BMD 895 Vị Nữ lưu cầu vồng là một phụ nữ rất tốt và khá xinh đẹp. Sau khi lớn lên bà đương nhiên phải lập gia đình, nhưng bà không may mắn và kết hôn với một người không thương bà. Cho nên bà rất buồn. Cho nên Nữ lưu câu vồng tiếp tục sống như vậy. Vì bà đã lập gia đình và chồng bà không yêu bà lắm, nhưng dù vậy họ cũng xoay sở có được đứa con. Một ngày nọ, khi bà đi chợ mua rau, ba gặp một thầy bói. Thầy bói nhìn bà và nói: “Cô! Cô sẽ đoản thọ! Con của cô cũng sẽ đoản thọ.” Tuy nhiên bà không sợ. Sau khi nghe vậy bà về nhà, rồi đi tìm một vị Minh Sư. Nghe nói bà đi học Pháp Môn Quán Âm. Cho nên bà tu pháp trường sanh bất tử này. Đó là điều người ta nói ở Trung Hoa. Vài năm sau đó, bà thật sự không già hơn nữa. Bỗng nhiên quá trình già nua ngừng lại. Về sau, bà và con trai không chết sớm. Bà chờ đến khi người con trưởng thành, kết hôn và có gia đình riêng, rồi bà đi lên núi, xây một căn chòi và tiếp tục tu hành ở đó. Sau khi có chút tiến bộ trong sự tu hành, bà đã có thể ngủ trên tuyết mà không thấy lạnh. Nhiều người Tây Tạng cũng ngủ như vậy. Về sau, bà học cách giữ mình cho khô, thậm chí trong nước. Thêm vào đó, bà có thể xuất hiện cùng một lúc ở những nơi khác nhau. Tất cả chỉ là truyền thuyết. Một lần bà gặp 2 bé trai du hành với cha trên đường, và cổ xe chở người cha bị lật. Và người cha bị bệnh. Nữ lưu cầu vồng nghe 2 bé trai nói với nhau: “Tuyết bây giờ nhiều quá và chúng ta bị kẹt trong tuyết. Nếu không đưa được cha đến bác sĩ trước trời tối, chắc cha sẽ chết.” Vừa nghe vậy bà chỉ ngón tay vào tuyết và tuyết tan đi. 2 cậu bé có thể đưa cha đến bác sĩ bằng cách đẩy cổ xe. Một lần khác, đây cũng là chuyện kể, Nữ Cầu Vòng thấy một thanh niên và một thiếu nữ chạy trốn. Hai người cứ chạy trối chết vì bị băng cướp đuổi theo. Cho nên bà chỉ tay vào vài tảng đá và những tảng đá từ trên núi lăn xuống chân đường núi hẹp. Lối đi thì hẹp và sâu; bà dời những tảng đá này để chặn đường sau khi đôi nam nữ đã đi qua, do đó băng cướp không thể đuổi theo họ được nữa. Lại một lần khác, khi bà gặp một trận cháy rừng sắp tràn vào một ngôi làng. Nữ lưu Cầu vòng thổi một cái như vầy, gió ngừng lại và lửa bị dập tắt. Và đó chưa là gì cả. Sau đó bà vẫy tay như vầy và tất cả cây cỏ bị cháy được hồi sinh và trở nên xanh tươi trở lại. Bởi vì ngày càng nhiều người bắt đầu biết về lực lượng của bà, bà càng trở nên ngày càng nỗi tiếng. Ai cũng biết bà là người có thần thông vĩ đại nhất. Do đó nhiều người đến xin làm đệ tử của bà. Trong một dịp khác, lần này có 3 nhân chứng. Lần này bà và đệ tử đi lên núi để thu thập dược thảo và khoáng chất nữa. Đệ tử của bà nói với nhau: Ô! Không lâu trời sẽ tối! Làm sao chúng ta về nhà?” Khi nữ lưu Cầu vồng nghe vậy, bà lấy gậy gõ vào một tảng đá và tảng đá bỗng nhiên mở ra và để lộ một hang động rất rộng. Rất đẹp và sạch sẽ bên trong. Còn có nước nhỏ giọt trong một góc nhỏ. Cho nên họ đều đi vào để nghĩ ngơi. Trong đó còn có củi đốt, nước và một nồi chè trôi nước lớn. Hơn nữa ở giữa hang động, có một nồi lẩu với đủ loại rau trong đó. Nữ lưu Cầu vồng sống rất lâu. Nghe nói bà sống đến trên 200 tuổi. Nhưng mặc dù tuổi rất cao, da của bà vẫn trẻ trung như người trẻ. Tóc bà vẫn rất đen. Một ngày nọ, một trong những đệ tử của bà nghe tiếng một đứa trẻ trong phòng của Nữ Lưu Cầu vồng. Khi họ nghe tiếng, họ mở cửa ra và nhìn thấy Nữ lưu Cầu vòng bay lên trời với một số tiên nhân.
0 Comments
Lời Pháp Cam Lồ #9 Mục Đích của Loài người Là Tu Hành Pháp Môn Quán Âm (Phần 1) Vài thập niên trước có một người tu hành Ấn Độ rất khao khát được giải thoát, rất mong cầu tìm được một pháp môn cao đẳng để có thể giải thoát khỏi vòng sinh tử. Từ thuở nhỏ, ông đã thích về Đạo, suốt ngày nói về kinh điển. Ông nói về tu hành Chân lý với những người tu hành. Vị này được sinh ra trong một gia đình đạo Sikh. Đạo Sikh đã có khoảng 500 năm nay. Đạo Sikh vốn không phải là một tôn giáo. Với tập quán sau một thời gian rất lâu người ta tạo pháp môn này thành một tôn giáo khác. Ngoài ra giáo lý của Minh Sư của họ cũng gần giống như những gì tôi dạy, họ cũng dạy Pháp Môn Quán Âm. Chữ Sikh có nghĩa là đệ tử, đệ tử chân chính. Tiếng Anh chúng ta gọi là đạo Sikh. Vì họ từ Pháp Môn Quán Âm khác với hơn phân nửa truyền thống tu hành của Ấn Độ, cho nên dần dần mọi người phân chia họ vào thành một tôn giáo khác. Đạo này cũng giống như bất cứ tôn giáo hoặc tông phái nào. Nguyên thủy vốn không có tôn giáo gì cả, vì mạch pháp của tôn giáo gián đoạn, mạch pháp đã chuyển thành một tôn giáo khác. Người nầy tuy sinh ra trong một gia đình Sikh nhưng không tìm thấy thể nghiệm bên trong theo như kinh điển của đạo Sikh đề cập đến. Hàng ngày, người nầy tụng kinh Sikh, giống như Phật tử hoặc tín đồ Thiên Chúa giáo đọc kinh vậy. Có một ngày, người nầy đọc một đoạn trong kinh nói rằng, có năm loại âm thanh nội tại khác nhau, năm loại âm thanh huyền diệu. Trong Pháp Môn Quán Âm chúng ta gọi là Phạm âm, hải triều âm, diệu âm Quan Thế Âm. Người ấy tìm thấy trong kinh Sikh cũng viết như vậy: rằng có năm loại âm thanh, biểu tượng cho năm cảnh giới khác nhau. Khi đọc đến những cảnh giới, ông nghi ngờ, và suy nghĩ: “Thật lạ. Tại sao mình không thể nghiệm âm thanh nào cả, bất cứ âm thanh nào trong năm âm thanh đó?” Vì vậy người nầy chạy đông, chạy tây hỏi rất nhiều vị tu sỉ Bà La Môn về điều này. Ở Ấn Độ Mahatma có nghĩa là đại linh hồn, có nghĩa là một vị đại đạo sĩ, nhưng không có nghĩa họ thật sự tu hành cao thâm. Mahatma nguyên thủy có nghĩa là những người thật sự có đằng cấp cao đẳng, bên trong, và sự tu hành của họ đạt được quả vị. Còn ngày nay ai cũng có thể trở thành Mahatma, chỉ còn một danh xưng mà thôi. Sau khi hỏi những vị Mahatma ở Ấn Độ, ông hỏi mọi người, tuy nhiên, không một vị nào biết về âm thanh nầy, ngay cả vị thầy của người ấy, vị thầy dạy người nầy tụng kinh mỗi ngày. Người này hỏi vị thầy rằng: Trong đoạn kinh có nói đến năm loại âm thanh khác nhau, âm thanh huyền diệu là chấn động lực nội tại, 24 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Làm sao con nghe được? Vị thấy đó trả lời không biết. Không cách nào biết được. Người này đi hỏi một người khác, Cuối cùng người đó trả lời: “A tôi biết. Có năm loại âm thanh, nhưng tôi chỉ biết có 2 loại, còn ba loại kia, tôi không dạy được vì tôi chưa từng thể nghiệm được điều này.” Cho nên người đó truyền hai loại âm thanh. Có nghĩa là người đó đã mở nhĩ căn cho người này. Tuy bên trong chúng ta có diệu âm Quan Thế Âm, thắng bỉ thế gian âm nhưng nhĩ căn của chúng ta chưa mở nên không thể nghe được. Để tu Pháp Môn Quán Âm hoặc bất cứ pháp môn nào, chỉ khi nào một người có lực lượng giúp chúng ta khai mở nhĩ căn, lúc đó chúng ta mới thể nghiệm được Diệu Âm Quan Thế Âm, thắng bỉ thế gian âm,” Vị pháp sư Sikh đó chỉ truyền cho người nầy hai đằng cấp, vì ông ta không biết đẳng cấp Thứ Ba, Thứ Bốn và Thứ Năm. Tuy vậy, vị này tu hành rất tinh tấn, nên nghe được hai loại âm thanh đó, và đạt được đẳng cấp Thứ Hai. Sau đó vị nầy rất thiết tha muốn biết ba loại âm thanh còn lại. Ông thật sự muốn biết, nhưng không ai có thể dạy cho ông. Vị nầy chạy đông, chạy tây hỏi rất nhiều người nhưng không một ai biết đến. Sau cùng, có một người cho hay rằng có một vị tu sĩ Bà La Môn tu khổ hạnh. Vị Bà La Môn nầy sống trong núi sâu, có thể vị đó biết được. Nhưng nơi vị nầy ẩn tu đó rất khó kiếm, nằm trong rừng núi linh thiêng, không người lai vãng. Vị tu sỉ Bà La Môn này tu rất khổ hạnh, mỗi ngày treo một chân lên cây. Một chân treo cao và một chân đứng như vầy. Tu khổ hạnh mà, để tự trừng phạt. Ông muốn dùng phương pháp này để tự kềm chế tham, sân, si. Ông không biết tu như vậy có hiệu quả không, nhưng ông đã tu như vậy vài năm rồi. Khi vị đệ tử Sikh thiết tha muốn được giải thoát đến thăm vị Bà La Môn. Vị đệ tử lo sợ khi thấy vị Bà La Môn tu hành như vậy nên hỏi: “Tại sao ông tu theo phương thức này?” Vị Bà La Môn đáp: “Tôi tu mọi Phương pháp.” Tu khổ hạnh là như vầy. Vị Sikh hỏi: “Ông đạt được gì chưa?” Vị Bà La Môn đáp: “Tôi đã đạt được một chút thần thông.” Ông có thể thấy ai thật sự tu hành. Ông biết được người tu hành chân chính ở đâu. Vị Sikh mong cầu được giải thoát nầy hỏi: “Tại sao ông không đi tìm người tu hành chân chính? Ông tu như vậy và vẫn chưa thành công, nếu ông biết người tự hành chân chính ở đâu, tại sao lại không đi tìm?” Vị Bà La Môn nói chân ông bị gãy rồi, không thể đi bộ được. Vì ông treo chân trên cây mỗi ngày. Quý vị có thể tưởng tượng được không? Vị Bà La Môn hỏi: “Tại sao anh đến đây. Hãy mau về đi nơi đây có nhiều cọp, rắn, các loại thú vật độc và hung dữ. Chúng có thể nuốt anh, làm tổn thương sinh mạng anh.” Vị Sikh trả lời: “Ông đã sống ở đây vài chục năm, thú vật không hại ông, tại sao tôi lại sợ?” Người tu khổ hạnh này rất vui lòng khi nghe người thanh niên nói. Ông có ấn tượng tốt nên bảo người thanh niên: “Có một người ở một nơi, đã tu hành hơn mười năm, và đã ra ngoài thuyết giảng cho công chúng, nếu anh đến nơi đó, sẽ tìm thấy người này và sẽ được truyền ba loại âm thanh còn lại.” Có một người khác ở Ấn Độ, cũng tu Pháp Môn Quán Âm. Khi gặp Sư Tổ của tôi, người này yêu cầu Ngài truyền toàn bộ pháp môn, không sót một đẳng cấp nào, và không sót một thế giới nào cả. Người này có ý nói là nói hết không sót điều gì, vì trong vũ trụ có nhiều đẳng cấp. Vị này yêu cầu Sư Tổ dạy hết tất cả đằng cấp, đừng chừa lại một nửa hoặc một chút nào. Sư Tổ của tôi rất ngạc nhiên và hỏi: “Sao lại phải ra nhiều điều kiện như vậy? Tôi chưa bao giờ giấu điều gì. Khi truyền pháp, tôi truyền toàn bộ.” Người đó kể với Sư Tổ rằng bản thân đã chuyển kiếp đến ba lần rồi mà chưa học được toàn bộ, chưa đạt được đẳng cấp cao nhứt của Pháp Môn Quán Âm. Vì vậy người này đã cầu Sư Tổ như vậy. Sư Tổ tôi nói: “Tại sao ông lại phải chuyển kiếp ba lần.” Vị đó kể lần thứ nhứt gặp được Minh Sư truyền pháp cho ông. Tuy vậy Minh Sư thời xưa rất nghiêm khắc, khảo nghiệm đệ tử với những khó khăn và rất rõ ràng. Sau khi khảo nghiệm một thời gian dài, Minh Sư mới truyền pháp. Nếu không, chỉ truyền cho một chút thôi. Họ để cho đệ tử một thời gian khá lâu đến khi chứng được đẳng cấp Thứ Nhất, họ mới truyền cho đẳng cấp Thứ Hai, và khi được đẳng cấp Thứ Hai rồi mới truyền cho đẳng cấp Thứ Ba. Đó là như vậy. Họ khảo Nghiệm để xem đệ tử có tu hành tin tấn không, có tạo phiền phức cho vị thầy không. Sau đó ông đã học một phần nhỏ của Phương pháp. Vị nầy hiện giờ đã lớn tuổi nên yêu cầu Sư Tổ như thế. Lần thứ nhất đến học, vị thầy đó khảo nghiệm rất lâu mới truyền Tâm Ấn, nhưng chỉ dạy ông đằng cấp Thứ Nhứt. Khi ông đã chứng được đẳng cấp Thứ Nhất và trở lại tìm học đẳng cấp Thứ Hai, thì vị thầy đã vãng sanh. Cho nên không có cách nào để học. Vì vị thầy không có người kế vị, vả lại tuổi của đệ tử đã cao và không có tiền bạc nhiều. Ông chạy đông chạy tây xác thân lại không được khỏe, và cũng không biết đi đâu để tìm Minh Sư khác dạy đẳng cấp Thứ Hai. Không bao lâu, đệ tử chết đi nhưng đẳng cấp chỉ đạt được thế giới thứ nhất. Khi vị này tái sanh làm người lần thứ hai, vì nhờ có phước báu tu hành kiếp trước, và đã chứng được cảnh giới Thứ Nhất nên không rớt xuống địa ngục, không làm súc sinh. Ông làm kiếp người lần nữa, đó cũng nhờ vị Minh Sư gia ân. Ông tìm Minh Sư và một lần nữa gặp Minh Sư cũng rất Nghiêm khắc. Cũng bắt đầu dạy đẳng cấp Thứ Nhất, khi chứng rồi, mới được học đẳng cấp Thứ Hai. Sau khi chứng được đẳng cấp Thứ Hai, vị thầy này cũng đã qua đời. Vị đệ từ đứng tại chỗ nhưng không thể tu cao hơn nữa. Chẳng bao lâu vị này cũng già rồi mất đi, đó là lần thứ hai. Bây giờ trở lại lần thứ ba, biết quá khứ, hiện tại và vị lai của mình. Vì khi đạt được đẳng cấp Thứ Hai, chúng ta có thể biết được quá khứ, hiện tại và vị lai của mình. Cho nên vị đệ tử lo sợ, sau khi tìm được sư tổ, ông yêu cầu: “Xin Ngài dạy hết năm loại âm thanh, xin truyền hết năm đẳng cấp. Nếu không tôi phải trở lại lần nữa sẽ không sao chịu đựng nổi.” Cho nên Sư Tổ nói: “Được rồi vì ta chưa bao giờ dạy như vậy cả.” Dòng dõi pháp mạch của Sư Tổ tôi rất từ ái. Nếu đã dạy thì dạy toàn bộ pháp môn. DVD 868 The Wise Saints – Narudin and Rumi’s Poems Có một người đi tìm Tộc trưởng Kharaqani. Một tu sĩ hồi giáo vượt núi non và qua một thung lũng xa. Thanh niên này đến nhà của tộc trưởng và gõ cửa. Vợ của tộc trưởng đưa đầu ra: “Anh cần gì?” Anh chàng nói: “Tôi đến với chủ ý muốn gặp tộc trưởng.” Người vợ cười: “Nhìn sự tôn kính của anh. Bộ anh không có gì để làm mà anh phải làm một chuyến tham quan vớ vẫn nầy? Anh không thích quê nhà của anh phải không? Hoặc có lẽ bị Sa Tăng nắm mũi kéo đến đây?” Thanh niên nọ kiên nhẫn và khiêm tốn: “Tôi muốn được gặp tộc trưởng.” Người phụ nữ lại nói: “Tốt nhất anh nên quay về nhà. Hàng trăm người như anh đã đến như người Do Thái để vuốt tay lên con bê vàng kiêu ngạo nầy. Thứ ăn bám. Liếm đĩa trên sàn. Nặng nề, ngủ vùi, vô dụng. Họ nói: Ô, đây là xuất thần, ô đó là ngây ngất. Ô, họ quên mọi nghi lễ tôn giáo thật và nghi thức cầu nguyện.” Vị Tộc Trưởng này kết hôn với một người cuồng tín hay quá khích. Bất cứ ai không làm nghi thức tôn giáo hay nghi lễ, bà nghỉ họ đều là điên. Chồng bà là người điên trong ý kiến của bà. Bởi thế bất cứ ai đến tìm ông, bà cũng mắng họ như thế nầy hoặc có lẽ còn nhiều hơn. Đây là một bài thơ nên Minh Sư Rumi chúng đã nhã nhặn chải chuốt từ ngữ và chọn những câu ít xúc phạm để đặt vào đây. Bằng không tôi không biết phụ nữ này còn lời gì khác để trút lên đầu những người hành hương tội nghiệp tình cờ đến cửa nhà bà và tìm chồng bà. Cho nên chàng thanh niên không chịu nổi nữa. Anh chàng nói: “Gì kỳ vậy? Tôi đã bị mai phục bởi một tuần tra ban đêm ngay giữa ban ngày. Lời ba hoa của bà cố ngăn không cho tôi gặp một người thánh thiện. Nhưng tôi biết ánh sáng nào đã dẫn tôi đến đây, cùng một ánh sáng đã biến con bê vàng thành lời lẽ trong câu chuyện thiêng liêng. Một vị thánh là sân khấu nơi phẩm chất Thượng Đế có thể nhìn thấy. Đừng tìm cách cản tôi. Thổi cây đèn cầy này và mặt bà sẽ bị phỏng. Thay vì vậy, hãy cố thổi tắt mặt trời hãy đeo mõm cho biển cả. Con dơi già như bà thường mơ rằng hang của chúng nơi nào cũng tối, nhưng không phải vậy. Quyết tâm của tôi được gặp, nghĩa là gặp tộc trưởng, là kiên định. Bà sẽ không ngăn được hoặc trì hoãn tôi. Người tiết lộ bí ẩn, và điều được tiết lộ đều giống nhau. Có nghĩa là tộc trưởng đồng nhất với Thương Để. Gieo hạt, tăng trưởng, thu hoạch, hiện diện. Vỏ trấu, phù thủy già của một thế giới rầy rà, phải cúi đầu trước điều đó.” Anh ta gọi bà là phù thủy và con dơi. Rồi bây giờ Halaju nói: “Ta là Thượng Đế và được nhấc lên. Sẽ thế nào khi con mắt biến mất? Cái gì còn lại sau đó? Không. Sự khạc nhổ kiêu ngạo trở lại mặt của họ. Không có khạc nhổ trên con đường của chúng ta. Mưa biến thành khạc nhổ trên những người chế giễu và tùy tiện tỏ ra bất kính với thánh nhân.” Anh thuyết giáo mọi điều này cho người vợ không tốt của vị thánh. Điều đó xảy ra. Câu chuyện cũng tương tự với Leo Tolstoy. Đôi khi họ có loại đối ngẫu như thế này. Ở đời đối nghịch thu hút nhau. Một vị thành cứ không biết vì sao ngẫu nhiên ở chung với người không thánh thiện chút nào. Và có nhớ Mục Kiện Liên có người mẹ như vậy không? Và Phật Thích Ca mâu Ni có người em họ gần giống như vậy. Trái ngược với họ. Cho nên vị tộc trưởng có người vợ không tốt nầy. Không gì đáng ngạc nhiên cả. Cho nên anh ta cứ nói với bà rằng vị thánh phải được tôn trọng vì đây là người đồng nhất với Thượng Đế. Người ta nói giống như sự gieo hạt, tăng trưởng, thu hoạch đều là một. Chúng đều là cùng một thể loại. Nếu không có hột quý vị không có sự gieo hay gặt, và cũng không có thu hoạch. Cho nên anh ta nói tương tự như vậy: Người tiết lộ bí mật, và điều được tiết lộ là một. Nghĩa là vị thánh chỉ cho thấy Thượng Đế và vị Thượng Đế đó là một. Anh ta cố gắng hết sức để nói với người vợ của vị tộc trưởng thánh thiện nầy rằng chồng bà là người thánh thiện và đồng nhất với Thượng Đế, và bà ta cũng nên tôn trọng ông bởi vì tai họa sẽ đến với ai không kính trọng thánh nhân. Sẽ giống như nhổ vào chính mặt mình, sẽ có hại cho chính mình. Với những lời đó anh rời khỏi ngưỡng cửa và đi quanh trong thành phố hỏi thăm. Cuối cùng, có người nói: “Tộc trưởng đang ở trong rừng nhặt củi.” Nghe vậy, tu sĩ trẻ chạy về hướng khu rừng, nhưng với nghi vấn trong đầu: Tại sao tộc trưởng thế này lại có người vợ như vậy? Thật trái ngược như tiên cô man ri. Chúa tha con tội phán đoán. Ta là ai mà phán đoán chứ?” Nhưng sự thắc mắc vẫn còn. Anh ta cầu Thượng Đế tha thứ, nhưng không thể quên đi sự phán đoán. Làm sao một Minh Sư nằm bên người phụ nữ đó? Người hướng đạo có thể đồng ý với tên trộm không? Bất chợt tộc trưởng Kharaquani xuất hiện, cưỡi trên một sư tử, củi chất đằng sau. Quả là một phương tiện giao thông rất xanh. Tôi chắc chắn ông thuần hóa con sư tử và nó cũng an chay như sư tử trong sách của Yogananda. Cây roi là một con rắn sống. Mỗi tộc trưởng đều cưỡi một sư tử hung tợn, dù quý vị có thấy hay không. Ý ông đó cũng có thể là con sư tử vô hình. Điều đó nghĩa là ông đã chinh phục lực lượng phủ định, đã chinh phục bản chất hung dữ. Tộc trưởng thời xưa là tước hiệu ban cho một người thánh thiện, khai ngộ. Do đó ông nói ở đây: “Mỗi tộc trưởng đều cưỡi một sư tử hung tợn, dù quý vị có thấy hay không. Điều này biết với mặt kia. Có hàng ngàn sư tử dưới đùi của thầy quý vị và tất cả chúng chất đầy củi.” Kharaquani biết vấn đề và trả lời tức khắc: “Không phải do ham muốn mà tôi chịu đựng bà ấy. Đừng nghĩ như vậy. Không phải nước hoa của bà hay áo hoa màu sặc sỡ. Chịu đựng sự khinh khí của bà khiến tôi mạnh mẽ và nhẫn nại.” Cho nên, vị tộc trưởng này, ông ta thật sự khai ngộ. Bà là sự tập luyện của tôi. Không có gì có thể rõ ràng khi không có sự hiện diện của một đối cực. Hai biểu ngữ, một đen một trắng, và giữa chúng điều gì đó được giải quyết. Giữa Pharaoh va Mose, là biển Hồng Hải. Truyện Ai Cập. Nên, ngươi suy xét vấn đề, nhưng không đủ sâu. Lo sợ của ngươi đông cứng, niềm tin là sự trôi chảy. Đừng cố gắng rèn sắt lạnh. Học David, người thợ rèn, vũ công. Dội vào mặt trời. Ngươi được cuốn trong ảo tưởng và tiếng lẩm bẩm bên trong. Khi thánh linh đi vào, một người bắt đầu ngao du tự do và rong ruổi qua các cây trồng trong vườn tự nhiên và đắm mình vào. Bây giờ đó là chuyện thần kỳ. Ông nói bất kể mọi điều này, không quan trọng với ông, bởi vì ông tự do bên trong. Giống như một người khi thánh linh đi vào họ, họ bắt đầu ngao du tự do, thoát ra và rong ruổi qua các cây trồng trong vườn, tự nhiên và đắm mình vào. Nghĩa là ông tắm trong tình thương và ân điển, và phúc lạc của Thượng Đế. Ông không còn chú ý đến phiền não của thế gian, nói chi là vợ ông. Bất kể bà nói gì ông coi đó như sự rèn luyện, rèn luyện tính khiêm tốn và nhẫn nại, nhờ đó ông trở nên vĩ đại. Giống như một miếng sắt vô dụng, phải được nung đến hàng trăm độ để nó mềm ra, và rồi được đập không ngừng cho đến khi nó trở thành một món hữu dựng và thậm chí còn chưa hoàn tất. Quý vị phải mài dũa cho đến khi nó trở thành con dao cắt thật sự. International Gathering with Supreme Master Ching Hai - Europe, JUL ~ OCT 2015 Buddhist stories: A Man Named Coppertooth – Sep 20, 2015 Câu chuyện này có lời rằng như sau: Dẫu nói năng ngàn lời nhưng không gì lợi ích, lời huấn thị này là từ vị thầy, tức là Đức Phật, khi Ngài trú ngụ tại Trúc Lâm với giải thích người có Răng Đồng làm nghề đao phủ. Chúng tôi nghe kể rằng một bọn cướp 500 tên, trừ một tên, sống bằng nghề cướp bóc các thôn làng và những nghề tàn ác khác. Bây giờ có một gã răng màu đồng, da ngâm đen mình đầy sẹo, đến nói: “Cho tôi sống với các ông đi. Tôi muốn nhập bọn với các ông.” Rồi họ dẫn gã đến gặp tên đầu đảng và nói: “Người này cùng ở với chúng ta.” Chúa đãng nhìn gã rồi tự nhủ: “Tên này tánh tình tàn bạo quá đổi. Gã có thể cắt ngực mẹ để ăn hoặc cắt hông cha để uống máu.” Tên đầu đảng nghĩ như vậy. Do đó mà hắn đã từ chối lời cầu xin của người đó và nói: “Không thể thâu nhận người nầy sống với chúng ta, ở lại với chúng ta.” Dù bị từ chối không cho nhập bọn với những tên cướp, gã vẫn tìm cách nịnh bợ mua chuộc cảm tình một tên đồ đệ của chúa đảng. Tại vì gã này rất lịch sử lễ phép, hết sức khiêm tốn đối với đồ đệ của chúa đảng. Cho nên tên đồ đệ này dẫn gã theo tới gặp tướng cướp và nói: “Thưa đại ca, người này là hầu cận dễ bảo của chúng ta! Ôi, xin đại ca ban ân huệ cho hắn đi!” Sau khi thỉnh cầu, tên đồ đệ trao người đó cho tướng cướp. Một hôm bọn cướp bị dân chúng hợp lực với lính nhà vua, bắt được đưa hết ra tòa, trình diện bọn chúng trước mặt các quan toà. Quan tỏa ra lệnh chặt đầu bọn chúng bằng rìu. Dân chúng bối rối: “Ai sẽ xử tử bọn này?” Sau khi tìm kiếm khắp nơi, họ không tìm thấy một người nào sẵn lòng làm đao phủ. Không ai muốn chặt đầu chúng. Cuối cùng, họ nói với tên đầu đảng: “Nếu ngươi giết hết cả bọn thì sẽ được tha mạng và còn được thưởng nhiều nữa.” Nhưng vì đã từng chung sống với nhau gã cũng không nở giết. Cũng vậy, tất cả 500 tên cướp trừ một tên, tức là 499, từ chối không làm đao phủ. Cuối cùng, hỏi đến tên Răng Đồng sợ hãi đó, thì gã đồng ý nói: “Được chứ.” Rồi gã giết hết cả bọn, được tha mạng và lãnh thưởng giàu to. Tên này rất đáng sợ. Đã không có nơi nào để sống mới phải gia nhập với bọn cướp. Bây giờ mà không làm thì tiêu đời luôn. Ngay cả mấy tên cướp cũng không muốn hắn. Tên chúa đảng nghĩ đúng: “Gã này rất là độc ác, rất là dữ dằn. Hắn sẽ làm bất cứ gì, tàn bạo giết người không ghê tay. Quân cướp cũng không muốn thâu nhận tên này! Ăn cướp cũng có đạo đức. Họ không muốn giết đồng đảng của họ để được sống trong giàu sang phú quý. Cho nên ăn cướp đâu phải lúc nào cũng xấu xa như mình tưởng. Dĩ nhiên trộm cướp là xấu, mình không nói là mình khuyến khích những hành vi này. Nhưng có những người trong giới thượng lưu hoặc là có địa vị cao trong chính trị, họ còn tệ hơn cả trộm cướp. Trộm cướp họ chỉ có lấy tiền bạc của mình. Nhưng những người tàn ác, họ lấy cả mạng sống của mình. Tiền bạc mình còn kiếm lại được, phải không? Hay là có thể mượn tạm sống qua ngày, chứ sinh mạng thì không mượn được! Cho nên nhiều khi người ta phạt cái tội trộm cướp quá tàn nhẫn. Như có những quốc gia, ho chặt tay, nếu ăn cắp mà bị bắt, hay nếu có người bảo mình là ăn cắp. Nhiều khi người ta bị oan thì sao. Nếu họ cần về tài chánh thì tốt nhất là nên bù đắp cho gia đình bị mất mát đó, rồi bắt tên cướp kia đi lao động hoặc làm gì đó để mà bù lại cái hành động xấu kia, thì họ mới có thể có cơ hội quay đầu lại. Có những tên cướp sau nầy phục thiện. Rồi dân chúng mới nói: “Hôm trước có người nào đó chém đầu 500 tên cướp. Hắn đâu rồi?” Chúng tôi thấy ông ấy ở chỗ đó, chỗ đó. Đây là câu trả lời. Họ mới gọi người đó đến và nói: “Hãy chém đầu mấy tên này rồi người sẽ được thưởng to.” Hắn đáp: “Được chứ!” Cũng người đó lại làm lần nữa, nói rằng hắn đồng ý. Rồi hắn chém đầu hết và lãnh thưởng. Người này thật là độc ác. Mới đầu, lần đầu tiên làm thì có thể là vì sợ, và tên cướp đó mới đầu cũng chẳng đối xử với hắn tử tế gì. Nhưng lần này hắn đã giàu có rồi, đã được thưởng rồi sau khi giết 500 mạng kia. Mà bây giờ làm nữa; thật là nhẫn tâm. Kẻ cắp còn tốt hơn là người này. Dân chúng sau khi hỏi ý với nhau họ nói: “Đây là người xuất sắc nhất. Chúng ta sẽ phong hắn làm đao phủ thường trực.” Sau nầy họ dẫn tới 500 tên cướp nữa cũng từ Phương Tây và sau đó 500 từ Phương Bắc. Thế là gã chém đầu 2000 tên cướp đưa về từ khắp bốn Phương, những thành phố lớn. Rồi từ đó, mỗi ngày gã giết một hai người họ mang tới trong suốt 55 năm gã hành nghề đao phủ công cộng. Về già, gã không thể chặt đầu người một nhát nữa, mà phải 2 đến 3 nhát. Gây thêm đau đớn cho nạn nhân. Dân chúng nghĩ là: “Chúng ta phải kiếm một đao phủ khác. Gã nầy làm nạn nhân phải chịu quá nhiều đau đớn không cần thiết. Do đó gã không còn hữu dụng gì nữa. Vì vậy họ cho gã nầy nghỉ việc. Khi còn giữ chức đao phủ, gã quen nhận 4 bổng lộc. Cho nên như quần áo cũ để mặc, cháo sữa nấu từ bò tươi, hoa nhài để tô điểm, và dầu thơm để xức. Nhưng những bỗng lộc nầy gã không được nữa. Ngày bị bãi chức gã ra lệnh nấu cháo sữa sẵn sàng cho gã, lấy quần áo cũ cùng với hoa nhài và dầu thơm, rồi ra bờ sông tắm. Xong gã mặc quần áo cũ, đeo vòng hoa nhài, xức dầu thơm vào tay chân. Dầu thơm này chắc là cho người già, nhưng thơm lắm. Xức đầu vào tay chân, rồi về nhà, ngồi xuống. Họ để trước mặt gã bát cháo sữa làm bằng bò tươi và nước để rửa tay. Vào lúc đó, Trưởng lão Xá lợi-phất xã thiền. Ngài tự nhủ: “Hôm nay ta nên đi đâu đây?” Nhìn trước lối sẽ đi khuất thực, ngài thấy cháo sữa trong nhà tên đao phủ cũ. Ngài tự hỏi: “Không biết người này có tiếp ta tử tế không?” Thì ngài nhận biết hai điểm sau đây: Người đặc biệt này sẽ đối xử tử tế, do đó ông sẽ được phước báu lớn. Cho nên trưởng lão khoát y, cầm bát và đứng trước cửa nhà tên đao phủ củ. Gã thấy trưởng lão, sư ông đó, gã sanh tâm hoan hỷ. Thấy sư ông, gã thầm nghĩ: Đã từ lâu ta hành nghề đao phủ, biết bao mạng người chết dưới lưỡi dao của mình. Bây giờ cháo sữa đã được chuẩn bị trong nhà, và trưởng lão đã đến đứng trước cửa. Bây giờ ta nên cúng dường ngài. Ông cất tô cháo đặt trước mặt mình, bước ra đảnh lễ trưởng lão, tỳ kheo, Xá lợi phất, và mời trưởng lão vào nhà ngồi, trút cháo vào bình bát, rưới bò tươi lên, và đứng quạt một bên. Đã lâu không nếm cháo sửa, ông thèm ghê gớm. Trưởng lão, Xá-lợi-phất đọc được ý ông, bèn bảo: “Này cư sĩ, ăn cháo đi.” Đã vậy ngài không phê bình người đó là sát nhân, đao phủ. Ông đưa quạt cho người khác rồi ăn cháo. Trưởng lão, Xá-lợi-phất bảo người quạt cho ngài rằng: “Hãy quay qua quạt cho cư sĩ kia.” Thế là có người quạt hầu, viên đao phủ cũ ăn một bữa cháo no bụng, rồi lấy quạt lại, quạt cho Trưởng lão Xá-lợi-phất. Khi Trưởng lão thọ thực xong, ông đỡ lấy bình bát. Khi trưởng lão bắt đầu hồi hướng công đức, nhưng ông chẳng thể để tâm nghe được. Trưởng lão thấy thế bèn hỏi: “Này cư sĩ, tại sao không thể chú tâm nghe ta khai thị?” “Bạch tôn giả, con đã làm nhiều việc tàn bạo từ bấy lâu nay. Tôi đã xử tử nhiều người. Vì cứ nhớ đến những việc làm của tôi trong quá khứ mà tôi không thể nào chú tâm vào bài giảng của ngài.” Trưởng lão Xá-lợi-phất hỏi: “Này cư sĩ, nếu trường hợp là như thế thì ông làm gì sai đâu?” Cư sĩ hoang mang nghĩ bụng: “Theo lời Trưởng lão thì tôi không làm gì sai sao? Bạch tôn giả, tốt quá, xin Tôn giã giảng tiếp.” Trưởng lão nói tiếp bài hồi hướng. Tâm ông trở nên tĩnh lặng. Nghe pháp nhãn lực của ông khai mở và ông tiến đến quả Dự lưu (bước đầu tiên của người thọ Tâm Ấn. Khi Trưởng lao hoàn tất việc hồi hướng, ngài ra về. Ông cư sĩ, nghĩa là đao phủ cũ, tiễn ngài một đoạn đường rồi quay trở lại. Trên đường về, ông bị quỷ dọa xoa đội lốt con bò cái dùng vai hút chết. Ông chết và tái sanh vào cõi trời Đẩu Suất. Sư đồ các tỳ kheo bắt đầu bàn tán trong Pháp đường. Người mà làm đao phủ xử tử quân trộm cướp, người mà đã thực hiện những hành vi tàn nhẫn suốt 55 năm, hôm nay bị bãi chức, hôm nay cúng dường cho Trưởng lão, hôm nay chết. Ông tái sanh về đâu? Thầy, tức là Đức Phật vào hỏi: “Các tỳ kheo, bây giờ các ông ngồi đây và bàn tán chuyện gì?” Họ thưa chuyện thì Phật nói: “Các tỳ kheo, ông ta tái sanh lên cõi trời Đẩu Suất.” Cõi Atula cao, rất tốt. Rồi các vị tỳ kheo nghe Phật nói thế. Họ hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn, Ngài nói sao? Ông đó đã giết người suốt quãng đời dài như vậy mà được tái sanh lên cõi trời Đẩu Suất?” Đúng vậy, các tỳ kheo, ông ta được thăng thiên! Ông Ông nghe Xá-lợi-phất thuyết pháp và do đó mở mang tri kiến. Do đó khi lìa đời ông được tái sanh lên cõi trời Đẩu Suất. Xong Phật nói bài kệ sau đây: “Người đao phủ trong thành, Nghe những lời khéo nói, Được nhận và sau đó lên cõi trời hưởng vui.” Các tỷ kheo hỏi tiếp: “Bạch Thế Tôn, trong lời hồi hướng thật ra đâu có năng lực gì ghê gớm. Vả lại người này đã lầm lỗi rất nhiều.” Phật trả lời: “Các tỳ kheo đừng đo lường giáo pháp của ta nhiều hay ít lời. Một câu đầy đủ đạo lý vẫn có công đức siêu việt.” Nói xong, Phật dạy giáo lý, bằng cách nói bài kệ như sau. “Dẫu ngàn lời, nhưng không gì lợi ích. Tốt hơn một câu nghĩa. Nghe xong được tỉnh lạc.” |
Archives
January 2023
Categories |