Bản tin 15 Người Cầu Đạo Thành Tâm Tại Mã Lai Á có một vị đồng tu mới được truyền Tâm Ấn. Không lâu, trước khi truyền Tâm Ấn, vì muốn tìm kiếm chân lý, ông đi khắp nơi tìm minh sư, ông đã quy y với rất nhiều môn phái, như Bạch Giáo, Hầu Giáo của Mật Tông v.v.... Sau đó qua người giới thiệu, ông quen biết được với một người Thượng Sư Mật Tông có phù phép, ông ngỡ rằng mình đã tìm được một vị chân sư, nhưng có ngờ đâu sau khi quy y với vị chân sư ấy, tinh thần của ông càng ngày càng hoang mang, cuộc sống mỗi lúc một khó khăn, hành vi và ngôn ngữ dị thường, nhiều lần ông bị tẩu hỏa nhập ma. May sao nhờ người nhà khuyên bảo, ông dần dần tỉnh ngộ, bước ra khỏi con đường tà đạo; nhưng sau đó tinh thần của ông, cuộc sống gia đình, cùng sự nghiệp đều bị ảnh hưởng nặng nề. Từ đó ông cảm thấy thế sự vô thường, không còn lưu luyến bất cứ một điều gì của thế giới này nữa, vì muốn chuộc lại những lỗi lầm trên con đường cầu đạo của ông, ông đã phát tâm ăn chay một khoảng thời gian. Những Ngày Đầu Ăn chay được ba ngày, một bữa nọ ông đến một tiệm ăn chay nhìn thấy sách biếu của Sư Phụ, thuận tay ông đem một quyển về nhà đọc, sau khi đọc xong sách của Sư Phụ rất tỉ mỉ, ông không hiểu vì sao ông cảm thấy cảm động và khóc nức nở, mỗi đêm ông đọc sách của Sư Phụ, những giọt lệ nóng hỗi không ngừng rơi, từ đó ông phát tâm ăn chay trọn đời, và bắt đầu đi tìm kiếm Sư Phụ. Ăn chay gần được ba tuần lễ, ông liên lạc được với Trung Tâm Penang, và thỉnh một số sách của Sư Phụ về nhà đọc, ông là một vị viện trưởng của một trường thương nghiệp rất nổi tiếng tại đây, công việc rất bận rộn, dù bận bao nhiêu, mỗi ngày ông nhất định phải tìm kiếm cho được thời giờ để đọc được sách của Sư Phụ. Ông nói mỗi lần ông đọc sách của Sư Phụ, thì tiếng của Sư Phụ như đang nói ở trong tai, dường như đích thân ông đang ngồi ngay ở hội trường để nghe Sư Phụ giảng vậy, ông rất tỉ mỉ đọc sách của Sư Phụ, ông cho rằng mỗi một chữ của Sư Phụ khai thị đều rất quí báu, nếu như không cấn thận đọc, mà bỏ qua một chữ nào trong sách của Sư Phụ, thi đối với ông đó là một sự mất mát rất lớn. Bình thường khi ông không đọc Sách của Sư Phụ, ông hay thấy đôi mắt sáng của Sư Phụ xuất hiện trước mặt ông để gia trì cho ông. Hiện tượng nầy liên tục kéo dài hơn ba tháng, cho đến khi ông đọc xong sách của Sư Phụ thì mới chấm dứt. Khát Vọng Được Truyền Tâm Ấn Ông nhớ lại những ngày đầu vừa mới đọc được sách của Sư Phụ, trong lòng khác vọng vô cùng, muốn được truyền Tâm Ấn ngay, không thể nào chờ được nữa. Ông vô cùng hối hả, cứ ngỡ rằng mình mất qua cơ hội tìm được một vị minh sư chân thật. Và cũng vì quá trình cầu đạo trước đây của ông, ông đã gặp phải quá nhiều thất vọng, tu quá nhiều pháp môn tà đạo, cho nên khi ông hiểu một cách rõ ràng Pháp Môn Quán Âm mà Sư Phụ truyền là một Pháp Môn Đốn Ngộ có thể giúp người khai ngộ và liễu thoát, cũng vì vậy lòng khát vọng của ông mãnh liệt hơn những người khác. Vị liên lạc viên của thành phố Penang thấy ông ta hối hả như kiến bò trên lửa liền đề nghị ông ghi tên thọ Tâm Ấn. Nói cũng lạ, khi ông ghi danh thọ Tâm Ấn xong, ngày hôm sau cả con người đột nhiên yên tĩnh trở lại, dường như vừa mới uống xong viên thuốc định tâm vậy. Ăn chay được ba tháng, hối hả trong lòng, ông lại bắt đầu thức dậy với một sự khát khao mãnh liệt, mỗi ngày ông đều hết lòng hết dạ khẩn cầu Sư Phụ, sớm truyền pháp cho những người đang chờ đợi này. Sau đó hóa thân của Sư Phụ nói với ông: "Trong vòng hai tuần sẽ truyền Tâm Ấn cho mọi người." Quả nhiên không lâu Sư Phụ phái một vị xuất gia đến Mã Lai Á để lo liệu về việc truyền Tâm Ấn bằng vô tuyến. Ngày thọ Tâm Ấn đúng là ngày cuối của tuần thứ nhì mà hóa thân Sư Phụ đã nói với ông. Buổi sớm sinh nhật của Sư Phụ năm nay, lúc ông ngồi thiền ông thấy hóa thân của Sư Phụ đến, tay cầm bình tịnh thủy màu trắng rưới nước cam lồ cho ông, bên cạnh hóa thân Sư Phụ, là thập phương tam thế Phật Bồ Tát, hóa thân của Sư Phụ nói với ông rằng: "Từ ngày hôm nay ngươi chính thức là đệ tử của ta." Thân Bằng Quyến Thuộc Siêu Sanh Trước hôm truyền Tâm Ấn mấy ngày, ông y theo pháp phương tiện tọa thiền, ngày hôm đó ông nhìn thấy được rất nhiều tổ tiên của ông, từng người từng người một xuất hiện trước mặt ông, mỉm cười rất hoan hỷ. Trong các vị tổ tiên này có người ông quên, có người ông không quên, thậm chí một vị thầy Ấn Độ và một vị láng giềng trước đây cũng xuất hiện trong đám người đó, từ thể nghiệm của chính mình ông hiểu rõ tất cả những gì Sư Phụ bảo chứng đều là sự thật! Tâm Ấn đích thật là năm đời siêu sanh, tất cả những thân bằng quyến thuộc và những người quen biết điều nhận được những lợi ích rất lớn. Ngày hôm sau trong lúc ngồi thiền, ông lại thấy một đoàn tổ tiên của ông xuất hiện và đảnh lễ, ngỏ lời cảm ơn ông, trong đó có cả người mẹ qua đời của ông, ông nói với mẹ của ông rằng: "Mẹ là trưởng bối của con, không nên đảnh lễ con." Nhưng mẹ của ông nói một cách từ tốn rằng: "Mẹ không phải đảnh lễ con, mẹ đảnh lễ Phật." Ý nghĩa của lời nói này là những người đã được thọ Tâm Ấn, đã được câu thông với lực lượng vạn năng của Phật bên trong, không còn là phảm phu nữa. Sau khi thọ Tâm Ấn, ông lại thấy Sư Phụ dẫn hai người thân đã siêu sanh của ông, một người trước đã tự sát, và một người có bệnh thần kinh. Những người tự sát thông thường cần phải trải qua nhiều thời gian mới có thể thoát khỏi những cảnh giới thấp mà họ đã rơi vào, nhưng những người đã được thọ Tâm Ấn, thì người thân thuộc của họ dù với nghiệp chướng nặng nề, Sư Phụ vẫn dẫn dắt họ đi siêu sanh. Những thể nghiệm bên trong này làm cho ông tin tưởng lực lượng vạn năng của Sư Phụ, đồng thời ông hiểu rằng những người tu hành với Sư Phụ mới đáng được gọi là những người hiếu tử; bởi vì những người này thật sự cứu được vô số tổ tiên và thân bằng quyến thuộc ra khỏi đau khổ. Thần Kỳ Cảm Ứng ông nói rằng Sư Phụ không phải chỉ dạy dỗ ông bên trong, mà lẫn cuộc sống bên ngoài, Sư Phụ cũng chăm nom cho ông nữa. Ông kể ra một dẫn chứng: Có một hôm ông tiếp một cú điện thoại bảo ông tham gia một hội nghị rất quan trọng, người tham dự hội nghị là một vị đại biểu của một trường nổi tiếng tại New Zealand. Nhưng ngày hôm đó du khách qua nhiều, lấy vé máy bay rất khó khăn, cho nên ông một mực khẩn cầu Sư Phụ bên trong giúp đỡ. Từ nhà đến phi trường ông liên tục khẩn cầu, người bán vé tại công ty hàng không nói với ông rằng dầu là nửa vé cũng không có, hơn nữa có mấy chục người từ sớm đã đến chờ mà chưa có một vé nào. Tuy nhiên cuộc hội nghị này đối với ông rất quan trọng, ông lo lắng nhiều. Đột nhiên có một người đến chào hỏi ông, thì ra đó là một người bạn mà mấy mươi năm rồi không gặp. Nhờ người bạn cũ này mà ông đã được một vé máy bay hạng nhất. Khi lên máy bay, ông được đưa vào một phòng nghĩ ngơi thoải mái, và được tiếp đón một cách chu đáo. Khi ông nói đến cảm ứng nầy, đối với lực lượng của Sư Phụ ông tán thán không ngớt, ông cảm thấy Sư Phụ thật là quá vĩ đại, không có một ngôn ngữ nào mà có thể diễn tả được đại lực lượng siêu việt của Sư Phụ. Một Con Người Mới Vào ngày thọ Tâm Ấn, ông hai lần thấy được ánh sáng cực mạnh, ông cảm thấy một luồng lực lượng vĩ đại đến gia trì ông, lực quán âm ông nghe chấn động lực cực mạnh của âm lưu; sau khi thọ Tâm Ấn, ông lập tức cảm thấy rất thoải mái, cả con người như được thay xương đổi cốt, trong đáy nội tâm của ông thay đổi toàn diện, những gánh nặng trên người dường như rớt xuống. Trước đây những lo âu, phiền não, những áp lực thế nhân, những tư tưởng phủ định, dường như đã rời bỏ ông, để lại cho ông một cảm nhận vô cùng tích cực lạc quan, một tư tưởng khẳng định hướng thượng! Mỗi ngày ông đều cảm nhận một cách rõ rằng Sự Phụ bên trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ đều ở với ông, giờ khắc nào cũng bảo vệ ông, dạy dỗ ông. Từ lúc quy y với Sư Phụ, bất luận về phương diện nào của cuộc sống đều rất thuận lợi, ví dụ trước một ngày được thọ Tâm Ấn, trường thương nghiệp của ông đột nhiên thâu hoạch một số tiền rất lớn, giúp cho ông trả được rất nhiều nợ nần, ông không ngờ rằng chỉ vì muốn cầu trí huệ và cầu giải thoát mà theo Sư Phụ, nhưng Sư Phụ đã rất khẳng khái, ngoại trừ việc cắt bỏ đường dây luân hồi sinh tử, lại còn giúp cho ông một cuộc sống thoải mái, từ những sự việc này ông vô cùng cảm kích Sư Phụ và hết sức giữ gìn Pháp Môn Quán Âm. Sau khi thọ Tâm Ấn, mỗi một ngày ông nhất định phải làm xong những bài vở mà Sư Phụ đã chỉ thị mới dám đi ngủ, ông biểu lộ cần phải cố gắng tu hành, nâng cao đẳng cấp của mình, đồng thời cần phải giúp đỡ xã hội. Tuy ông là hiệu trưởng của một trường thương nghiệp, nhưng ông rất khiêm tốn, ông hiểu một cách rõ ràng rằng tất cả những gì ông có đều được Sư Phụ ban cho. Ông ước vọng được trở thành một công cụ để tuyên dương sự vĩ đại của một vị Minh Sư tại thế.
0 Comments
14- 8 Vegan way of Buddisht – Gathering 2015 Tất cả câu chuyện là sau khi Phật nhập niết bàn thì tất cả đệ tử họp nhau lại bàn cách để lưu giữ giáo lý của Đức Phật bằng cách viết xuống tất cả những sự kiện xảy ra khi Phật còn tại thế. 2 người dòng họ Phạm Chí (Bà La Môn) thụ pháp Bát Quan Trai. Chính tôi nghe được (câu chuyện này là từ A Nan) có một lần Phật ở nước Xá Vệ, tại khu vườn vàng của Thái Tử Kỳ Đà. Và các đệ tử mang các thức ăn chay tới để cúng dường. Vì là mùa mưa nên không đi khuất thực được. Hôm đó, lúc mặt trời vừa mới lặn, và bầu trời vừa sẩm tối, có hai người từ cõi trời bay xuống chỗ Phật ngự và yết kiến Phật. Thân thể diện mạo của họ thật tuyệt vời, thật sáng ngời, đẹp để phi thường. Người phát hào quang chiếu sáng khắp vườn. Nguyên khu vườn trở thành vàng ửng. Khi tới nơi họ yết kiến Phật, cúi đầu đảnh lễ, rồi đi vòng quanh Phật ba vòng. Đó là truyền thống thời đó. Và rồi họ lui về một bên và bạch Phật rằng: “Kính lạy Đức Thể Tôn! Đấng từ bi cao cả làm thay cho hết thảy trời và người. Hôm nay chúng con tới đây cúi xin Ngài chỉ dạy cho một lời tu hành có thể cuối cùng thoát khổ và cuối cùng được an vui đạo Niết Bàn.” Khi đó Đức Phật cũng tùy theo căn cơ, trình độ hiểu biết của họ, thuyết cho họ nghe những pháp thích hợp với sự hiểu biết của họ. Nên sau đó hai người đều chứng được đạo quả. Rồi cúi đầu lễ tạ trở về trời. Sáng hôm sau, sau khi dâng trà nước cho Phật xong, A Nan tới trước mặt Phật và hỏi: “Kính lạy Đức Thế Tôn! Tối hôm qua hai người cõi trời lại yết kiến Ngài có tướng mạo oai nghi tốt đẹp, ánh sáng chói lòa khắp vườn chúng ta. Dường như phúc đức đầy đủ, không rõ, xin cho chúng con biết đời trước họ đã tích luỹ công đức gi, đã từ những hạnh gì mà nay được kết quả tốt lành như vậy?” Phật bảo rằng: “Thuở xưa có một vị Phật tên là Ca Diếp Ngài ứng thể cứu độ chúng sinh. Sau khi Ngài nhập niết Bàn và một thời gian lâu sau đạo pháp đã tới thời mạt, suy tàn, gần biến mất. Thuở ấy có hai người tu theo dòng Bà La Môn. Và họ cũng biết về Bát Quan Trai nên họ tới gặp một trong các đệ tử của Ngài vẫn còn có pháp mạch xin thọ Bát Quan Trai. Người thứ nhất nguyện tích luỹ công đức này để được sinh lên trời. Người thứ hai nguyện làm quốc vương qua công đức nầy. Thụ Bát Quan Trai rồi, cả hai trở về nhà. Người thứ nhứt muốn sinh lên cõi trời, về nhà được vợ gọi ăn cơm. Nhưng đã qua giờ ngọ, anh nói: “Thôi, em ăn cơm đi anh đã thụ giới Bát Quan Trai của Phật dạy cứ quá giờ ngọ không ăn! Vậy hôm nay anh không ăn đâu. Bây giờ trễ rồi. Em ăn đi, để cho sự trai giới của anh được toàn vẹn.” Bát Quan Trai là gì? Là giữ năm giới luật: Không sát sinh, hại vật, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, hút thuốc. Ngoài ra còn có thêm giới luật thứ sáu là không ngủ giường cao hay giường lớn, thứ bảy là không ra ngoài ca hát, nhảy múa, thứ tám là chỉ ăn ngày một bữa thôi, giữa trưa. Qua bữa thì đừng ăn. Nếu giữ được vậy thì kiếp sau quý vị được làm quốc vương. Sau khi từ chối ăn thì cô vợ rất giận nói: “Anh xưa nay thuộc dòng Phạm chí (Bà La Môn) đã có đủ giới pháp, cớ sao hôm nay anh lại đi thụ trai giới gì đó nữa, nếu anh không chịu bỏ trai giới ấy thì tôi đem chuyện này nói cho tất cả mọi người Bà La Môn trong nước. Họ sẽ đuổi anh ra khỏi nhóm của họ, và chính tôi cũng sẽ đuổi anh ra khỏi nhà. Sau khi bị tấn công tới tấp bởi những lời hăm doạ đó, anh chàng mềm nhũn như cọng bún luộc. Cũng do lòng nể vợ, nên anh thoái chí, ngồi ăn cơm với vợ, nghĩa là anh phá giới. Hai người Bà La Môn này sau khi nguyện tu trái pháp ấy sau đó rồi cũng chết cả. Người nguyện đem công đức để làm vua thì được sinh làm vua kiếp sau. Vì giữ trai giới được hoàn toàn trong kiếp đó. Người nguyện sinh lên trời, đã phá trai giới. Nhưng vẫn còn chút phước báu nên sinh làm loài rồng không phải người. Cai trị vương quốc rộng dưới đáy biển. Mình không thấy, nhưng họ hiện hữu. Họ có cung điện, hoàng tử, công chúa. Đó cũng do lòng tin vững chắc Cái ông mà làm vua được hưởng vinh hoa phú quí. Ông vua này có một vườn cây trong vườn trồng đủ các thứ quả. Mùa nào quả nấy. Vườn này có một người trông nom. Hàng ngày mang những quả ngon cho vua. Vua cũng tín dùng ông vì ông có khả năng trồng cây cối vườn. Mọi công việc trong vườn, ông chăm sóc thật kỹ, cây cối đều xanh tươi, sai quả nên nhà vua thực sự thích ông. Còn có cả hoa nữa. Một hôm, ông đang làm việc trong vườn, đi vòng vòng và đến giếng nước trong vườn chỗ ông lấy nước tưới cây. Bỗng ông thấy một thứ quả mà trên thế giới chưa từng có, đẹp và thơm lạ thường. Mùi thơm tỏa ra từ trên cao cũng ngửi thấy. Anh vớt lên rồi thầm nghĩ rằng: Mỗi khi ta vào thành thì người giữ cổng thành rất tốt đối với ta mà ta chưa có cho ông gì hết để đền đáp tấm lòng của ông. Vậy hôm nay, ta đem quả nầy biếu ngài ấy. Nghĩ vậy nên ông đem trái cây này cho người giữ cổng thành. Người gác cổng hoàng cung tự nghĩ: Ô quả gì đấy? Thật là quả quí! Chưa từng thấy bao giờ, ta không nên ăn, ta nên biểu bạn thân, một vị quan cao hơn. Rồi vị quan nẩy lại đem dâng lên cho hoàng hậu để lấy lòng. Hoàng hậu thấy quả đẹp quá, bà không ăn và nghĩ là nên nên dâng cho vua. Sau khi ăn thì vua thấy quả này rất ngon nên hỏi hoàng hậu về quả đó. Hoàng hậu nói là của của ông quan cho. Vua bèn gọi vị quan đó lên hỏi. Cuối cùng thì vua biết là của người làm vườn. Vua bèn gọi người làm vườn lên hỏi: “Trong vườn của ta có loại quả ngon như vậy, mà sao trước đây ngươi không đem dâng cho ta? Mà lại cho người khác? “ Người làm vườn đáp: “Thưa bệ hạ, quả này trong vườn không có. Hôm qua hạ thần trông thấy từ dưới giếng. Hạ thần không có hạt giống để trồng.” Nhà vua ra lệnh: “Mỗi ngày ngươi phải dâng loại quả này cho ta nếu không thì ngươi sẽ bị xử trảm. Người làm vườn nghe xong chết điếng người. Mặt mày xanh lè, sắp xìu rồi. Lay tạ lui ra. Khi trở về vườn, anh ngồi buồn hiu một mình. Sợ hãi, đau khổ, không biết kêu ai, và anh ta bắt đầu khóc lớn. Bỗng dưng có người tới hỏi: “Này anh kia, sao anh có việc gì mà lo sợ dữ vậy, xin cho ta biết, nếu giúp được tôi sẽ giúp anh.” Viên giữ vườn nói: “Tôi là người giữ vườn của nhà vua. Hằng ngày tôi đều tặng những quả ngon nhất cho nhà vua dùng. Hôm qua tôi bắt được một quả nỗi trên mặt giếng, không biết từ đâu, và tôi cho viên giữ cổng. Sau đó quả đó được đưa tới vua. Vua ăn thấy ngon, thành ghiền, vua thích. Giờ đây bắt tôi ngày nào cũng phải dâng lên quả đó. Tôi không biết quả đó từ đâu tới. Không biết tìm đâu ra được. Nếu không tôi sẽ bị chặc đầu, nên tôi khóc.” Người lạ mặt bỗng đáp: “Thôi đừng lo nữa, tôi biết rồi Có phải loại quả như thế này thế này. Thơm như vầy, đẹp như vầy.” Anh đáp: “Dạ phải.” -Nhà tôi có rất nhiều. Trong vườn nhà tôi. Tôi sẽ cho anh một mâm dâng vua. Nói xong từ biệt ra về. Viên giữ vườn rất vui mừng đã có người cứu mình. Chính người này là con rồng hóa hiện ra thân người. Ông thả quả xuống cho người này. Ông là bạn của nhà vua trong kiếp trước. Rồng có thể sống trên đất liền lẫn dưới nước. Ngay cả con rùa cũng có thần thông. Rùa có thể sống tới 500 năm. Rùa có thể sống trên cạn dưới nước, chúng ta thì không được. Loài người chúng ta tưởng mình giỏi lắm, nhưng mình thiếu rất nhiều. Điều duy nhứt chúng ta có là trí huệ. Mắt trí huệ có thể biết được mọi việc. Mà thậm chí cũng không dùng được nữa. Khả năng thần giao cách cảm mình cũng bị mất. Mất biết bao nhiêu thần lực. Mất khả năng để bay, độn thổ, biến thành cây cối hay đồ đạc để tránh nguy hiểm. Mình mất rất nhiều, mất khá năng đi dưới nước. Chuyện này có thật là có một nử xuất gia của tôi trước kia bị rơi xuống nước sâu. Chúng tôi đi kiếm khắp mọi nơi một cành cây dài để kéo cô lên. Có bị chìm xuống rất sâu. Nhưng sau đó sau khi được kéo lên. Cô nói không có vấn đề, cô có thể thở dưới nước, thấy được và không bị gì hết. Như bình thường như chưa hề rớt xuống nước vậy. Chuyện này có thật đã lâu lắm rồi. Khi chúng tôi còn chưa có nhà và cắm lều bên bờ sông. Một lúc sau ông đem cho ông làm vườn một giỏ trái cây đó và còn nhiều loại trái cây quí hiếm ngon lạ dưới Long Cung, mà trên trần gian này không có. Một mâm đầy đồ quý và dặn rằng: Khi anh dâng mâm quả nảy lên cho vua thì anh nói rằng: “Tôi với nhà vua vốn là bạn thân với nhau từ đời trước ở dòng Phạm Chí (Bà La Môn) cùng nhau thọ pháp Bát Quan Trai. Mỗi người có một ước nguyện. Nhà vua ước nguyện được làm vua tận hưởng những khoái lạc đẹp đẽ trên trần gian, còn tôi thì nguyện làm Thiên Đế. Nhưng nhà vua tu hành giữ giới hoàn hảo, nên được làm vua còn tôi không giữ được hoàn toàn, nên phải đọa sinh làm rồng và chịu nhiều cực khổ, thân thể không đẹp. Ông có thể biến thành người được nhưng không được lâu. Rồng cũng có nhiều thần thông, nhưng chưa bằng Thiên Đế. Nay tôi muốn tu theo trái pháp lần nữa để trở thành Thiên Đế ở cõi trời. Vậy nhà vua hãy ráng tìm hộ cho tôi bài văn lúc trước. Nếu trái lời tôi, tôi sẽ lật đổ nước của nhà vua, toàn vương quốc sẽ biến thành biển cả. Người làm vườn mừng rỡ, lấy mâm quả chạy vào cung dâng lên vua. Và trình bày những lời dặn cho vua nghe. Nhà vua nghe xong, trong lòng thổn thức, trống ngực đập liên hồi. Vẻ mặt biến đổi, lo lắng. Bởi vì rất khó tìm được quyền kinh này. Nhà vua đêm ngày lo sợ cho chính mình và dân chúng. Một ngày nọ, trong lúc đang ngồi suy nghĩ, thì thấy một ông quan đại thần tới chơi. Vua bền kể vấn đề này cho quan tề tướng nghe rồi hỏi coi ông có giúp gì được không? Nhờ ông đi khắp nơi tìm cuốn Bát Quan Trai này. Quan tể tướng lắc đầu thưa: “Thưa bệ hạ, đời này không có Phật, không còn giáo lý của Phật hiện giờ thì làm sao tìm ra được.” Nhà vua nói: “Việc này khanh phải cố gắng nếu không tìm được thì ta, khanh và cả vương quốc cùng chết. Theo lời vua truyền xong, ông lạy tạ ra về. Quan tể tướng này là người rất tốt, rất hiểu biết và có hiếu với cha mẹ. Mẹ ông đã qua đời. Bình thường ông tỏ vẻ vui vẻ tươi cười khi về nhà gặp cha ông cho ông vui lòng. Nhưng hôm đó ông không thể cố gắng làm cho vui được. Mặt ông rất buồn, nên cha ông hỏi thăm: có việc gì buồn sau khi gặp vua. Ông trả lời: “Hôm nay vua kêu con phải tìm bài văn Bát Quan Trai của Phật giáo. Nếu con tìm không được thì cả quốc gia sẽ lâm nguy. Nên con lo quá! Con không biết làm sao, bởi vì con không biết tìm nơi đâu.” Người cha nói: “Ô, đừng lo. Chúng ta có. Cha nghĩ vậy, vì trong cái cột nhà lớn ở nhà ta cha thường thấy ánh hào quang hiện ra. Con bão người chặt cái cột đó và xem bên trong có gì.” Sau khi họ chặt cái cột nhà thì họ thấy 2 quyển sách trong đó. Một quyển là Thập Nhị Nhân Duyên và cuốn kia là Bát Quan Trai. Viên tể tướng mừng quá vội chạy vào dâng lên vua. Nhà vua rất mừng. Nhà vua ra lệnh cho chép lại một quyển. Còn quyển kia thì đưa cho viên làm vườn để đưa cho con rồng. Con rồng sau khi nhận được quyển kinh rất hài lòng với nguyện ước. Trở về long cung, đem rất nhiều vàng ngọc, đá quý, bảo vật dâng nhà vua. Từ lúc đó con rồng tu một cách chuyên cần, và thật tâm và kỷ luật Bát Quan Trai. Lúc chết y được lên cõi Trời. Hưởng hạnh phúc thần tiên. Nhà vua bây giờ cũng được nhắc nhở từ đó về sau cũng cố gắng giữ giới luật và sau khi chết cũng được lên cõi trời như con rồng. Hai người lại bầu bạn với nhau. Này A Nan, ngươi nên biết hai người trời đó là hai người vừa mới xuống đây. Và bây giờ họ chứng quả Tư Đà Hoàn, và tất cả ba cảnh giới thấp hơn họ cắt đức sinh tử luôn. Khỏi phải đầu thai trở lại. Đời đời họ được sinh ở cõi trời, cõi người cho tới khi đạt được Niết Bàn. Sau khi nghe Phật giảng, ai ai cũng vui mừng. Ai cũng cố gắng giữ Bát Quan Trai. Họ lễ tạ Phật và lui ra. Do sư huynh đồng tu Phillip Moynagh, Massachusetts, Hoa Kỳ (nguyên văn tiếng Anh) Bản tin 185 Tôi là một người Mỹ da đỏ. Ðã nhiều năm, ngày nào tôi cũng đi dạo với con chó Moley của tôi trong rừng cây. Tôi ngân nga những bài ca ngợi Thượng Ðế bằng ngôn ngữ bản xứ của tôi và thờ phụng trong phương cách dân tộc bản xứ của tôi. Mỗi ngày tôi dành ra khoảng một giờ để làm việc đó. Ði dạo trong rừng với con chó của tôi thật là thú vị. Và rồi vào một đêm giữa mùa đông, một đêm vô cùng buốt giá. Tôi ra khỏi giường hoàn toàn không có lý do gì. Tôi mặc quần áo vào và đi ra cửa. Tôi thậm chí không suy nghĩ gì về việc này, và tôi chỉ đứng đó ngay lối xe ra vào và tự hỏi: "Sao mình lại ra ngoài này? Mình đang làm gì đây?" Bỗng nhiên tôi nghe hẳn từ một bên tiếng của một chim cú sừng lớn. Nó ở phía bên phải của tôi. Nó kêu: "Hu, hu, hu, hu". Sau đó tiếng kêu đến gần hơn và lớn hơn. Không lâu sau đó thì ở ngay sân sau của tôi là tiếng hu, hu, hu. Tiếng kêu bắt đầu chuyển sang bên phải, mỗi lúc một nhỏ hơn và cuối cùng thì im hẳn. "Ồ, tôi đoán đây là điều mình giả sử phải làm. Tôi giả sử phải nghe tiếng kêu đó", tôi tự nhủ. Rồi tôi đi trở vào bên trong và quyết định suy nghĩ về điều đó một thời gian. Hơn hai tuần sau tôi mới hiểu rằng chim cú lúc ấy đang săn mồi. Và khi cất tiếng kêu đó, nó hy vọng làm giật mình những con thú nhỏ hay con chim nhỏ. Cho nên nó phát tiếng kêu và nghe ngóng tiếng động của con mồi. Nó tìm thức ăn như tôi, tuy nhiên, nó lắng nghe để tìm thấy nhưng tôi không lắng nghe. Tôi chỉ đi vào rừng, nghêu ngao những bài hát và cầu nguyện, nhưng không bao giờ lắng nghe. Tôi nhận ra rằng đây là một thông điệp bảo tôi phải thiền. Khi tôi thiền lần đầu tiên tôi nghe tiếng tụng niệm của tu sĩ trong một tu viện trong trí của tôi. Tôi tiếp tục nghe và rốt cuộc âm thanh đó trở thành một âm chấn động rất trầm và rất to. Tôi đứng dậy và nhìn ra ngoài cửa sổ để tìm một chiếc xe tải, vì âm thanh đó giống như tiếng động xe tải, nhưng tôi không thấy chiếc xe tải nào. Sau đó tôi nhận ra rằng đây là điều gì đó rất quan trọng. Tôi không biết gì về nó và tôi không biết ai có thể giúp tôi. Cho nên tôi cầu nguyện để có một vị thầy, đó là điều tôi phải làm. Sau đó tôi bắt đầu nằm mơ thấy một phụ nữ. Là một phụ nữ trẻ người Á đông với cặp kính dầy và cầm một cây thước trong tay và đằng sau là một tấm bảng đen với đủ những con số trên bảng. Cô là một giáo viên và luôn mỉm cười với tôi trong giấc mơ. Tôi nhận thức được người phụ nữ ấy là một vị Thầy, vì tôi đã có đủ những giấc mơ khi tôi thực sự nhìn thấy những người tôi cần phải gặp hay những tình cảnh sắp xảy ra cho tôi. Nhưng có một vấn đề: có quá nhiều người trên thế giới, làm sao tôi có thể tìm ra vị Thầy này? Ngay lập tức, một đệ tử của Ngài đã đến và bắt đầu làm việc tại nơi tôi đang làm việc. Từ khi tôi có giấc mơ đó, tôi luôn nói chuyện với người Á đông bởi vì tôi muốn tìm một vài thông tin hoặc người nào thật sự biết chút gì đó. Tôi kể anh ta nghe giấc mơ về vị Thầy người nữ ấy. Anh ấy tới đón tôi một buổi chiều và nói: "Nhanh nào, chúng ta hãy đi!" Anh ấy dắt tôi tới nhà hàng Quán Âm ở Worcester. Ở đó họ có một tập san và trong đó chính là người phụ nữ tôi thường gặp trong những giấc mơ. Ðó chính là Ngài với cặp kính dầy và một tấm bảng đen. Cho nên tôi biết chính xác Ngài là Thầy của tôi. Tôi biết rằng đây chính là người tôi phải liên lạc. Ðúng vậy. Và đó là quá trình tôi đã đến với gia đình Quán Âm. Tôi được thọ pháp môn Quán Âm tại New Jersey. Giây phút chúng tôi về nhà, vị sư huynh đồng tu ấy tức thì báo cho tôi biết anh ấy dọn đến một tiểu bang khác. Anh ta tức khắc rời khỏi đời tôi. Anh ấy đã làm xong nhiệm vụ ở đây và anh ra đi. Anh ở đây chỉ vì lý do đó: mang tôi đến với pháp môn Quán Âm. Từ khi gia nhập vào gia đình Quán Âm, tôi đã gặp những người tôi kính trọng và thương yêu. Tôi đã được chào đón vào gia đình Quán Âm một cách tuyệt vời đến nỗi tôi biết trong tim rằng tôi đang đi đúng đường. Mọi việc đều tuyệt diệu và sự câu thông của tôi với Thượng Ðế được gia tăng qua Sư Phụ Thanh Hải. Mỗi ngày tôi cảm ơn Sư Phụ vì sự câu thông này và tôi cảm ơn Thượng Ðế đã gởi Ngài đến cho tôi. |
Archives
January 2023
Categories |