Nhật Bản, tháng 10 năm 1991 (nguyên văn tiếng Trung Hoa) Có một câu chuyện Âu Lạc cũng hơi giống như vậy, tôi kể cho quý vị nghe luôn ở đây. Một ông nông phu cùng chú trâu cả ngày cày ruộng ở ngoài đồng cực khổ. Hai người và vật đều mệt quá, nhưng công việc chưa xong nên ông cứ đánh vào mình chú trâu bắt chú phải làm lẹ hơn. Chú trâu thở hổn hển, miệng chảy nước giãi, lưỡi thè ra, gần như không thở được nữa, vậy mà vẫn phải làm việc không ngừng. Một chú cọp đang rình mồi gần đấy, trông thấy người nông phu với chú trâu, nhưng chú không biết quyết định là nên xơi tái ai trước. Trong lúc đang nhìn, chú bỗng nổi tính hiếu kỳ, 'Thật là lạ! Sao lại có thể như vậy được?' Chú quyết định hoãn bữa ăn lại và tiếp tục quan sát. Chú trâu kia vừa to vừa khỏe, vậy mà vẫn khúm núm trước bác nông phu nhỏ bé và ngoan ngoãn nghe lời. Dù bị đánh đập, chú vẫn không dám chống cự. Cọp bối rối, không dám chụp lấy cơ hội, sợ có điều bí ẩn gì đó mà chú không biết. Một lúc sau, bác nông phu dừng lại nghỉ ngơi, tìm một chỗ ăn cơm và ngủ trưa. Cọp thấy vậy yên lặng tiến đến gần trâu, lúc đó cũng đang nghỉ ngơi, ăn chỉ một vài nhánh cỏ khô. Cọp lại gần, lắc đầu tự bảo lòng, 'Thật tội nghiệp! Làm việc nhiều thế kia mà chỉ được ăn một chút. Ta không lòng dạ nào mà ăn thịt nó!' Cọp đến hỏi trâu, 'Xin lỗi! Tôi không có ý muốn làm mất lòng anh, nhưng tôi phải hỏi. Anh to lớn, khỏe mạnh, lại có hai cái sừng nhọn như vậy. Chỉ cần hất lên một cái là anh có thể giết người nông dân kia chết. Sao lại phải vâng lời ông ấy? Anh đã làm việc khổ cực nửa ngày trời. Ông ấy đánh đập anh mà anh vẫn tiếp tục làm. Đến bây giờ anh mới được nghỉ ngơi, vậy mà ông ấy chỉ cho anh ăn cỏ khô thôi. Anh là loài thú gì chứ? Sao lại sợ ông ấy? Anh to hơn ông ấy gấp mấy lần!' Trâu đáp, 'Anh đâu có biết. Tôi mạnh hơn, to lớn hơn ông ấy, nhưng người đàn ông nhỏ bé này lại có một vũ khí rất lợi hại. Cho nên tôi chỉ còn có cách là vâng lời ông, vì vũ khí của ông rất cao cường! Ðừng có hỏi dài dòng vì anh đang làm tôi cảm thấy rất xấu hổ. Chúng ta không có vũ khí này, thành thử chúng ta phải chịu thấp kém hơn!' Cọp càng tò mò nhiều hơn nữa, 'Ồ! Làm ơn, xin anh làm ơn cho tôi biết. Chưa bao giờ tôi nghe đến chuyện này. Từ trước đến nay, chưa bao giờ tôi đến đây và chưa bao giờ tôi được thấy điều này!' Cọp năn nỉ trâu, 'Tôi muốn học hỏi. Ðây là dịp may hiếm có! Chắc tôi sẽ không gặp trường hợp này nữa đâu. Tôi hay ở trên núi và không bao giờ thấy cảnh tượng này. Tôi có dịp nhìn thấy là vì hôm nay tôi đánh bạo xuống đây!' Trâu chậm rãi nhai cỏ, rồi chú nhắm hai mắt lại nói rằng, 'À! Anh hỏi chuyện này để làm gì?' Trâu nói, 'Thấy anh thành tâm thì tôi trả lời. Vũ khí đó là túi khôn. Vì loài người có cái kêu bằng 'túi khôn' làm vũ khí, nên tất cả loài vật chúng ta đều phải dưới quyền, dù có to lớn, hung dữ hay khỏe mạnh như thế nào đi nữa. Anh hiểu không?' 'Không! Chưa nghe nói bao giờ!' Trâu nói tiếp, 'Thôi, bấy nhiêu đó đủ rồi! Xin anh đừng làm phiền tôi nữa, cho tôi ngủ một giấc!' Cọp ngẫm một hồi, thầm nghĩ, 'Vũ khí này là cái gì mà mạnh thế? Ta phải xem mới được. Mẹ ta chưa bao giờ nói đến. Nếu mà ta học được cái này, ta sẽ mạnh hơn bất cứ ai, kể cả bà nội, ông nội, cha, mẹ ta, vì họ đâu có biết cái này. Nhà trường không bao giờ dạy về vũ khí này.' Kế đó cọp kiên nhẫn chờ bác nông phu trở lại. Tuy hãy còn nghi ngờ vì từ trước đến nay chú chưa từng bị một loài vật nào đánh bại, nhưng trong lòng chú vẫn lo sợ và bắt đầu nể loài người đôi chút. Khi bác nông phu đến, chú cọp chắp hai bàn chân trước lại, kính cẩn hỏi rằng, 'Nghe nói ông có cái 'túi khôn' làm vũ khí có thể giúp ông chỉ huy tất cả, kể luôn loài vật to lớn, dũng mãnh như tôi. Xin ông cho tôi xem nó được không? Tôi chưa được nhìn thấy cái đó bao giờ. Hơn nữa tôi vẫn còn nghi ngờ điều đó. Thân hình ông nhỏ bé như vậy làm sao mang được cái vũ khí to lớn giúp ông chỉ huy được loài vật to như chúng tôi đây?' Bác nông phu đáp, 'Dĩ nhiên là được, vũ khí này lớn lắm, ta không thể mang nó theo hoài được, cho nên ta đã để nó ở nhà.' Chú cọp hỏi: 'Nhờ ông về nhà lấy nó ra đây cho tôi xem thử.' Bác nông phu nói: 'Dĩ nhiên là được, nhưng ta nghĩ ngươi gạt ta. Ngươi đâu có thật sự muốn xem vũ khí của ta. Ngươi chỉ muốn ta về nhà để cho ngươi ăn thịt trâu hay bắt cóc trâu của ta. Khi ta cực nhọc mang theo cái 'vũ khí túi khôn' to lớn của ta trở lại, nếu không thấy ngươi hay không thấy trâu thì sao? Ta không chịu đâu.' Cọp năn nỉ: 'Không đâu. Tôi thật tình muốn thấy 'túi khôn' của ông. Tôi chưa bao giờ được thấy. Xin ông làm ơn làm phước đi về mang nó lại đây cho tôi coi thử. Thật vậy, tôi không nói dối ông đâu. Tôi sẽ không ăn thịt chú trâu của ông. Tôi sẽ đợi ở đây.' Bác nông phu nói: 'Thôi được, nếu muốn ta tin thì ngươi phải cho ta cột ngươi vào thân cây rồi ta mới về nhà mang nó lại đây. Bằng không, sau khi ta đi rồi, e ngươi sẽ làm điều quấy.' Cọp đáp: 'Ðược chứ, không sao! Hãy cột tôi mau lên,' rồi đưa chân ra cho bác nông phu dùng dây mây trói chú lại vào một thân cây. Trước khi người nông dân đi, cọp còn hối, 'Trở lại sớm nhé!' Bác nông phu trở lại rất lẹ, tay cầm một cây gậy lớn. Ông nói, 'Túi khôn của ta đây,' rồi giết cọp bằng cây gậy. Chú trâu nhìn thấy, cười nghiêng ngửa! Chú cười nhiều đến nỗi cái đầu ngả tới ngả lui, đập vào một tảng đá rụng cả răng. Từ đó về sau, những chú trâu già không có răng. Ðây là chuyện của người Âu Lạc, rất giống như chuyện kia nói về chú sư tử, mặc dù bài học không giống nhau gì mấy. *** Thành ra loài người thật sự làm chủ của muôn thú. Chúng ta rất hân hạnh được là chúa tể của cầm thú. Từ khởi thủy Thượng Ðế đã bảo chúng ta là phải chăm sóc cho loài vật, nhưng rốt cuộc chúng ta lại thống trị họ. Chao ôi! Chúng ta thật là 'vinh hạnh'. Câu chuyện là như vậy.
0 Comments
BMD 889 Renounce Ego to Triumph Ourselves Chúng ta nói về tín đồ Sufi, phái Sufi. Phái Sufi có thể thuộc về Hồi giáo phục sinh thời đó. Trong truyền thống phái Sufi, có một Minh Sư tên là Ibrahim Bin Adham. Ngài là minh sư phái Sufi thời đó, có thể là khai ngộ, trông giống vậy. Nếu không họ không gọi Ngài là Minh Sư. Và Ngài ngồi trong rừng. Có một khu rừng thưa trong rừng, và Ngài ngồi đó tưởng niệm Thượng Đế, Allah, và rồi Ngài thấy hai thầy tu đạo Hồi đến về hướng Ngài đang ngồi. Ngài đón chào họ, và họ nói chuyện tu hành cho đến tối. Khi màn đêm đến, Ibrahim mời 2 thầy tu đó làm khách ăn tối. Tức thì, dĩ nhiên, họ chấp nhận. Một bàn đầy cao lương mỹ vị nhất xuất hiện trước mặt họ. Cho nên, một du khách hỏi Ibrahim: “Ngài đã thành nhà tu Hồi giáo bao lâu rồi?” Vì với loại phép lạ này, nhất định là người tu hành lâu năm, họ nghĩ vậy. Ibrahim đáp: “Hai năm.” Một trong hai người nói: “Ô, sao được? Tôi đã theo phái Sufi gần ba thập niên, và không có được khả năng mà Ngài cho chúng tôi thấy hôm nay, như đã hóa ra bữa tiệc như vậy cho chúng tôi.” Ibrahim giữ yên lặng. Khi thức ăn gần hết, một người lạ mặc áo bào xanh đi vào khu rừng thưa. Ông ta ngồi xuống và chia sẻ một ít thức ăn còn lại với họ. Tất cả những người hiện diện nhận thức bên trong rằng đây là KHIDR. Họ đều nhận ra lúc đó rằng, người áo xanh này, có lẽ ngời sáng một chút, chỉ đi vào rừng và mặc áo bào xanh như vậy, đó nhất định là KHIDR, còn ai khác? Cho nên họ nhận ra. Cho nên họ cho ông chia sẻ một chút trí huệ về chân lý với họ. Nhưng khi ông sắp ra về, KHIDR nói với họ: “Hai vị sư Hồi giáo quý vị thắc mắc về Ibrahim, những điều gì quý vị đã xã bỏ để theo con đường của Hồi giáo? Nhưng quý vị phải biết có sự khác biệt lớn lao giữa quý vị và Ibrahim. Hai người quý vị chỉ xã bỏ kỳ vọng của sự an toàn và nếp sống rất bình thường. Bây giờ Ibrahim Bin Adham, nếu không tu, đã là vì vua quyền uy. Và Ngài ném bỏ quyền hạn làm vua của Balkh để trở thành tín đồ Sufi.” Thấy không? Đây là lý do Ngài vượt xa quý vị. Trong 30 năm của quý vị, quý vị cũng đã đạt được những thỏa mãn từ chính sự xã bỏ. Đó là thù lao của quý vị rồi. Nhưng Ngài luôn tránh xa việc yêu cầu bất cứ thù lao nào cho sự hy sinh của Ngài.” Người mặc áo bảo xanh sau khi nói vậy, biến mất. Quý vị thấy có sự khác biệt. Có hai người, cùng hành động, những kết quả khác nhau. Tại sao vậy? Dụng tâm khác nhau, sự kỳ vọng khác nhau. Tại sao ông nói: “Hai người chỉ xa bỏ kỳ vọng cho sự an toàn và cuộc sống bình thường?” Ý của ông là sao? Bây giờ, giả sử họ thậm chí cho việc làm, gia đình, bạn bè, thì vị KR, linh hồn của phái Sufi nghĩa là họ chỉ xã bỏ rất ít; không bao nhiêu. Ông ta nói quý vị chỉ xã bỏ kỳ vọng cho sự an toàn. Điều này nghĩa là quý vị có thể trong mong rằng quý vị có sự an toàn qua việc làm, qua sự giúp đỡ của bạn bè hay trợ giúp của gia đình, nhưng quý vị chỉ trong mong thôi. Điều này không có nghĩa là quý vị bảo đảm sẽ có. Bởi vì, quý vị thấy, một số người có việc làm, nhưng bỗng nhiên họ mất việc. Và họ có nhà, bỗng nhiên trở thành vô gia cư. Điều đó tùy theo quý vị may mắn thế nào. Đôi khi quý vị mất việc làm, rồi mất nhà, và rồi vợ của quý vị cũng đi mất. Khi ông nói: “Ông chỉ xã bỏ kỳ vọng cho sự an toàn và cuộc sống bình thường,” ý ông là dù quý vị nói rằng xã bỏ gì đó, nhưng quý vị đã không xã bỏ nhiều thứ.” Cho nên khi ở trên đời, chúng ta trông có được việc làm, rồi có vợ tốt và gia đình tốt. Ai lớn lên cũng mơ rằng mình sẽ có điều đó. Điều đó bình thường. Ý ông là họ chỉ xã bỏ sự hy vọng thôi. Họp mặt tại Pháp Quốc ngày 2 tháng 8, 2015 Có lần Đức Phật ở xứ Ba La Nại, trong vườn của Thái tử Kỳ Đà. Khu vườn này được nhắc tới hoài. Câu chuyện như thế này. Vào thời Đức Phật, có một ông trưởng giả giàu có lắm. Ông đang tìm một nơi để mua làm tịnh xá cho Phật và Tăng đoàn, nghĩa là những người xuất gia, để họ ẩn trú vào mùa mưa. Vì mùa mưa, họ không có ra ngoài nhiều. Họ đâu có nhiều quần áo giống như mình mà thay mỗi ngày. Vả lại hàng ngàn tỳ kheo, làm sao họ giặt giũ hoài được, nếu quần áo bị ướt át, lấm bùn. Không tiện. Cũng như mình đây có rất nhiều người, thành ra không có thuận lợi lắm. Một số người tới trễ không có đồ ăn. Tôi cũng ngạc nhiên thấy quý vị tới đông quá. Thật tình tôi muốn ở lại để mỗi ngày khích lệ quý vị, nói chuyện, gợi cảm hứng cho quý vị có thêm lòng tin để tu hành. Thì vưỡn này là của Thái Tử Kỳ Đà. Đất đai rộng rãi, có cây cối um tùm, nước, đủ thứ. Nên ông tới và thỉnh vị thái tử đó để mua khu vườn nầy. Thái tử dĩ nhiên cũng rất giàu có, không vội vàng bán gì hết. Nói: Ông muốn mua vườn của ta để làm chi?” Đáp: Đức Phật ở gần đây, và Ngài không có chỗ nào cho chính mình cùng Tăng đoàn ẩn trú. Tôi muốn mua khu vườn của thái tử vì nơi đây làm tịnh xá là hợp nhất cho Đức Thế Tôn và chư tăng ẩn trú.” Thái tử mới nói: “A, ta nghĩ ông không có đủ tiền mua khu vườn này đâu.” Đáp: “Ngài cứ ra giá. Ra giá đi. Tôi sẽ công hiến bất cứ giá nào để Đức Phật có nơi ẩn trú.” Thái tử nói đùa: “Nếu mà ông lát được cả khu vườn của ta bằng vàng thay vì bằng gạch, làm gạch bằng vàng. Nếu ông lát cả khu vườn của ta bằng vàng, thì nó sẽ thuộc về ông. Vườn của ta lớn bao nhiêu, nếu ông có đủ gạch để lát, thì đó là giá của khu vườn.” Rồi ông trưởng giả đó không nói gì hết. Ông ta dòm rồi suy nghĩ. Thái từ nói: “Ta biết mà, biết ông mua không được đâu. Thôi dẹp đi, đừng lo, ta không giận đâu, ông về đi.” Vị trưởng giả đáp: “Không phải. Tôi đang nghĩ coi cần bao nhiêu xe tôi phải mướn hoặc mua để chở tất cả số vàng tới đây?” Nghe vậy thai tử ngạc nhiên quá. Đức Phật là ai? Sao ông lại muốn bỏ ra quá nhiều tài sản cho vị đó và đệ tử?” Ông nói: “Ô, ngài không biết ư! Cả thế giới bây giờ chỉ có một. Cả vũ trụ chỉ có một. Vị này là người cứu nhân độ thế, mang hạnh phúc đến cho muôn người, hàn gắn linh hồn, cứu người thoát khỏi địa ngục, mang họ lên Thiên Đàng, khai sáng tâm hồn họ, làm họ trở nên cao quý và hướng về tâm linh, thăng hoa họ lên cảnh giới tâm linh. Và tất cả những người đó, ai mà có lòng tin vào Đức Phật sẽ lên Thiên Đàng.” “Ồ, thật sao? Vậy thì ta muốn tới” Vị thái tử nầy muốn biết Đức Phật trước. Sau khi diện kiến Phật và chư tăng, thấy hào quang tỏa khắp người Phật, và mọi người ai nấy đều vô cùng tôn kính Phật như vậy, đầu óc thái tử mới khai sáng, thái tử cảm động nói: “Được rồi, ông có thể lấy khu vườn nầy miễn phí. Khỏi cần vàng nữa.” Về sau khu vườn này được đề cập nhiều lần trong các kinh điển Phật giáo. Vì Đức Phật thường trú ngụ nơi đó, và từ đó Ngài đi khắp nơi để chạm vào tâm hồn và linh hồn của mọi người. Thời đó Đức Phật đang an trú tại khu vườn đó. Đó là vườn của thái tử Kỳ Đà. Buổi trà nước dâng Phật vừa xong, A Nan ra khoảng rừng vắng. Ông tọa thiền một mình dưới gốc cây. Thiền một hồi, ông tự nghĩ như thế này: Đức Phật ra đời biết bao chúng sinh được nhờ ơn tế độ, thế giới thanh bình, nhân dân an lạc, cây cỏ xanh tươi, muôn loài hớn hở, vô cùng hớn hở đó là nhờ ân đức của Phật. Lại nghĩ rằng: Nhóm ông Kiều Trần Như trồng nhân lành gì mà cửa từ bi thuyết pháp cứu sinh, các ông được vào trước, làm năm đệ tử đầu tiên của Phật sau khi Ngài đắc đạo? Nhân duyên gì A Nan nghĩ như thế? Trận mưa cam lồ bắt đầu sao các ông ấy được tắm trước? Nghĩ xong A Nan đứng dậy, đi về tịnh xá và đem y nghĩ trên bạch Phật: “Kính lạy Đức Thế Tôn, tại sao năm người đó có nhân lành gì mà được làm đệ tử đầu tiên của Ngài?” Phật bảo: “A Nan, nhóm năm người đó lâu lắm rồi đã một lần gần chết đói, vì lòng từ bi nên ta trích huyết trong người ra cho các ông ấy uống, và cứu mạng các ông ấy. Bởi thế nay họ được làm năm đệ tử đầu tiên.” A Nan nói: “Kính bạch Thế Tôn, vì duyên gì mà các ông ấy bị đói? Tại sao không ăn các món khác lại phải uống huyết mới sống? Cúi xin Ngài nói lại cho con và đại chúng đây được rõ!” Phật dạy rằng: “A Nan! Thuở đó tới nay tính sơ là A tăng tỳ kiếp, đã qua lâu rồi, nhưng cũng Châu Diêm Phù Đề này, cùng Địa Cầu này, có một ông vua nước lớn, tên là Từ Lực. Ông là một minh vương, đại đế, cai trị tám mươi bốn ngàn tám trăm nước nhỏ, có một vạn quan đại thần. Nhà vua từ bi khoan hậu, đủ bốn tâm bình đẳng. Ông đó với mọi người bình đẳng. Thương dân, giúp vật, thường đem mười điều lành giáo hóa, ông du hành khắp vương quốc đề giáo dục thần dân hãy nhớ làm việc thiện và đừng làm điều xấu. Do đó trong nước được thanh bình, an lạc, muôn phương kính nể. Nên không có chiến tranh. Nhưng thời đó có các loại dịch quỷ hay đi bắt người để uống máu ăn tiết, chớ không sống bằng đồ ăn như những người bình thường. Vì người dân thuở đó theo lệnh của vua dạy ai cũng phải tu mười điều lành. Năm điều nhưng thêm một vài điều nữa. Làm việc thiện và nhân từ. Giữ thân, khẩu, ý thanh tịnh. Vì thế bọn ác quỷ không dám đến gần, vì người dân trong sạch quá, lành quá, lũ quỷ không có quyền hút máu. Không làm được, vì nếu mình ăn ở hiền lành, đạo đức, thì những thiên thần sẽ bảo vệ. Thì không ai, không có ác quỷ, yêu ma nào tới gần mình được. Thành ra mình không phải lo chuyện ma-cà-ròng hút máu đó. Chúng muốn tới gần cũng không được, không thể tới gần thần dân nào của vị vua này. Không thể bắt ai để hút máu, nên chúng bị đói quá lâu, chỉ còn da bọc xương, khí lực đã gần tuyệt. Bây giờ có năm con quỷ đến tâu nhà vua. Nhà vua chấp nhận cho chúng vào tâu. Ngủ quỷ nói: “Tâu bệ hạ, chúng tôi sống bằng sự ăn uống khí huyết của loài người. Mà bây giờ nhà vua dạy dân tu theo mười điều lành, chúng tôi không được lại gần, vì họ có các thiên thần bảo hộ, chúng tôi không được lại gần, không thể bắt ai để uống máu. Nên chúng tôi đã bị đói quá lâu, bây giờ chỉ còn chờ chết. Vậy nhà vua làm hạnh từ bi há không thương chúng tôi sao?” Dĩ nhiên có lý chứ hả? Nhà vua nghe quỷ nói, trong tâm rất cảm động mà hỏi rằng: “Ngoài máu thịt người, các ngươi dùng gì?” Bọn quỷ trả lời: “Tâu đại vương, máu thịt người là món chính, ngoài ra không dùng món gì có thể bảo tồn được thể xác. Chúng tôi không thể ăn gì khác.” Nghe xong nhà vua vì quá thương họ đói, nên nhà vua liền lấy dao và cắt năm lỗ trên hai bàn tay cho máu chảy ra để chúng được uống. Bọn quỷ vui sướng quá! Đương đói, tranh nhau cầm bát lại vừa hứng vừa uống. Sau đó bọn chúng thỏa mãn và vui sướng, sức khỏe hồi phục, lạy tạ xin về. Nhà vua nói: “Hãy khoan! Ta bảo đã.” Rồi chúng ở lại nghe vua phán: “Vì các ngươi bị nghiệp báo làm thân quỷ là do đời trước có lòng tham sân si, ham uống máu ăn thịt chúng sinh. Nên bây giờ các người phải tiếp tục thế này, chịu đói khát. Kiếp trước lại thêm lòng tham lam bủn xỉn, không quan tâm đến người khác, không dạy dỗ, khuyên bảo người khác những điều đạo đức, cũng không bố thí thức ăn, bất cứ gì cho ai. Thành ra bây giờ các người phải chịu đói khát. Nên ráng tu theo mười điều lành, ngủ giới cộng với năm giới nữa về hạnh kiểm đạo đức. Tương lai ta thành Phật, sẽ lấy pháp thân và huyết giới cho các người ăn và khai mở định, huệ, để vĩnh viễn trừ tâm tham dục, không còn đói khát về thể xác lẫn tâm linh. Và ta sẽ đưa các người tới chỗ ăn vui vĩnh viễn.” Tới đây Đức Phật nhắc lại rằng: “A Nan! Nên biết: Vua Tự Lực thuở đó chính là tiền thân của ta đây. Và năm con quỷ dạ xoa này là nhóm ông Kiều Trần Như, năm người những đệ tử đầu tiên. Vì ta đã hứa với họ. Thuở đó ta hứa độ cho bọn ông ấy trước. Nên các ông ấy có cơ hội như hôm nay.” Bây giờ, tôi, tức A Nan, và đại chúng được nghe câu chuyện tiền kiếp của Đức Phật và năm vị đệ tử đầu tiên, ai ai cũng nỗi da gà toát mồ hôi, xúc động.” Câu chuyện thật kinh hoàng. Vì lòng từ bi của Phật, chí sắt đá của Ngài, ai mà bì kịp.” |
Archives
January 2023
Categories |