(Kabir Sahib nói: “Với vải đóng khố làm bằng 8 miếng vải vụn khâu lại với nhau, người tu sĩ cũng không cảm thấy ngượng ngập. Say sưa trong hỷ lạc của Âm Thanh nội tại; người này cũng thấy Thần Indra còn là vị nghèo nàn nữa.”) (Người dịch chú thích: Người tu sĩ tuy nghèo nàn bên ngoài thể xác, nhưng thấy giàu bên trong, còn hơn cả thần Ấn Độ Indra nữa.) Công chúa Mira Bai là đệ tử thành tâm của Ravidas, vị Minh Sư nổi danh Ấn Độ, người làm nghề sửa giầy để kiếm sống. Bởi vì Sư Phụ công chúa có giai cấp thấp, nên nhiều bạn hữu của Mira Bai khinh miệt Ngài và nói những lời chê bai so sánh sự nghèo nàn của Ngài với giàu sang phú quý của cô công chúa. Họ thường nói: “Thánh Ravidas khó khăn lắm cũng không kiếm ăn nổi với nghề sửa giầy, trong khi Mia Bai, công bố là đệ tử của ông ta, lại sống trong cung điện xa hoa nhung lụa.” Không bao lâu, tiếng đồn đến tai Mira Bai, và vì trung thành với Sư Phụ, cô ta bị xúc phạm thật nhiều bởi những lời thị phi vô lễ của họ. Thắc mắc không biết phải làm gì, cuối cùng cô quyết định lấy viên kim cương quý giá từ hộp nữ trang của mình, và đi cúng dường Sư Phụ cô, để ông có thể bán lấy một số tiền lớn. Lạy trước mặt Sư Phụ với viên kim cương cầm tay, cô nói: “Kính thưa Sư Phụ, con thấy đau lòng khi thấy Ngài sống quá nghèo khổ và thiếu thốn như vậy, và đồng thời mọi người chế diễu con vì con là đệ tử của vị Thánh nghèo nàn. Con sẽ vui sướng vô ngần, nếu Sư Phụ nhận viên kim cương này và bán lấy tiền, rồi xây nhà để Ngài sống trong thoải mái và dễ dàng.” Ravidas trườn người qua đôi giày đang sửa, trả lời: “Công chúa Mira Bai này, hãy ráng mà nhìn thấy những gì ta đạt được từ việc sửa giầy. Nếu cô cảm thấy đến học với ta là hạ phẩm giá của cô, và con người chê bai cô làm như vậy, thì cô tự do tránh xa ta ra. Còn đối với viên kim cương, hỡi Mira Bai, ta không cần bất cứ gì trên thế gian này hết, mà ta lại vui sướng nhất trong ảo tưởng nghèo nàn này.” Mira Bai, tuy nhiên, quyết định cúng dường viên kim cương cho Ravidas, và cô ta năn nỉ và xin Sư Phụ một thời gian lâu, nhưng vị Minh Sư nhất quyết từ chối. Cuối cùng, Mira Bai thất vọng và vô cùng đau khổ. Cô ta thưa với Minh Sư của cô: “Thưa Sư Phụ, con để viên kim cương lại đây, trên mái tranh nhà Sư Phụ. Xin hãy làm như lời con cầu xin Ngài, và bán nó để Ngài được thoải mái hơn. Nếu Ngài không cần bây giờ, thì cứ để nó trên mái tranh. Trong trường hợp cần thiết bất cứ lúc nào, nó sẽ ở đó để Ngài tùy tiện.” Mira Bai trở lại cung điện, và nhiều tháng trôi qua trước khi cô có thể trở lại viếng thăm thầy một lần nữa. Khi gặp Ravidas, cô ngạc nhiên thấy rằng Ngài vẫn làm việc sửa giầy và vẫn nghèo như bao giờ. Cô hỏi thầy: “Thưa Sư Phụ kính yêu, tại sao Ngài vẫn sống trong cơ hàn mặc dù con để lại viên kim cương cho Ngài? Sao Ngài không dùng món quà mà con cúng dường với tất cả tình thương và thành thật của con?” Ravidas nói: “À, Mira Bai, này con, ta cám ơn con, nhưng ta không cần viên kim cương của con. Ta đã có tài sản quá vĩ đại đến nỗi không thể đếm hết được. Khi con rời khỏi nơi đây ngày hôm nay, hãy lấy viên kim cương về đi nhá.” Tìm trên mái tranh, Mira Bai lập tức thấy viên kim cương vẫn nằm yên chỗ cũ, mà Ravidas không hề lưu ý tới. Khiêm tốn, và với lòng hiểu biết bên trong tăng gia vô vàn khi thầy cô chứng tỏ rằng kho tàng tâm linh nội tại rộng lớn ra sao, Mira Bai quỳ ngay xuống bên chân vị Sư Phụ yêu quý của cô.
0 Comments
(Kabir Sahib nói: “Không ai có thể làm thương tổn đến người mà Thiên Ý muốn cứu mạng; ngay cả sợi tóc cũng không bị hại, dù toàn thể thế giới chống lại người đó.” Hazrat Bayazid Bustami có lần nhập định hoàn toàn trong khi quán tưởng Thượng Đế đến nỗi, nhìn vào bên trong, Ngài thấy không có ai ngoài Thượng Đế. Ngài kêu lên trong sự hỷ lạc: “Ta là Thượng Đế! Ta là Thượng Đế!” Một số người ngồi gần đó nghe lời Ngài công bố, và họ hết sức kinh ngạc. Sau khi Ngài xuất định, họ hỏi Ngài rằng: “Hỡi Ngài Hazrat kính yêu, Ngài vừa nói gì vậy? Ngài luôn luôn dạy chúng tôi rằng thân thể này không phải Thượng Đế. Thế mà vài phút trước đây, Ngài nói rằng chính Ngài là Thượng Đế.” Hazrat Bayazid trả lời: “Sao mà ta lại có thể công bố lời phạm thượng như vậy? Chắc hẳn người nào khác nói vậy đó. Nhưng nếu ta có bao giờ nói lời đó lần nữa, thì xin cứ xử tội ta theo luật Hồi Giáo.” Chỉ sau bốn ngày trôi qua, Hazrat Bayazid lại lặp lại cùng câu nói đó trong khi nhập định: “Ta là Thượng Đế! Ta là Thượng Đế!” Ngay khi con người nghe như vậy, họ chạy đi lấy gươm, dao găm và các vũ khí khác, để trừng phạt Hazrat Bayazid như Ngài đã chỉ thị cho họ như thế. Nghe kể rằng khi họ ráng đâm chém Ngài, thì vũ khí quay ngược lại và đánh vào họ, khiến Hazrat Bayazid không hề bị thương tổn chi hết. Một số người đánh vào đầu Ngài, trong khi người khác chém vào tay chân của Ngài, tuy nhiên không một vũ khí nào chạm vào thân thể của ngài. Ngài tiếp tục lắc lư trong hỷ lạc tâm linh và cùng lúc la lên: “Ta là Thượng Đế! Ta là Thượng Đế!” Mọi người đều vô cùng hoang mang không hiểu. Sau khi Ngài xuất định, họ nói với Hazrat Bayazid: “Sao Ngài không bị giết? Chúng tôi không thể chạm vào thân Ngài được.” Hazrat Bayazid nói: “Những ai tràn đầy tình thương và quán tưởng đến Thượng Đế, thật sự trở thành Thượng Đế.” Rồi Ngài mỉm cười nói tiếp: “Người như vậy không thể nào bị giết bởi gươm đao.” (Thánh Matthew nói: “Phúc thay cho những ai có tâm đơn thuần vì họ sẽ thấy được Thượng Đế.”) Có hai động lực quan trọng làm việc bên trong con người: kính sợ và thương yêu. Những ai thương yêu Thượng Đế thì kính sợ Ngài, và những ai kính sợ Ngài thì yêu thương Ngài. Ngày xưa có anh chăn cừu thường hay cầu Thượng Đế, bằng tình thương của anh, rằng: “Hỡi Thượng Đế, nếu Ngài chỉ đến với con một lần thôi, thì con sẽ cúng dường Ngài sữa để uống. Hơn nữa, con sẽ làm sữa thành bơ tuyệt hảo để Ngài thưởng thức. Nếu Ngài đến với con, hỡi Thượng Đế, con sẽ đan cho Ngài cái chăn với lông mềm nhất từ một trong những con cừu mà con ưa thích nhất.” Ngay khi anh ta vừa dứt lời cầu nguyện, thì một người tu hành tình cờ đi ngang qua, đang bước dọc theo con đường, và ông hỏi anh chăn cừu đáng thương kia rằng: “Này, anh nói lăng nhăng gì vậy? Đây là lời cầu vô nghĩa, và anh đã phạm tội rất lớn đấy.” Anh chăn cừu sửng sốt la lên: “Cái gì? Tội ư? Tại sao, thưa ngài, lời cầu đơn giản của tôi chắc chắn không phải là tội chứ.” Người tu hành bảo anh: “Hãy suy nghĩ cẩn thận lời anh cầu. Tại sao, vì thật ra anh đã phỉ báng Thượng Đế. Ngài không muốn sữa hay bơ, và Ngài cũng chẳng cần chăn của anh. Ngài ở trên trời rất cao, cao hơn tất cả những vật chất như vậy rất nhiều.” Anh chăn cừu, đau nhói tâm can vì những lời người tu hành bảo anh, khởi sự khóc lóc cay đắng và than vãn: “Con là kẻ tội lỗi, một người có tội. Con đã bày tỏ sự bất kính lớn lao đối với Thượng Đế, làm sao con có thể bao giờ lấy lại được tình thương của Ngài đây?” Khi anh khóc sướt mướt và khiêm tốn liên tục xin Thượng Đế tha lỗi cho anh, tự nhiên bức màn vén lên và mắt huệ của anh mở ra và thấy Thượng Đế xuất hiện bên trong anh: “Con đừng lo. Ta sẽ uống sữa, ăn bơ ngon của con, và quấn thân ta với chăn ấm của con.” Nhưng người tu hành, ngược lại, làm Thượng Đế phật ý, Ngài nói: “Nhà ngươi đã làm đau lòng và tổn thương đến tâm hồn của người Ta thương yêu. Bây giờ hãy đến và khiêm tốn xin anh chăn cừu tha lỗi cho ngươi đi.” Với tủi nhục vô vàn, người tu hành vội vã đến bên anh chăn cừu và xin tha lỗi, nói rằng: “Anh bạn của tôi ơi, anh có trái tim đơn thuần và nó sẽ như nam châm thu hút trái tim của Thượng Đế đấy.” Anh chăn cừu cười bảo ông ta rằng: “Thôi ông hãy đi đi, hỡi người thánh thiện, vì Ngài đã đến với ông lâu rồi, nên bây giờ Ngài cũng đến với tôi nữa.” (“Con người mời những thảm họa đến và rồi phản đối chống lại những vị khách gây khó khăn cho họ, nhưng họ đã quên rằng chính họ viết và gửi thiệp mời các vị khách đó. Thời gian không bao giờ quên, và thời gian phân phát mỗi thiệp mời đúng lúc và đúng địa chỉ, và thời gian dẫn khách được mời tới tận nhà chủ nhân” – trích từ sách Mirdad.) (Người dịch chú thích: “khách được mời”chính là “tai họa”.) Jalhan, một hiền nhân ở Naushehra, có cô con gái tới tuổi cập kê. Vì vậy, vợ ông yêu cầu ông hãy đi vấn kế vị giáo sĩ Ấn Độ để ráng tìm rể xứng đáng và chọn ngày lành tháng tốt nữa. Đây là việc mà Jalhan không đồng ý chút nào, vì những ý muốn của ông là thuộc về hướng hoàn toàn khác hẳn. Ông luôn luôn vui mừng với Thiên Ý và đã tự tập luyện là để mọi sự việc của ông cho Thượng Đế an bài. Bằng cách làm vậy, ông biết từ những kinh nghiệm lâu dài rằng mọi chuyện sẽ luôn luôn xảy ra theo cách mà Thượng Đế muốn như vậy. Tuy nhiên, vì vợ thúc đẩy, ông phải đi đến nhà của một giáo sĩ nổi tiếng và hỏi ông ta ngày nào sẽ là ngày lành cho đám cưới con gái ông. Khi ông vào nhà vị giáo sĩ, thì ông gặp con gái của vị đó, một thiếu nữ đã sớm trở thành góa phụ sau khi thành hôn không bao lâu. Jalhan tự nhủ: “Đây là điều đáng suy ngẫm. Mọi người đều đến nhà giáo sĩ để tìm ngày lành nhất cho đám cưới của con gái mình. Nhưng đây chính là con gái của giáo sĩ, nay trở thành góa phụ rồi. Thế cha cô ta không chọn ngày giờ tốt cho đám cưới của cô hay sao?” Ông quyết định hoãn lại việc vấn kế vị giáo sĩ và đi bộ xuống phố. Không bao lâu, ông đi ngang qua nhà một vị bác sĩ, bên trong có rất nhiều người đang khóc lóc than van, và kêu la thảm thiết vang đến tận trời. Jalhan hỏi người hầu đang đứng bên ngoài rằng: “Có gì mà khóc lóc quá vậy? Có thảm họa gì kinh khủng xảy ra hay sao?” Người hầu trả lời: “Không. Nhưng người con trai độc nhất của bác sĩ vừa qua đời.” Một lần nữa, Jalhan suy ngẫm về những gì xảy ra trên thế gian, nói với mọi người ở đó: “Đây là viên bác sĩ cố hết sức mình để cứu con trai ông, nhưng mặc dù với tài chữa trị chuyên môn nhất của ông, con trai vẫn qua đời. Tại sao bác sĩ không thể cứu được con ông?” Mọi người trả lời: “Ai có thể chống lại được Thiên Ý?” Khi ông tản bộ dọc theo con đường bụi bặm, mỉm cười một mình, nói thầm: “Nhà bác sĩ thì khóc than ma táng, khi nhà các giáo sĩ thì đầy quả phụ. Hãy về nhà đi thôi, hỡi Jalhan; đừng tìm ngày lành tháng tốt hay bạn đồng hành thuận duyên làm chi.” (“Con người không nên để bị hướng dẫn bởi kiến thức có giới hạn của mình, mà hãy nên đi tìm sự chỉ dẫn của Đấng Toàn Trí, bởi vì kiến thức giới hạn của con người là nguyên nhân gây ra hiểu biết hư hỏng đồi trụy” – trích từ sách Triết Lý của Các vị Minh Sư.) Xưa kia, có người tu hành, trong một giai đoạn của cuộc đời ông, trở nên rất kiêu căng và tràn đầy tự phụ, tin rằng không còn ai trên Địa Cầu này mà có thể so sánh ngang với ông. Thượng Đế bảo ông rằng có rất nhiều người tu hành không những giỏi bằng ông, mà còn xuất sắc hơn nữa. Ông ta không tin, và kết quả là, ông khăng khăng đòi cho bằng được để gặp một vài linh hồn vĩ đại khác. Thượng Đế bảo ông: “Hãy qua bờ bên kia của con sông chảy đàng trước nhà ngươi, rồi gặp một giáo sĩ sống ở bờ bên đó. Hãy đi theo ông ta và làm y như lời ông ta muốn nhà ngươi làm.” Người tu hành cảm tạ Thượng Đế cho sự nhân từ của Ngài, lên thuyền băng ngang qua sông, và không bao lâu tìm được vị giáo sĩ mà ông được Thượng Đế chỉ bảo. Vị này được biết là Hazrat Khizr. Người tu hành nói: “Thượng Đế bảo tôi đến gặp ngài và tuân lệnh ngài, bất cứ lệnh gì.” Vị giáo sĩ trả lời: “Tất cả gì ông nói, nghe thì hay lắm. Nhưng thành thật mà nói, tôi không chắc cho lắm là ông xứng đáng đủ để nhận được giáo lý mà Thượng Đế muốn tôi ban cho ông.” Người tu hành cảm thấy câu này không những không đúng mà còn là một sỉ nhục nữa. Tuy nhiên, ông ta không giận dữ, ráng kiềm chế lòng bực bội, trả lời: “Thượng Đế ra lệnh tôi phải tuân lời ngài, thưa Hazrat Khizr. Do đó bất cứ gì ngài ra lệnh, tôi sẽ làm. Bất cứ gì ngài làm, tôi sẽ không phản đối.” Khizr mới nói: “Tốt lắm. Xin đừng phản đối bất cứ gì tôi làm nhá.” Khizr sau đó tản bộ dọc theo bờ sông, người tu hành lò dò theo sau, và không lâu, cả hai đến một nơi có vài chiếc thuyền thả neo ở đó. Khizr chỉ vào chiếc thuyền, hỏi người địa phương: “Ai là người chủ chiếc thuyền này?” Họ trả lời: “Một người rất giàu sống ở thành phố đàng kia.” Khizr chỉ vào chiếc thuyền khác và hỏi cùng câu hỏi. Họ nói: “Xin đừng đụng vào thuyền đó. Nó thuộc về một trong những người quan trọng nhất của thành phố chúng tôi.” Khizr chỉ vào chiếc thuyền khác và hỏi: “Ai là chủ chiếc thuyền này?” Họ nói: “Ông có thể dùng thuyền đó nếu ông muốn. Nó thuộc về một số trẻ mồ côi nghèo nàn không quan trọng.” Nghe vậy, Hazrat Khizr lật ngược chiếc thuyền lên và giậm chân vào đáy thuyền, kết quả là một số ván thuyền bị thủng. Điều này dường như là hành vi vô nhân đạo đối với người tu hành đó. Người tu hành nổi nóng gầm lên, quên cả tự chủ: “Ông thật là điên rồ và vô lương tâm! Ông không làm vỡ ván thuyền của người giàu, vì họ có đủ tiền để sửa. Nhưng lại làm vỡ ván thuyền thuộc về những trẻ em mồ côi nghèo nàn, hỡi ông Khizr kia, đó là hành động tàn nhẫn. Ông không nên bao giờ làm một điều như vậy.” Khizr hỏi người tu hành: “Anh không nhớ lời hứa à? Anh nói với tôi là anh không phản đối bất cứ gì tôi làm cơ mà.” Người tu hành nói: “Xin thành thật thứ lỗi cho tôi. Ngài nói đúng. Tôi không nên nói gì hết.” Hai người thánh thiện sau đó tiếp tục đi bộ dọc theo bờ sông và khoảng sau một dặm, họ đến ngôi làng trong đó có một căn nhà bỏ hoang và bị phá hủy khoảng một nửa căn nhà. Một bức tường hầu như chỉ còn hơn đống gạch vụn một chút. Khizr nói: “Chúng ta phải sửa bức tường này. Tôi sẽ đi kiếm nước, rồi chúng ta trộn với bùn và đắp lại bức tường này.” Sau khi công việc này hoàn tất, bức tường dựng lên, thì trời tối, và cả hai người thánh thiện vừa mệt vừa đói. Vì căn nhà họ sửa tường bị bỏ hoang, nên không ai đến cúng dường họ bất cứ gì để ăn hoặc uống, và kết quả là họ nằm xuống nghỉ ngơi, rồi ngủ với bụng trống. Người tu hành lại mở miệng: “Hazrat Khizr, thật là điên rồ để sửa tường của căn nhà bỏ hoang. Nếu có lý do cần thiết nào đó để chúng ta sửa bức tường, thì mình nên chọn nhà nào mà có người sống trong đó chứ. Rồi thì chúng ta có lẽ được cúng dường cả thức ăn lẫn sữa rồi. Nhưng bây giờ nhìn cả hai chúng ta mà xem. Chúng ta vừa mệt lả vừa đói khát, và không có ai ở đây để cho chúng ta bất cứ cái gì hết.” Qua nhiều phút hơn nữa, người tu hành tiếp tục mắng nhiếc ông bạn đường của Thượng Đế, Khizr. Sau đó, khi người tu hành ngưng chửi rủa, Khizr mới nói: “Hãy tránh xa tôi ra và đi đi. Rõ ràng là anh chưa xứng đáng để làm người đồng hành với tôi hoặc nhận giáo lý của tôi.” Điều này rất thuận ý với người tu hành nọ, vì anh ta không thấy có bất cứ mục tiêu nào trong những việc mà Khizr đã làm, và không học được bài học nào từ những việc đó cả. Nên anh ta nói: “Tôi sẵn sàng rời xa ông, Khizr ạ. Nhưng trước khi tôi đi, xin ông hãy giải thích tại sao ông làm những điều lạ lùng như vậy.” Khizr nói: “Hãy nghe đây. Đây là những lý do mà tôi đã làm những việc như vậy. Tôi đập đáy thuyền thuộc về các trẻ em mồ côi nghèo nàn đó, bởi vì nhà vua với đoàn quân rất đông đảo không bao lâu sẽ đi qua vùng này. Ông ta và quân lính sẽ lấy tất cả các thuyền ngoại trừ thuyền bị thủng đáy. Thuyền đó sẽ được để lại cho các em mồ côi, và chúng sẽ sửa chữa dễ dàng, và rồi sẽ lấy được một số tiền lớn để chở quân đội sang sông. Bức tường mà chúng ta sửa chữa là một phần của căn nhà thuộc về các em mồ côi đó, và bên trong bức tường có dấu một kho tàng đầy châu báu và vàng bạc. Khi các em khôn lớn, các em sẽ có căn nhà đó và sẽ tìm được kho tàng. Tôi được Thượng Đế ra lệnh sửa lại bức tường đó, để nó không rơi đổ hoàn toàn, rồi để lộ ra kho tàng, và người khác sẽ lấy đi mất. Vì vậy, tất cả là lệnh của Thượng Đế mà tôi thi hành thôi.” Sau khi Khizr chấm dứt giải thích, người tu hành chỉ biết khiêm tốn cúi đầu lạy trước vị giáo sĩ và nói: “Thưa Ngài Hazrat Khizr, tôi xin cảm tạ Ngài, và một lần nữa xin Ngài thứ lỗi cho tôi.” Anh ta gục đầu nhục nhã, và trở thành người khôn ngoan hơn. (Người dịch chú thích: Tất cả mọi thứ trên thế gian này đều được an bài bởi Thượng Đế Tối Cao và Ý Chỉ của Ngài cần phải thi hành một cách nghiêm túc.) (Thánh Paul nói: “Chúng tráo Chân Lý của Thượng Đế cho sự dối trá, và lại đi tôn sùng cùng phục vụ tạo vật, thay vì Đấng Tạo Hóa, là vị ban phúc vĩnh hằng.”) Udho, đệ tử thành tâm của Minh Sư Krishna, có lần hỏi thầy mình: “Thưa Sư Phụ, Ngài là toàn năng và có thể làm bất cứ gì Ngài muốn. Khi con tự nhìn vào mình, con thấy trên thế gian này, tất cả chúng sinh đều chịu đau đớn và khổ ải thuộc đủ loại không thể tưởng tượng được. Nhiều người chìm ngập trong thất vọng. Thế tại sao Sư Phụ không từ bi mà đem tất cả tạo vật lên căn nhà Thượng Giới của Ngài, nơi có hỷ lạc vĩnh hằng?” Minh Sư Krishna mỉm cười nói: “Udho, con ngoan của ta, họ không muốn đi.” Udho lại hỏi: “Thưa Sư Phụ, làm sao lại có thể như vậy? Khó cho con tin quá. Làm sao con có thể tin rằng Ngài nói đúng?” Minh Sư Krishna đề nghị: “Vậy sao con không đi hỏi các tạo vật xem?” Nghĩ rằng cách này là duy nhất để khám phá sự thật, Udho liền khởi hành ra đi hỏi câu hỏi của anh với bất cứ chúng sinh nào gặp trên đường. Con vật đầu tiên mà anh gặp là con heo. Anh nói: “Bạn heo thân mến, có thế giới Thiên Đàng đẹp đẽ bên ngoài Địa Cầu này, và nơi đó luôn luôn có an bình và hạnh phúc. Nếu bạn muốn theo tôi, thì tôi sẽ dẫn bạn lên đó. Chúng ta có thể khởi hành ngay bây giờ nếu bạn muốn.” Con heo hỏi liền: “Liệu tôi sẽ có con cái trên thế giới của anh không?” Udho trả lời: “Không.” Heo hỏi tiếp: “À, liệu tôi có được cám và nước vo gạo trên Thiên Đàng để ăn như ở dưới đây hay không?” Udho nói: “Không. Nhưng có thức ăn khác trên Thiên Đàng mà tôi tin là bạn sẽ thích vô cùng.” Heo nói: “Tôi hổng tin. Thức ăn nào mà có thể ngon hơn là cám mà tôi ăn ở đây? Vậy anh hãy đi một mình đi. Tôi không muốn đi lên Thiên Đàng mà anh vừa diễn tả chút nào hết.” Điểm chính ở đây là rất khó mà rời bỏ thế gian này để hòa mình vào Âm Thanh nội tại. (Ansari ở Heart nói: “Tình thương và lòng từ bi đối với mọi chúng sinh ngự trong tâm, do đó tâm mình không thể còn chỗ để tìm thú vui cá nhân nữa. Bạn hỡi, hãy cẩn trọng đừng làm hại bất cứ sinh vật nào; vì làm đau tạo vật của Ngài là quên đi Đấng Tạo Hóa đấy.”) Một giáo sĩ, lòng kính nể Thượng Đế, có lần đi trên một hành trình dài, mang theo với ông một bọc đựng đầy bánh mì để ăn dọc đường. Vào cuối ngày đầu tiên, ông đến một ngôi đền Hồi Giáo nho nhỏ, và ở đó ông ngủ qua đêm. Sáng hôm sau ông tiếp tục lên đường, đang đi với tốc độ nhanh khoảng 10 dặm, thì quyết định dừng lại ăn. Nhưng khi mở bọc ra, thì thấy bánh mì bị kiến bu đầy. Ông nghĩ: “Ồ xui quá. Vì ta đem các con kiến đáng thương này đi quá xa nhà của chúng trong ngôi đền nọ. Chắc hẳn chúng đang ao ước được ở cùng với đồng bạn lắm đây.” Lòng tràn đầy quan tâm cho phúc lợi của đàn kiến, vị giáo sĩ trở ngược đường đem đàn kiến về lại nhà của chúng bên trong ngôi đền. Tôn giáo chân chính dạy về lòng từ bi, chứ không phải bạo lực. (Minh Sư Nanak nói: “Nếu có thể khắc phục được đầu óc, thì có thể khắc phục được thế giới.”) Vua Pariksit có lần hỏi Giáo sĩ Ved Vyas: “Tại sao các vị tổ tiên của tôi lại làm nô lệ cho đầu óc như vậy, và tại sao họ không thể kiềm chế được nó?” Ved Vyas trả lời: “Tâu Bệ hạ, đầu óc ưa chuộng thú vui và rất mạnh mẽ, và không có cách nào trốn thoát khỏi nó. Không bao lâu nữa, bệ hạ sẽ đích thân hiểu điều này. Ba tháng sau ngày hôm nay, một thương gia sẽ đến gặp bệ hạ với con ngựa. Xin đừng mua con ngựa đó. Ngay dù có mua đi nữa, thì đừng cưỡi nó. Và nếu có cưỡi nó, thì đừng đi về hướng đông, nơi đó có một phụ nữ đang đợi bệ hạ. Còn nếu bệ hạ đi về hướng đó, thì đừng nói chuyện với cô gái đó. Nếu nói chuyện với cô đó, thì đừng mang cô ta về cung điện. Dẫu sao, nếu có mang về cung điện, thì đừng cưới cô ta. Cuối cùng, nếu có lỡ cưới cô ta, thì đừng tuân lời cô ấy. Rồi, tôi đã nói cho bệ hạ cách để tránh những mệnh lệnh của đầu óc, và bây giờ thì tùy bệ hạ chứng tỏ rằng bệ hạ có thể kiểm soát nó được hay chăng.” Sau ba tháng, một thương gia thật sự đi đến với con ngựa, và nhà vua chưa bao giờ thấy một con ngựa đẹp và đặc biệt như vậy. Các quan triều đình cũng thấy ngựa hiếm và đẹp cỡ nào, nên họ thúc dục nhà vua mua ngựa đó. Họ nói: “Dù bệ hạ không cưỡi nó, nhưng ít ra ngựa này cũng là một vật quý trong chuồng ngựa của bệ hạ. Các vua khác đến xem, thì sẽ tăng thêm danh tiếng cho chuồng ngựa của chúng ta.” Nhà vua, dĩ nhiên, mua con ngựa đó. Vài ngày sau, người giữ ngựa đến gặp nhà vua và nói rằng anh ta ưa thích con ngựa và đặc tính của nó biết chừng nào. Anh ta nói: “Tâu bệ hạ, nó đáng cho bệ hạ cưỡi thử.” Nhà vua nghĩ rằng ông sẽ cưỡi con ngựa tuyệt vời đó và dễ dàng tránh đi về hướng đông. Tuy nhiên, khi ông thật sự vừa lên yên ngựa, thì nó lồng lên, không thể kiểm soát được, và nó phóng nước đại về hướng đông. Nơi đó, ông thấy một phụ nữ tuyệt đẹp ngồi bên vệ đường và đang khóc. Ông xuống ngựa và hỏi lý do tại sao cô ta buồn vậy. Cô gái trả lời: “Thưa ngài, tôi bị ly biệt với thân nhân và tất cả bạn hữu, và bây giờ tôi cô đơn trên cõi đời này. Tôi không biết đi về đâu.” Nhà vua bảo cô ta: “Nếu cô theo ta về triều đình của ta, thì ta sẽ làm tất cả mọi thứ để cô vui. Nhưng ta không biết có nên đem cô về hay không, ta thật sự không biết.” Cô gái khóc: “Tâu bệ hạ, nếu ngài để tôi lại đây, và tôi bị thú dữ giết trong khu rừng này, thì bệ hạ phải mang nghiệp đấy.” Câu nói đó giải quyết vấn đề. Nhà vua đem cô ta về cung điện, nhưng với quyết tâm là sẽ không cưới cô ta. Khi nhà vua mang cô ta về đến cung điện, thì mọi người không bao lâu khởi sự ca ngợi cô ấy, nói nào là cô ta đạo đức, nào là tánh tình điềm đạm, và nết na thùy mị, tuyệt đối xứng đáng làm hoàng hậu. Cho nên, nhà vua cưới cô gái này. Cô ấy đòi hỏi sau đó: “Thậm chí khi người phu quét đường làm đám cưới, anh ta cũng có tiệc cưới. Vậy thì làm sao, dù chúng ta đã thành phu thê, lại không có yến tiệc mừng đám cưới cho mình?” Nhà vua hỏi cô ta muốn những gì. Cô ấy nói rằng cô thích mời tất cả những vị Thánh Nhân và đạo sĩ tới tham dự tiệc cưới. Vì vậy, một ngày được định sẵn, và khi tất cả quan khách đến và cử tọa, thì hoàng hậu nói với nhà vua rằng cô muốn tự tay hầu thức ăn. Quan khách đều là những nhân vật thiện lành và khôn ngoan − hiền giả và ẩn sĩ. Nhưng khi tân hoàng hậu đem thức ăn đến phục vụ họ, thì cô ấy bỗng nhiên nổi cơn tam bành và bắt đầu giận dữ la mắng họ. Cô ta la hét: “Các ngươi toàn là đồ đạo đức giả. Các ngươi đều chăm chú nhìn ta!” Nhà vua tin vợ; ông ta cũng nổi cơn thịnh nộ và vung kiếm đuổi đánh các vị thánh hiền. Ngay lúc đó, Giáo sĩ Ved Vyas xuất hiện, hỏi nhà vua ngay lập tức: “Nào, nào, nhà vua kia, ông vẫn còn tin rằng đầu óc có thể kiểm soát được chăng?” Vua Pariksit cúi đầu nhục nhã. Đầu óc làm nhục và phá hoại rất nhiều người thánh thiện. Các hiền nhân như Parashar, Vishvamitra, Shringi, và nhiều người khác nữa, đều rơi vào sự thống trị của đầu óc. Lực lượng để kiềm chế đầu óc có ở bên trong chúng ta. Chỉ bằng cách rút tâm thức ra khỏi thân thể, dưới sự hướng dẫn của Minh Sư tại thế, và đem linh hồn lên các cảnh giới cao hơn bằng Âm Thanh nội tại, thì chúng ta mới có thể khuất phục được đầu óc mà thôi. (Thánh John nói: “Ai làm những gì chân chính thì đi vào ánh sáng, để các việc làm của mình được bày tỏ ra, vì đã thực hiện trong Thượng Đế.”) Một ngày nào đó, hãy đọc truyện về cuộc đại chiến Mahabharat, trong đó sự chém giết chỉ xảy ra qua 17 hay 18 ngày thôi. Một số công tử và quốc vương đánh nhau trong một ngày, những người khác chiến đấu trong hai ngày, nhưng ba ngày là nhiều nhất cho bất cứ một ai. Bhishma Pitamah, con vua Raja Shantanu, đơn thân độc mã chiến đấu trong 11 ngày. Ông đã có thể đạt được kỳ công độc đáo này là nhờ kết quả của lối sống tinh khiết và đơn thuần. Khi mẹ ông chết, vua cha trở nên rất cô đơn. Vua cha muốn tái giá, nhưng không ai sẵn lòng gả con gái cho vua, vì nghĩ rằng ngai vàng sẽ về tay Bhishma Pitamah, con trai trưởng của hoàng gia. Khi Bhishma Pitamah biết được điều này, và thấy phụ thân muốn có vợ khác, ông thề rằng sẽ không nhận ngai vàng và vương quốc là của mình, và sẽ không bao giờ cưới vợ. Vào thời đó, không có hiệp ước ký kết bằng giấy tờ. Con người chỉ đơn giản vẩy chút nước vào trong lòng bàn tay, rồi họ tuyên bố lời thệ nguyện. Khi nhận được lời thề từ con trai trưởng, nhà vua tái giá và có được hai con trai khác với bà hoàng hậu thứ nhì. Rồi khi vua cha từ trần, Bhishma Pitamah suy nghĩ: “Mẹ kế của ta còn trẻ và có thể gặp những loại người xấu xa, rồi rơi vào những hố sâu tội lỗi.” Để bảo vệ bà tránh những hiểm nguy như vậy, ông ngồi một mình với bà vào buổi tối và đọc sách đạo hoặc thánh kinh cho bà nghe, hay là giảng pháp về những chủ đề như vậy. Khi người ta khám phá Bhishma Pitamah ở bên mẹ kế mỗi tối, họ bắt đầu xầm xì đồn đãi, và bảo những công tử con bà kế rằng công tử Bhishma Pitamah không đứng đắn. Khi các công tử trẻ nghe như vậy, họ nấp trong cung điện, với gươm cầm tay, và tìm cách xem những gì xảy ra trong đêm. Sống trong sạch mang lại thành công ở mọi thời, cả đời lẫn đạo. Nó cũng tạo lợi ích khi còn trẻ, và sau này còn mang đến sức khỏe dồi dào, tinh thần vô úy, và tâm hồn chân chính nữa. Do đó, Bhishma Pitamah không hề để ý đến những lời đồn đãi, và vẫn đến tư phòng của mẹ kế như thường lệ và khởi sự giảng pháp. Khi ông để ý thấy bà mẹ kế đã ngủ, ông nói: “Kính thưa mẹ, mẹ bây giờ đã ngủ rồi ạ?” Khi hai công tử trẻ thấy quan hệ giữa mẹ họ và Bhishma Pitamah như tình mẫu tử, họ cảm thấy hối hận sâu xa vì những tư tưởng xấu của họ. Sáng hôm sau, họ đến gặp Bhishma Pitamah và hỏi ông: “Một người đáng bị trừng phạt như thế nào, nếu người đó gọi một vị đạo đức là kẻ tội lỗi?” “Vu khống như vậy đáng bị trừng phạt nặng nhất. Bất cứ ai có tội với việc làm đê tiện như vậy thì nên tự mình xây giàn thiêu đốt xác dưới cây đa và tự đốt cho chết,” đó là câu trả lời của Bhishma Pitamah, mà ông không bao giờ nghĩ rằng chính các công tử trẻ đang nói về chính họ. Hai vị công tử trẻ, là dòng dõi cao quý, nhận thấy họ đã làm tổn thương đến lòng chính trực và vinh dự của họ, vì phỉ báng người anh cùng cha khác mẹ với họ. Vì vậy, họ dựng giàn thiêu và tự chấm dứt đời của họ (Thánh James nói: “Phúc thay cho người nào kháng phục được cám dỗ: vì khi người đó bị phán xét, thì người đó sẽ nhận được vương miện của sự sống đời đời, mà Thượng Đế đã hứa cho những ai thương Ngài.”) Bhai Manjh là một người giàu có và chủ đất của toàn thể ngôi làng ông sống. Ông cũng là một tín đồ trung thành của vị tu hành thánh thiện tên là Sakhi Sarwar. Nhưng một ngày, ông tình cờ dự buổi giảng pháp của Minh Sư Arjan Dev, và những lời của vị Minh Sư này gây ấn tượng sâu xa trong đầu ông, nên ông xin thọ Tâm Ấn với Ngài. Minh Sư Arjan hỏi: “Hiện giờ con đang theo học ai?” Manjh khiêm tốn trả lời: “Dạ thưa Ngài, con là tín đồ của Sakhi Sarwar.” Vị Minh Sư mới nói: “Ta sẽ truyền Tâm Ấn cho con, sau khi con về nhà và san bằng phá hủy căn phòng mà con dành riêng để cúng bái thờ phụng đó.” Manjh chạy tốc hành về nhà thật nhanh và phá vỡ từng viên gạch của căn phòng đó. Một số người tụ lại xem ông làm việc đó và cảnh cáo ông ta: “Bhai Manjh, ông sẽ phải trả nghiệp rất nặng vì dám tàn phá căn phòng thiêng liêng này. Chúng tôi không dám ở trong địa vị của ông đâu.” Manjh nói một cách can đảm: “Tôi đã làm rồi. Và tôi sẵn sàng chịu bất cứ hậu quả nào.” Khi ông trở lại gặp Minh Sư Arjan Dev, vị Minh Sư ban Tâm Ấn cho ông, và thấy ông xứng đáng lúc bấy giờ. Tuy nhiên, ông có số mệnh phải trải qua nhiều khảo nghiệm hơn nữa. Không bao lâu, con ngựa của ông lăn ra chết, rồi một số trâu bò cũng ngủm, kế tiếp, những tên ăn cướp đến lấy mất một số tài sản của ông. Các dân làng chế nhạo ông: “Đây là hậu quả của sự vô lễ đối với Sakhi Sarwar. Ông nên xây lại phòng thờ trong nhà của ông đi.” Nhưng không có gì làm Bhai Manjh sờn lòng. Ông nói với họ: “Tôi không sợ những gì xảy ra. Sư Phụ của tôi là người toàn trí, và Ngài biết cái gì là tốt nhất cho tôi. Cho nên, không có gì làm lay chuyển đức tin của tôi.” Hết sự xui xẻo này đến xui xẻo khác, và không bao lâu, Manjh không những trở nên nghèo nàn mà lại còn nợ một số tiền khổng lồ nữa, và rất nhiều chủ nợ của ông đến đòi trả tiền ngay tức khắc. Những bạn cũ của ông năn nỉ: “Nếu ông chỉ cần xây lại phòng thờ, thì mọi thứ sẽ trở nên tốt đẹp hơn.” Bhai Manjh vẫn kiên tâm và quyết định dời ra ngoại ô căn làng để sống. Vì ông luôn luôn từng là người chủ đất, nên Manjh không biết nghề gì khác hết. Bây giờ, ông cần làm việc để kiếm sống, nên ông kiếm kế sinh nhai bằng cách cắt và bán cỏ. Nhiều tháng trôi qua, có một ngày, Minh Sư Arjan phái một đệ tử mang lá thư đến cho Bhai Manjh, chỉ thị cho người đệ tử mang thư rằng: “Con phải nhớ đòi cho bằng được 20 đồng rupi (tiền Ấn Độ), làm tiền cúng dường, trước khi đưa lá thư này cho Bhai Manjh, nghe không. Nếu ông ta không trả tiền cho con, thì đem thư về.” Bhai Manjh quá đỗi vui mừng khi thấy lá thư của Sư Phụ, nhưng không có tiền để trả 20 đồng rupi. Ông hỏi vợ xem bà có ý kiến gì chăng. Phu nhân ông trả lời: “Em sẽ đem đồ trang sức của em và con gái đến tiệm vàng, và xem ông ta trả cho mình bao nhiêu tiền.” Người chủ tiệm vàng trả bà đúng 20 đồng rupi. Do đó, Manjh đưa 20 đồng rupi làm tiền cúng dường, nhận lá thư của thầy, hôn lá thư, dâng lên trên trán, niệm Hồng Danh, và ôm lá thư vào ngực. Hai năm sau, vị Minh Sư lại gửi Manjh lá thư thứ nhì, và Manjh cũng phải cúng dường 20 đồng rupi mới nhận được thư. Một lần nữa, Bhai Manjh không có tiền. Nhưng ông nhớ lại rằng người trưởng làng có lần xin cưới con gái của ông cho con trai của ông trưởng làng này. Vì vậy, ông yêu cầu vợ hãy đi gặp vợ ông trưởng làng, và bảo vợ rằng hãy chấp thuận cho con gái họ lấy con trai của vợ chồng trưởng làng, mặc dù người trưởng làng thuộc giai cấp thấp hơn, và đòi 20 đồng rupi làm của hồi môn. Ông trưởng làng vui lòng trả 20 đồng rupi và Bhai Manjh nhận được lá thư của thầy. Nhưng vị Minh Sư còn khảo Bhai Manjh thêm nữa. Ngài bảo một đệ tử rằng: “Hãy đi đến gặp Bhai Manjh và bảo ông ấy đến gặp ta.” Manjh nhanh chóng đến nơi và vui mừng phục vụ vị Sư Phụ yêu quý của ông. Ở đó, ông và vợ cùng con gái làm việc trong nhà bếp, lau chùi chén dĩa thìa đũa, và bửa củi để đốt nấu ăn. Sau vài ngày, vị Minh Sư lại hỏi: “Bhai Manjh lấy thức ăn ở đâu?” Những đệ tử trả lời: “Dạ thưa, ông ấy ăn với tất cả chúng con, lấy thức ăn từ bếp cộng đồng miễn phí.” Nhưng vị Minh Sư nói: “Đối với ta, dường như Bhai Manjh không làm việc phục vụ chân chính, vì vậy không được lấy cái gì để trả lại cho công việc của ông ấy. Ông ấy đang lấy lương bằng hình thức thực phẩm.” Manjh nghe điều này từ vợ mình. Ông bảo với phu nhân ông rằng: “Anh không muốn nhận gì hết để trả cho việc anh phục vụ vị Sư Phụ yêu quý, là người cho anh món quà Âm Thanh nội tại vô giá. Chúng ta sẽ kiếm thức ăn bằng phương tiện khác.” Cho nên, từ hôm đó, Bhai Manjh đi vô rừng đốn củi mỗi tối. Rồi ông bán củi ở chợ trời, và dùng tiền kiếm được để mua thức ăn. Trong ngày, ông và gia đình làm việc tại nhà bếp như cũ. Sau vài tuần, Manjh vào rừng đốn củi lúc ban đêm. Một cơn bão lớn nổi lên, và Bhai Manjh can đảm phấn đấu chống lại gió mạnh, với bó củi trên đầu. Nhưng gió mạnh quá đến nỗi thổi Bhai Manjh cắm đầu xuống một cái giếng, cùng với bó củi quý giá. Tất cả những gì xảy ra đều được vị Minh Sư biết. Cho nên khi Manjh bị thổi xuống giếng, Ngài tụ tập một số đệ tử và nói: “Nhanh lên nào, đi lấy một tấm ván gỗ, và sợi dây thừng. Phải đi theo ta vào rừng ngay lập tức.” Khi đến giếng đó, vị Minh Sư bảo họ: “Bhai Manjh ở dưới đáy giếng. La lên cho anh ta nghe và bảo rằng chúng ta sẽ hạ dây thừng xuống giếng với tấm ván gỗ. Bảo anh ta nắm lấy tấm ván để chúng ta kéo anh ấy lên.” Người đệ tử y lời làm, nhưng anh ta cũng nói thêm những lời mà vị Minh Sư đã kín đáo dặn anh, không ai khác biết: “Này sư huynh, hãy xem tình trạng khốn khổ của anh. Và tất cả là vì cách Sư Phụ đối xử với anh. Tại sao anh không bỏ cái ông Thầy mà làm những điều như vậy đi, hả?” Manjh la lớn: “Cái gì? Bỏ vị Minh Sư yêu quý? Không bao giờ! Còn anh, tên đệ tử vong ân bội nghĩa, xin đừng bao giờ nói những lời vô lễ đối với Sư Phụ trước mặt tôi. Điều làm tôi đau đớn khi nghe những lời nói đáng hổ thẹn như vậy.” Rồi Bhai Manjh yêu cầu kéo bó củi lên khỏi giếng trước và nói: “Hãy kéo bó củi lên trước, bởi vì nó dùng trong bếp của Sư Phụ. Tôi không muốn củi bị ướt, rồi không đốt được.” Bó củi lên trước, rồi Bhai Manjh sau đó được kéo lên khỏi giếng nước. Khi ông đứng đối diện mặt nhìn mặt với vị Sư Phụ yêu quý của ông, thì Minh Sư Arjan nói: “Con hãy xin bất cứ gì con muốn. Nếu con muốn, ta sẽ cho con cả tam giới.” Manjh khiêm tốn đáp: “Dạ thưa Sư Phụ kính yêu, con chỉ muốn có một mình Ngài thôi.” Câu này khiến Minh Sư Arjan rất hài lòng. Ngài ôm chầm lấy Manjh và gia trì cho ông, nói rằng: “Manjh là người yêu quý của Sư Phụ, và Sư Phụ là người yêu quý của Manjh. Bây giờ Manjh, cũng giống như Minh Sư, là chiếc thuyền mang con người sang bên kia bờ biển khổ.” Việc của Manjh làm mới là hàng phục Minh Sư thật sự. |
Archives
January 2023
Categories |