỏi han kỹ lưỡng gì hết cứ đổ cho người yêu là hư hỏng rồi một mục từ hôn. Sau đó ít lâu, đưa trầu cau dạm hỏi cô gái nhà giàu. Từ ngày cô gái nhà nghèo bị hất hủi đó, thì cô buồn tủi đau ốm nằm liệt giường. Làm sao giải bày, anh chàng cũng không nghe, càng giãi bày thì anh chàng càng nghi ngờ thêm. Buồn quá nên càng ngày càng đau ốm. Ngày đám cưới của 2 người kia thì cô buồn quá mức. Cho nên vì một phút quá đau lòng, không suy nghĩ, có nhảy sông tự tử. Cho nên cô chết rồi thì linh hồn không siêu thoát được. Xuống diêm vương thì cô đi kiện anh chàng kia. Sau bao nhiêu năm trời, thì hai vợ chồng người nhà giầu cũng chết, bà mối cũng chết xuống Diêm Vương. Diêm Vương hiểu rõ chuyện của mọi người rồi, cho nên bắt họ phải đầu thai trở lại dương thế để trả nợ. Bà mai đầu thai làm con gái của một nhà phú ông giàu có, được cha mẹ đặt tên là Kiến. Anh chàng mà phụ tình kia đó, được thoát sinh là một anh học trò nghèo, không một tấc đất cắm dùi. Cô Kiến này rất đẹp và rất thông minh, nhưng mà cha của Kiến thì rất là tham lam, độc ác. Ông chẳng coi ai ra gì, hàng xóm ông khinh rẻ lắm, chỉ có trọng tiền tài và danh vọng. Bây giờ cô Kiến đã đến tuổi cập kê rồi, nhưng mà ông vì còn tham lam quá đi, đám nào tới, ông cũng chê hết, đợi đám nào mà giầu hơn, danh vọng hơn, sang trọng hơn mới chịu gả, cứ đợi hoài, đợi hoài. Đã có biết bao nhiêu người ngấp nghé nhưng mà chàng nào cũng bị phú ông chê là nghèo, không chịu gã con gái. Gần nhà của phú ông này, có một anh thư sinh trọ học, anh chàng học trò tướng mạo khôi ngô đẹp đẽ, học giỏi, văn hay, nhung nghèo rớt mồng tơi. Anh chàng này đã bao lần vác lều chõng đi thi, nhưng mà đường công danh cũng rất là lận đận, cho nên thi không đậu. Và bài của anh chàng nổi tiếng khắp kinh kỳ, mà sao hễ cứ vào trường thi, là bị loại ra ngay. Bởi tại sao mà anh chàng không đậu được? Tại vì oan hồn của người bạc mệnh làm cho anh ta sinh ra đủ chuyện hết. Mỗi lần đi thi nếu không đau bụng thì cũng phạm trường quy, không phạm trường quy thì cũng nhức đầu lăn lóc. Mỗi lần không đậu là một lần chàng học trò buồn bực đau khổ, cộng thêm sự nghèo khổ nữa. Tại vì hồi xưa đi học đâu phải là dể đâu. Phải kiếm thầy dạy, và lúc đi học thì đâu có làm ra tiền được. Cho nên anh chàng càng khốn đốn. Thế nhưng chẳng biết từ lúc nào đó, anh chàng học trò đó được cô Kiến để mắt tới. Đúng là oan gia nghiệp chứng. Bây giờ, cô Kiến này rất là mê anh học trò này. Cho nên cha mẹ ngăn cấm cách nào cũng không được, lúc nào cũng kiếm cách trốn ra để đi gặp cái anh học trò. Hai người còn thề một lòng son sắc với nhau suốt đời răng long tóc bạc. Nhưng mà mỗi lần gặp nhau thì Kiến cứ nghĩ tới cha của mình là hết hy vọng, tại vì ông cha lúc nào cũng nói rằng: “Không đời nào ta lại gả con gái thiên kim của ta cho anh chàng nghèo sơ, nghèo xác.” Sau bao nhiêu đêm mất ngủ, nàng Kiến mới lập mưu ăn trộm tiền bạc của cha, mua vàng đúc thành một hình củ khoai, rồi nàng khéo bảo anh học trò giả làm người ăn xin, đến nhà phú ông nàng sẽ tận tay trao cho cục vàng ấy để dùng làm đồ sính lễ. Anh chàng học trò nghèo liền giả dạng ăn mày, mang bị gậy đến tận nhà phú ông. Vừa vào đến ngõ đã bị một đàn chó vây xung quanh sủa om sòm. Anh chàng run như cầy sấy định bỏ chạy, nhưng mà nghĩ tới người yêu cho nên buộc lòng phải lấy hết can đảm bước vào. Cô con gái phú ông đã bê rổ khoai đợi sẵn, trút vào bị của anh chàng, trong đó có giấu một cũ khoai bằng vàng. Ít lâu sau, anh học trò nghèo nhờ người mối đến nhà phú ông để hỏi Kiến làm vợ. Phú ông nỗi giận quát đuổi người mối ra, nói: “Con gái của ta không phải để gả cho cái tên khố rách áo ôm.” Nhưng mà khi nghe nói sính lễ sẽ là một cũ khoai to bằng vàng, ông cha cũng vui lòng, nghĩ rằng nếu mà anh chàng này có một cũ khoai bằng vàng thì chắc nhà còn giấu nửa, phải không? Ông nghĩ rằng anh chàng này chắc còn giấu của ở đâu đó. Mà anh chàng cũng học giỏi văn hay nữa thì sau này biết đâu con gái của mình cũng sẽ làm bà lớn. Suy nghĩ rồi ông lão bằng lòng gả con gái cho anh học trò đó. Khi mà cái tin của anh học trò nghèo đó mà loan ra khắp mọi nơi rằng anh đi cưới vợ bằng một cũ khoai vàng thì ai trong làng trong xóm cùng xôn xao bàn tán hết. Cho nên ngày đi hỏi vợ đó ha, ai cũng kéo tới nhà ông phú ông để xem cái sự lạ lùng. Khi họ nhà trai bưng lễ đến, mọi người đổ xô ra xem để biết chàng rể của cái ông nhà giàu đó có của ngầm như thế nào. Củ khoai vàng anh chàng gói 3, 4 từng vải hồng điều, không ngờ khi mở ra thì không thấy vàng đâu hết, mà chỉ thấy một cũ khoai lang luộc. Ai cũng chưng hửng mà rồi tự nhiên ai cũng cười bể bụng hết, nghĩ rằng anh chàng nầy chơi cái trò bịp, hay là chơi trò khôi hài. Phú ông thì dĩ nhiên tức giận la lối um sùm, đuổi chàng rể ra lập tức. Anh chàng này không biết tại sao mà có sự lạ lùng như vậy, buồn rầu xấu hổ, bỏ đi luôn một mạch không về nhà. Biết tại sao cũ khoai vàng thành củ khoai luộc không? Đó là do oan hồn của cô kia khiến ra như vậy để mà cho nó ngang bằng. Nợ nần phải sạch sẽ. Anh chàng buồn bã bỏ đi mất tiêu, còn cô con gái này, cô con gái của ông nhà giàu thì nghĩ rằng người yêu phụ bạc, tráo trở lấy củ khoai lang vàng để đi ra ngoài đặng làm giàu, hoặc là đi kiếm người khác, còn tráo trở lấy củ khoai lang luộc để mà gạt gẫm cô ta và bỏ cô mà đi. Cho nên cô tức tối quá thành bệnh mà chết. Chết rồi, xuống đến ám phủ thì cái cô cả này cũng đi kiện với Diêm Vương về việc cái cũ khoai vàng. Diêm Vương đã dở hồ sơ ra, và vạch cho cô thấy những cái tội lỗi ở kiếp trước. Cho nên cô ta chẳng kêu vào đâu được nữa. Vì vậy mà mọi người mới truyền tụng nhau với câu rằng: “Cái kiến mầy kiện cũ khoai” Còn cô gái nhà nghèo thì được đầu thai trở lại được Diêm Vương cho thành một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. Sau này lấy được một người chồng giàu sang phú quý. Và con cái sinh ra đều ngoan hiền, giỏi dang, sống với nhau hạnh phúc đến trọn đời, răng long tóc bạc. BMD 790 Sư Phụ kể ngày 27 tháng 12 năm 2008 tại Pháp Quốc Có hai anh chàng kia, sống ở nhà quê chán rồi, rủ nhau đi lên thành thị để làm ăn. Tại vì họ nghĩ rằng ở nhà quê thì làm vừa đủ ăn thôi chứ không bao giờ dư được gì hết. Nghĩ như vậy, nên họ tính lên thành thị để mà buôn bán phát đạt làm giàu cho lẹ. Thì dĩ nhiên, lên thành phố một hồi lâu, hai người cũng thông minh nên làm ăn phát đạt. Nhưng cũng phải mất thời gian đến hơn 30 năm dài phấn đấu mệt mỏi. Thì hai người này đã tạo dựng một cơ nghiệp rất là sung túc. Một người thì làm chủ hãng xe con bò. Một người thì làm chủ tiệm nhà hàng. Hai người là bạn, bạn nối khố tự hồi nhỏ cho nên dù thành công hai người vẫn tiếp tục là bạn thân với nhau. Hai người kia tự nhiên có một lần nhớ nhà. Ngồi chơi nói chuyện uống trà rồi nhớ nhà. Muốn trở về nơi chôn nhau cắt rún. Thăm lại những làng xưa quê cũ. Khi cái xe hai người mới về đến làng, hai người xuống xe đi bộ để mà ngắm nghía cảnh quê hương hồi xưa. Tự nhiên đang đứng ngắm phong cảnh, thì có một ông già, râu tóc bạc, bận áo trắng, tay cầm một chiếc phèn la. Tự nhiên ông già đó tới gần bên hai người kia, chào hỏi. Hai người kia mới hỏi: “Ông lão ơi, ông lão đến đây làm gì?” Thì ông lão trả lời một cách điềm nhiên rằng: “Ta là Thần Hoàng giữ phần phức họa cho làng này. Ngoài việc giữ sự yên ổn cho dân chúng, ta còn cai quản vấn đề sinh tử của mọi người nữa. Ta đến báo cho hai người biết là mạng sống của các người chỉ còn có 3 ngày.” Cái này không phải là Sư Phụ bên trong mà cái ông Thần Hoàng ông báo thì mệt lắm đấy. Lại báo là cũng tốt lắm rồi. Ít ra hai người này cũng có chút phước báu mới được như vậy. Thường thường mấy người nào mà sắp đi là cứ chết thôi. Ông nói rằng: “Ba ngày sau, ta sẽ đến đón 2 ngươi về cõi âm. Khi mà ta đến thì ta sẽ nỗi một hồi phèn la. Khi 2 người nghe cái tiếng phèn la thì phải đi theo ta lập tức mà trở về trình diện Ngài Thập Điện. Thập Điện tức là Diêm Vương. Không được chậm trễ.” Nói xong ông lão nầy biến mất, để lại 2 anh chàng đứng ngớ ra, rất buồn bã lo lắng không yên. Anh chàng thứ nhứt nghĩ rằng: “Cuộc đời gì đâu lạt lẽo quá, không có gì kêu bằng hứng thú cả. Cho nên anh chàng cảm thấy rất là chán đời, không muốn làm gì nữa hết. Cho nên về tới nhà, nằm đó thở dài, ăn không ngon, ngủ không yên, mà cũng chẳng lo lắng sắp xếp gì được, chẳng thăm viếng bà con gì hết. Anh chàng cảm thấy hết muốn sống rồi. Tiền bạc nhiều như vậy, không có đổi được mạng sống của mình. Bây giờ mới cảm thấy thân mình rất là đáng quý. Buồn quá, chưa tới ngày mà mặt như thây ma rồi. Bơ phờ, nhăn nhíu, râu ria mọc lung tung. Cặp mắt thì đờ đẫn không có thần gì hết. Ngày thứ ba, anh chàng thức dậy thiệt sớm, lựa một bộ đồ đẹp nhất, mắc tiền nhất, đứng đợi ở ngoài cửa. Quả nhiên cái ông lão mặc áo trắng cầm phèn la bữa hôm trước đó tới. Ông chưa kịp đánh phèn la, anh chàng xỉu xuống chết luôn. Còn anh thứ nhì, sau khi mà nghe ông già tuyên bố cái bản án là tử hình đó, thì anh cũng thấy rất buồn, nhưng mà tánh tình của anh chàng này rất là hiền hậu và an phận. Anh nghĩ rằng: “Thôi, không sao đâu, tới lúc nào chết thì chết. Chớ bây giờ cải cũng không được.” Cho nên anh chàng nghĩ rằng: “Thôi bây giờ đem hết tiền bạc mà mình tạo dựng được trong 30 năm đó, đem ra bố thí cho người ta. Chớ bỏ chi uổng. Rồi, anh lấy tiền đó bỏ ra để cất một cái trường học ở quê nhà của mình để cho những trẻ em nghèo khó có nơi học hành. Rồi giao một mớ tiền khác cho quí vị trong xã, xây một bệnh viện nhỏ để giúp những người dân quê. Không có tiền để mà lên tỉnh trị bệnh đó. Của cái còn lại mang ra phụ giúp việc làm đường hay làm cầu, mang lại tiện nghi cho đời sống của mọi người dân ở thôn làng của mình. Tại dân thôn dã họ cũng nghèo. Anh cũng trích ra thêm một phần để giúp đỡ những gia đình con đông, không đủ sống đang cần sự trợ giúp cấp thời. Những công việc này đã tồn hết thời gian 3 ngày rồi. Cho nên anh B không còn thời giờ để mà nghĩ tới chuyện gì hết. Và cũng quên mất cái ông già kia luôn. Những người dân nghèo khổ trong làng thốt nhiên nhận được những sự bố thí và giúp đỡ lớn lão cho nên họ rất lấy làm cảm động. Nên họ tổ chức bữa tiệc để mà cảm tạ anh chàng này. Cho nên mọi người hùn lại. Một buổi hội hát hò đó mà. Anh chàng thứ nhì bố thí cho người dân nhiều lắm cho nên người dân mừng quá tổ chức một buổi hát bội ngoài trời. Để mà cảm tạ Trời Đất nữa. Cả làng xúm lại coi, mấy làng gần bên cũng đến coi luôn. Trong lúc đang hát vui thì ông già tử thần xuất hiện để đón anh chàng đi về cõi âm. Nhưng mà không khí trước nhà vui quá. Phèn la cũng đánh rầm rầm lên. Cho nên ông già ổng đánh bao nhiêu đâu có ai nghe đâu. Anh chàng thứ nhì mãi mê coi hát, rồi quên luôn. Mà anh chàng ngồi trước nữa với bao nhiêu người bao xung quanh. Ngồi ghế danh dự mà. Ông già đứng đánh phèn la hoài. Có một chàng thanh niên trong làng dòm thấy cái ông già mà đứng đánh phèn la đó. Có một mình anh ta thấy thôi. Người này đâu phải là người thường giống mình đâu, đâu phải ai cũng thấy đâu. Tự nhiên có một anh chàng thanh niên trong làng thấy ông cầm cái phèn la, anh tưởng đâu ông này trong ban nhạc nên kéo ông già vào trong đám đánh trống thổi kèn để đánh phèn la với mấy người kia. Không ai nghe hết. Ông đánh nhiều đợt mà chẳng ai chú ý tới ông hết. Người ta vỗ tay. Ông đánh một hồi mệt quá và cũng hết giờ rồi nên xách phèn la đi về. Rồi thì mọi người ăn uống linh đình, vui cười cả đêm. Sáng hôm sau, anh chàng thứ nhì thức dậy cũng quên mất luôn tiếp tục làm những công việc từ thiện mà anh chưa làm xong. Mấy ngày sau anh chàng mới nhớ là sao qua 3 ngày rồi mà sao không thấy ông già đến lôi mình về âm phủ vậy? Nên anh chàng này vẫn tiếp tục sống bình thường. 714 Dogs Are Wonderful Beings Có một chuyện vui này nói về một con rùa, rất chậm. Có một đoàn thú vật sống trong một khu rừng. Lúc đó đang bị hạn hán và nạn đói, nên nhiều con bị chết. Cho nên những con vật nầy hợp lại với nhau, nói rằng: “Hoàn cảnh thật là bi thương. Chúng ta phải hy sinh. Chúng ta phải ăn thịt nhau để sống.” Ăn một số con vật. Rồi ai cũng đồng ý. Thế là mấy con đó làm một cuộc thi, phải kể chuyện vui. Con nào kể chuyện vui thì phải kể cho vui, và mọi thú trong nhóm phải cười. Nếu chuyện không đủ vui, dù chỉ một con không cười trong cả nhóm, thì con đó sẽ bị ăn thịt; người kể chuyện đó sẽ bị ăn thịt. Rồi, được. Con thứ nhất là con voi lên kể chuyện, ô chuyện buồn cười quá, buồn cười quá! Ai cũng cười, cười lăn lóc bò càng. Trừ con rùa! Con rùa không cười. Nó cứ ngồi yên đó, nhìn con voi. Người nào cũng thấy tội nghiệp. Chuyện vui như vậy, nhưng luật là luật, nên mấy con đó ăn thịt con voi. Người kế, một con khác lên kể chuyện. Con nai kể chuyện cũng vui quá! Ai cũng cười, bò lăn dưới đất, cười đau bụng. Con rùa không cười. Cứ ngồi đó. Luật là luật, họ tội nghiệp cho con nai hiền hòa, nhưng họ ăn con nai. Rồi tiếp tục, tiếp tục như vậy cho tới khi chỉ còn vài con còn lại. Đến phiên con khỉ kể chuyện vui. Nó run rẩy, không dám mở miệng, đâm đâm nhìn con rùa. Không biết bắt đầu làm sao. Bỗng nhiên con rùa phá lên cười: Ha-ha-ha! Ha-ha-ha! Buồn cười quá! Chuyện vui con voi kể buồn cười quá!” BMD 879 – The Gratitude of a Fox Chuyện này nói về một người rất tử tế, rất tốt bụng. Vốn không mấy đạo đức hoặc không tiến hóa bao nhiêu về tâm linh. Theo chuyện này thì anh ta mới đầu là một người bán rượu. Không biết loại rượu mạnh hay nhẹ. Có loại không có chất rượu. Một hôm anh thấy một con ong. Con ong rơi vào một hũ rượu của anh. Anh thấy tội nghiệp con ong, mới lấy một cái đũa mang con ong ra, cho nó leo lên rồi để nó ra ngoài sân. Một hồi sau, con ong hết ước, không say nữa và bay được. Từ đó trở đi, mỗi khi thấy ong mật rơi vào rượu là anh ta lấy nó ra, tại anh thấy con đầu tiên anh lấy ra nó vui vẻ bay đi. Nó làm anh cảm thấy cũng rất vui như chính mình được thả ra vậy. Những gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Vài năm sau, một hôm bỗng nhiên lính tráng đến nhà anh này. Không hỏi, không giải thích gì cả, họ trói anh ta lại mang anh ra quan phủ. Sau này anh mới biết là mình bị vu cáo bởi một số người bất lương, bởi vậy mà bị quan lớn bắt. Chuyện này xảy ra hoài. Nhưng anh không chống lại được cái sự vu cáo đó. Đôi khi người khác bịa đặt nỗi oan cho mình. Đó là âm mưu mà đưa vào nhân chứng và bằng chứng để phán xét. Thế là quan huyện tính cho anh án tử hình. Khi sắp sửa ký tên, đóng dấu thì bỗng nhiên nghe đàn ong từ đâu đến. Mới đầu còn ở xa xa, rồi càng lúc càng gần, càng lúc càng nhiều. Cả tòa án đầy ong. Đàn ong bay đến phóng thẳng tới cây viết của quan toà. Càng lúc càng nhiều ong bay đến phóng thẳng vào cây bút. Cố gắng cách nào cũng không đuổi được bầy ong. Nhiều quá đuổi không xuể. Ông cứ đập bút vào đầu và thân của bầy ong. Càng lúc càng nhiều cứ tiếp tục bay đến. Bỗng nhiên viên quan huyện nầy tỉnh ngộ. Sao lại có hiện tượng lạ thế này? Ông nghĩ lại thấy kỳ lạ quá. Ông nghĩ: “Có lẽ người này bị oan.” Ông nói: Thôi được. Ngưng.” Không ký bản án tử hình nửa. Ông đình chỉ vụ này. Rồi ông triệu nguyên cáo đến thẩm vấn lại. Càng hỏi, ông càng cảm thấy kỳ. Lời khai của người này không hợp với nhau. Lời nguyên cáo nói không có phù hợp. Có khi thế này, có khi thế kia, không có gì chính xác. Đôi khi còn trái ngược nhau. Thành thử quan huyện này cứ tiếp tục chất vấn. Sau một hồi tra hỏi, ông khám phá ra rằng người bán rượu này không có liên can gì đến nguyên cáo cả. Anh ta chưa hề gặp nguyên cáo kia. Nguyên cáo tùy tiện bịa chuyện để vu khống người tốt không lý do. Quan huyện bây giờ cảm thấy người này chắc là vô tội. Cho nên ông không ký bản án. Ông rút bản án lại, xé lá thư tố suýt làm cho người bán rượu kia bị tử hình. Sau đó bầy ong bay hết không cần đuổi. Vị quan cảm thấy lạ quá, thật ngạc nhiên. Ông tiếp tục hỏi người bán rượu. Anh kể cho ông ta nghe chuyện mình đã cứu mấy con ông hồi trước. Có lẽ lý do đó. Nghe vậy quan huyện hiểu rõ hơn là người này thật sự tử tế cứu cả ong nữa. Thì làm sao có thể cướp của, giết người v.v.? Ong mà anh ta còn cứu. Nếu một người không giết thậm chí một con ruồi thì làm sao họ có thể giết người? Ông quan toà ngạc nhiên nói: “Ai tưởng tượng nổi? Hôm nay anh được tha mạng là vì anh đã cứu mạng nhiều con ong. Mạng anh được cứu là nhờ những con ong kia đến khiến tôi phải xét lại vụ kiện nầy lần nữa. Bằng không, bị kết án là anh đã xong đời.” Ông quan khuyên người bán rượu làm việc thiện nửa từ ngày đó trở đi. Việc này cũng coi như là phóng sinh thú vật. Thì chắc chắn anh sẽ được phước báu nữa.” Người bán rượu về nhà và tiếp tục làm thêm việc thiện. Anh cũng đổi sang nghề bán rượu chay. Anh sống rất lâu, và qua đời một cách thanh thản không bệnh hoạn gì. BMD 1009-2 Be Loving And Kind Bên Âu Lạc có một trạng nguyên rất thông minh. Và người Trung Hoa thường cố tìm cách hạ nhục đất nước chúng tôi, khiến người dân chúng tôi cảm thấy mình ngu muội, thấp kém này nọ. Thành ra họ thường phái những người thông minh sang triều đình chúng tôi, và hay thách thức người dân chúng tôi nầy kia. Một ngày nọ xảy ra một chuyện ngớ ngẩn. Không biết sao họ lại ngớ ngẩn như vậy. Họ mang theo sợi dây thừng dài chừng này đến. Khoảng một mét rưỡi. Rồi họ đố triều đình chúng tôi làm sao cho sợi dây nầy ngắn đi mà không cần phải cắt. Thế là tất cả mọi người trong triều vua và quần thần vô cùng nhức đầu nhức óc. Vua và quần thần bèn triệu chàng trạng nguyên thông minh nầy, nhưng anh chàng cũng láu lỉnh lắm. Đôi khi chàng ta chế nhạo vua và quần thần khiến họ không làm gì được. Vì chàng ta quá thông minh, nên họ không làm gì được. Khi đến nơi, chàng ta nói: “A! Dễ thôi mà! Hãy báo sứ giả Trung Hoa kia ngày mai tới. Tôi có cách.” Thế là vua và các quan đều hỏi: “Cho chúng ta biết đi!” Chàng ta nói: “Không được đâu. Ngày mai các ngài sẽ biết. Bây giờ không nói được, bí mật thiên đàng! Thiên cơ bất khả lộ.” Người ta hay nói như vậy. Hôm sau tất cả quần thần đều tới diện kiến. Sứ giả Trung Hoa đặt sợi dây lên bàn. Mọi người lặng nhìn. Sứ giả nói: “Bây giờ ngươi hãy làm cho sợi dây ngắn lại mà không được cắt, không được làm hư gì hết.” Trạng Quỳnh nói: “Chà thật ngớ ngẩn! Tôi không ngờ hoàng đế Trung Hoa lại phái người sang tận đây chỉ vì việc này. Thậm chí đứa trẻ 5 tuổi cũng biết cách thắng ông.” Vì sứ giả Trung Hoa phẫn nộ: “Ngươi giỡn chơi à?” Anh ta nói: “Không, ta không giỡn!” Rồi anh ta gọi đứa con trai năm tuổi tới. Cậu bé cầm sợi dây thừng dài hơn, để bên cạnh sợi dây kia. Thấy chưa, nó ngắn hơn! Anh chàng này, đôi khi hay chế nhạo vua quan. Lần nó, một thầy bói trong triều, mấy kẻ nịnh thần, chuyên nói nọ nói kia. Có lần thầy bói nói: “Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ sẽ sống rất, rất trường thọ! Thần mừng thay cho đất nước chúng ta. Chúng thần rất có phước báu mới có được một vị vua trường thọ.” Quần thần hỏi: “Sau ông biết?” Nhà vua cũng hỏi: “Sao ngươi biết?” “Là vì mũi của bệ hạ rất dài, dài hơn trán của ngài. Trong sách tử vi thời xưa, có cuốn kinh bí mật mà thần có, chỉ một mình thần có mà thôi, sách nói rằng nếu người có mũi dài, dài hơn càm và trán thì sẽ rất thọ. Mũi càng dài, càng thọ, càng tốt.” Mọi người đều tung hô: “Thánh thượng vạn tuế!” Rồi quỳ xuống, vỗ tay, nịnh hót. Ngoại trừ chàng trạng nguyên. Chàng ta cứ đứng đó cười ngặt, cười bò lăn, bố càng, cười nghiêng ngả. Cười hoài không thôi. Mọi người năn nỉ chàng ta ngừng cười và hỏi vì sao lại cười hoài như vậy. Cuối cùng, nhà vua phán: “Bây giờ nhà người hãy nói cho ta biết vì sao ngươi cười?” Chàng ta đáp rằng chàng ta cười vì đang nghĩ tới ông Bành Tổ. Gióng Noah trong kinh sách. Nghe nói ông sống hơn 800 tuổi. Bành Tổ cũng sống 800 tuổi. Bành Tổ bên Trung Quốc. Cho nên chàng ta cười. Vừa hỏi: “Nhưng vì sao người lại cười vị đó?” Chàng ta đáp: “Vì vị đó sống 800 tuổi! Thử tưởng tượng xem mũi của vị đó trông sẽ như thế nào!” Và Bành Tổ chỉ là một người bình thường. Ý chàng ta là điều đó thật vô lý. Thấy không, chàng ta hay chế nhạo người khác như vậy đó. Mà nhà vua và mọi người không làm gì được. Vì chàng ta quá thông minh, nói đúng và hợp lý quá. Vì chàng ta nói có lý quá, khai ngộ quá, bởi vậy. Có lần, nhà vua vô cùng ghét anh chàng này. Có lẽ sau vụ việc đó hay việc khác, mà anh ta chế nhạo nhà vua, nên ra lệnh tất cả quân lính trong triều tới nhà anh chàng trạng nguyên này, và làm bậy khắp vườn nhà hắn. Rồi, chàng ta lặng thinh, chỉ nói: “Nếu là lenh vua thì cứ việc làm. Nhưng ngài chỉ lệnh cho các anh đại tiện trong vườn nhà ta, chứ ngài không bảo các người đi tiểu, các người không được đi tiểu. Người nào tiểu tiện, ta sẽ phạt! Nếu trái lệnh vua là bị chém đầu.” Nhà vua quên, ông chỉ nói: “Đại tiện khắp nơi cho ta.” Thế là mọi người phải cố kiếm gì đó để đựng nước tiểu. Chàng ta đã chuẩn bị sẵn vỏ dừa, và bán cho họ rất đắt tiền. Họ phải mua thôi. Đâu còn cách nào khác. Mấy tháng sau, chàng ta tới xin được diện kiến nhà vua. Vì chàng ta mới thu hoạch được khoai lang tươi ngon, và muốn dâng lên vua, vì đây là thu hoạch đầu mùa. Dĩ nhiên nhà vua rất thích thú vị anh chàng này đã tới khúm núm trước mặt ta, tỏ lòng khiêm nhường, phục tùng và tôn kính. Bây giờ hắn đã học bài học của hắn. Được rồi, cho hắn vào! Anh chàng trình lên vua một rổ khoai lớn, với những cũ khoai vô cùng lớn, và khoai đã luộc chín sẵn. Nhà vua liền ăn ngay, còn chia cho các quan trong triều. Ai cũng được ăn. Chàng ta biết bao nhiêu người rồi. Mọi người một cũ, ăn vô tấm tắc khen ngon tuyệt. Chàng ta còn mang cả trà cho họ uống nữa. Nên họ phải ăn ngay, mở tiệc đãi ngay tại chỗ, ngon quá chừng. Sau khi ăn xong, vua nói: “Ô, ngon thật! Cảm ơn nhà người nhiều lắm. Sao ngươi trồng được loại khoai lớn như vậy? Trong vương quốc chúng ta chưa bao giờ có loại khoai thế này!’ Chàng ta đáp: “Tâu bệ hạ, đó cũng là nhờ ân điển của ngài. Ngài cho quân lính tới đại tiện trong vườn của thần. Sau đó, khoai mọc lên trên hút hết những chất mầu mỡ nên mới to được như vậy.” Nhà vua và mọi người nghe xong rất tức giận Nhưng không làm gì được ông. Họ đã ăn rồi còn khen ngon nữa. Nhà vua chỉ còn biết đuổi hắn về nhà. Còn một lần nữa, chàng ta thiếu tiền. Vì nhà vua không ưa chàng ta nên không được trọng dụng dù chàng ta là trạng nguyên tài ba nhất trong nước. Vì họ mở một kỳ thi, vua và tất cả những vị thầy giỏi nhất trong nước mở kỳ thi. Tất cả mọi người nghèo giầu đều được tham dự. Ai giỏi nhất thì sẽ được phong làm tể tướng. Nhưng chàng ta, không biết sao thiếu may mắn, vì lúc nào cũng giễu cợt nhà vua như vậy, cho nên không được lòng vua. Chàng ta phải về nhà dạy vài đứa trẻ kém thông minh trong làng, không đủ tiền chăm lo cho vợ hay sao đó. Lần nọ, chàng ta hết tiền, đành phải vơ vét những gì mình có, từng xu từng hào, rồi mượn một chiếc thuyền, chèo ra giữa hồ lớn và dựng một túp lều nhỏ ở giữa hồ. Sau đó chàng ta về nhà phao tin đồn rằng: “Trời oi! Tôi tới túp lều đó, tôi thấy chuyện lạ lùng lắm! Cô bác nên tới xem. Nhưng thôi tới xem làm gì xa quá.” Họ rất hiếu kỳ nên nói: “Ổ, dĩ nhiên dù gì chúng tôi cũng phải ra đó coi.” Thế là mọi người ai cũng mướn thuyền, mà mướn thuyền rất đắt vì anh ta mướn hết rồi, giờ tính lại giá rất cao. Mỗi lần chỉ cho một nhóm nhỏ đi ra thôi. Vì có ít thuyền. Mỗi chiếc thuyền chở một người đi ra một lần. Rất đắt. Một người phải trả tiền cho cả chiếc thuyền. Ai cũng ra đó rồi quay lại, không ai nói với ai gì cả. Nếu người nào chưa được xem mà hỏi thì họ trả lời: “Ông ra đó mà xem tận mắt! Sao hỏi tôi? Tôi phải trả tiền, ông ra đó mà xem!” Thế là mọi người, cả làng đều ra coi. Kể cả vua quân, ai cũng ra đó rồi về nhà, không nói gì hết. Quý vị biết túp lều tre nhỏ đó có gì không? Không có gì cả. Anh ta chỉ để tấm bảng lớn trước túp lều đó. Túp lều không có cửa, không có gì cả. Phía trước, chàng ta treo tấm bảng đề là: “Ai về nhà mà kể lại với người khác, là kẻ ngu ngốc. Ngươi là kẻ đã bị lừa.” Tức là kể lại sẽ bị người ta chê cười là đó ngốc. Cho nên mọi người đi về đều im lặng vì họ thấy mình bị lừa rồi, nói làm chi nữa. Do đó cả vùng đều ngu ngốc. Kể cả vua quan. Và anh ta thu được rất nhiều tiền. Ai cũng hiếu kỳ tới xem có gì ở đó. BMD 879 – The Gratitude of a Fox Có một lần một con chuột rơi vào hũ rượu. Nó vùng vẫy nhưng không thoát ra được. Rồi một con mèo con đi ngay qua. Con chuột nói: “Này anh bạn hãy giúp tôi.” Anh mèo nói: “Sao ta phải giúp ngươi? Ta nóng lòng muốn ăn thịt ngươi đây, sao ta phải cứu người chứ? Con chuột đáp: “Dạ, tôi biết. Thà tôi ra ngoài làm mồi cho anh ăn còn hơn chết chìm trong đây phí mạng của tôi. Tôi sinh ra là để cho anh ăn thịt. Nếu tôi chết trong đây có phải là uổng không?” Anh mèo đáp: “Nếu ta cứu ngươi, ngươi có để ta ăn thịt ngươi không? Con chuột hứa: “Được, tôi hứa. Có trời đất làm chứng. Tôi hứa cho anh ăn thịt tôi. Không có cách nào mà tôi không cho anh ăn tôi.” Con mèo nói: “Vậy ngươi sẽ không bỏ chạy chứ?” Không đâu. Tôi sẽ mang ơn anh. Nếu được cứu mạng, tôi sẽ để cho anh ăn. Trước sau gì tôi cũng chết.” Nghe thật là hay. Nói thật là ngọt. Chú mèo con nói: “Được.” Rồi nó thả đuôi xuống hũ rượu và nói: “Hãy gặm đuôi của ta, ta sẽ kéo ngươi lên.” Quả thật, khi con chuột gặm đuôi, con mèo kéo con chuột lên. Vừa ra khỏi hũ rượu, con chuột nhanh chân chạy mất. Nó vội chạy vào hang, quay lại đưa miệng ra nói: “Cảm ơn anh bạn.” Dĩ nhiên con mèo giận lắm: “Mày hứa để ta ăn thịt. Bây giờ ra đây cho ta ăn. Nhanh lên.” Con chuột nói: “Xin lỗi, hồi nảy tôi say rượu nên nói bậy.” |
Archives
January 2023
Categories |