Có một câu chuyện nói về hai người nửa quỷ, nửa thần; có lẽ là nửa tiên, nửa yêu tinh. Hai người sống với nhau. Một người thì xanh, còn người kia thì đỏ, (Sư Phụ cười) giống như đèn xanh, đèn đỏ ngoài kia. Màu xanh là tượng trưng cho hòa bình, không trục trặc. Màu đỏ là tượng trưng cho chiến tranh, sự cản trở, bế tắc. Nhưng hai người sống với nhau rất là hòa thuận trên một ngọn núi, không bận rộn, lo nghĩ hay ham muốn gì cả. Họ sống với nhau nhiều trăm năm như vậy. Và những khi không có gì làm, họ hay ngồi với nhau trên núi, nhìn xuống trần gian, thế giới của loài người. họ thấy đủ thứ chuyện bận rộn, người đi ngược, kẻ đi xuôi... Họ thấy thế giới luôn luôn biến chuyển. Con xanh nói với con đỏ: "Anh thấy không, chúng ta đã sống trên nhiều trăm năm nay rồi, đời sống không bao giờ có gì thay đổi, ngày nào cũng như ngày nấy. Nhưng tại sao thế giới dưới kia, thế giới của loài người, mỗi ngày đều có thay đổi vậy?" Con đỏ đáp: "Ừ nhỉ, anh nói đúng, cũng hay, đời sống của họ cũng hay đấy". Nhưng con xanh nói: "Tại sao đời sống của họ chuyển biến hoài vậy?" Con đỏ nghĩ một hồi rồi đáp: "Ồ, chắc tại vì họ hay đánh nhau. Họ xây nhà thật đẹp, thật lớn, hôm sau lại đánh nhau rồi phá hoại hết. Rồi họ xây cái khác, rồi chiến tranh nữa, phá hoại nữa. Vì vậy mà thế giới luôn luôn có công chuyện để làm (Sư Phụ cười), luôn luôn thay đổi. Đối với hai đứa mình bây giờ, thế giới này quá yên ổn, quá chán. Tôi nghĩ chúng ta nên đánh nhau đi". Con đỏ nói như vậy. Con xanh nói: "Không, đừng đánh nhau. Chúng ta là bạn tốt, đã là bạn bè với nhau nhiều trăm năm nay rồi, sao lại đánh nhau chứ?" Nhưng con đỏ nói: "Nếu không đánh nhau, chúng ta sẽ không có gì thay đổi. Cuộc đời sẽ cứ như vầy hoài. Chán quá! Không có gì tiến bộ cả. Tụi mình đánh nhau đi!". Con xanh nói: "Không, không, không! Tôi không làm vậy đâu. Không, tụi mình là bạn mà". Con đỏ nhất định và nói: "Kể từ hôm nay, anh là kẻ thù của tôi. Đừng nói gì thêm nữa". Nó tuyên bố ngay tại đó, rồi bỏ đi. Nó không sống với con xanh nữa, mà dọn về phía bên kia núi, ngồi một mình ở đó chuẩn bị chiến tranh. Con xanh ở lại, trong lòng buồn bả cô đơn, nó nhớ con kia. Yêu tinh là một nửa thiên thần, họ có phép thần thông. Ngoài việc biết bay, hóa phép ra đồ vật, nhìn được rất xa, nghe được rất xa, họ cũng có thể biến cái mũi của họ mọc ra dài vô tận. Một ngày kia, con xanh ngồi đó trong lòng chán nản, bỗng nhiên thấy thế giới loài người dưới kia có một cái gì đó luôn luôn sáng lóng lánh. Nó tò mò quá, bèn xử dụng cái mũi của nó, (cười) làm dài ra, nói: "Dài nữa, dài nữa, dài nữa". Thế là mũi nó mọc dài, dài, dài vào tới thế giới bên dưới, đến chỗ có cái vật sáng lóng lánh kia. Ánh sáng lấp lánh này phát ra từ xiêm y của công chúa trong thành phố đó. Lúc bấy giờ mấy người tỳ nữ đang phơi đồ của công chúa ngoài sân. Những bộ đồ này được kết vàng, có cái kết kim cương, ngọc thạch ... sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Tỳ nữ nói chuyện với nhau rằng: "Ồ, quần áo công chúa đẹp thiệt, nhưng nhiều quá không có đủ tre để phơi. Phải làm sao đây?" Lúc đó, mũi con yêu tinh này cũng vừa đến (cười). Mấy người tỳ nữ nghĩ: "Ồ, có cái cột tre dài đủ để phơi những bộ đồ còn lại rồi nè". Thế là họ treo số quần áo công chúa còn lại trên cái cọc xanh đó, rồi vui vẻ vào nhà ăn bánh chapati. Con xanh bỗng nhiên cảm thấy có cái gì nặng trĩu trên mũi. Nó sợ hãi quá, tức thì kéo cái mũi lên trở lại bình thường, kế tiếp là một đống quần áo lóng lánh đổ xuống chân nó. Nó nghĩ bụng: "A! Ô! Hôm nay hay quá!" Nó liền mặc vào thử, coi đẹp như thế nào. Nó hãnh diện đi qua đi lại một mình. Đúng lúc đó con đỏ đến gây sự muốn đánh nhau, đề tiến bộ. Nhưng con xanh nói: "Nhìn nè! Tôi có quần áo mới, đẹp không? Tôi nhường cho anh một nửa. Con đỏ nhìn tỏ vẻ coi thường, nói: "Tao không mặc mấy thứ đồ vô duyên này, chỉ những người điên như mày mới mặc". Nó muốn gây lộn, nên cứ nói bậy nói càng. Con xanh lúc nào cũng xanh, rất điềm tĩnh, cũng không bắt bẻ gì hết. Nó nói: "Cũng được. Anh không mặc cũng không hại gì. Cứ để lại đó, không sao hết". Con đỏ không biết làm cách nào khác, đành về nhà. Anh ta thật ra rất, rất là ganh tỵ với con xanh; cho nên sau đó cũng rán kiếm một ít quần áo cho nó. Nó cũng thả cái mũi dài xuống cung điện, đợi người treo quần áo. Nhưng đúng lúc đó đang có vài kiếm sĩ tập đánh gươm với nhau. Họ nhìn thấy một vật gì dài từ đâu đến, bèn hỏi nhau: "Cái gì vậy?" Một người đáp: "A! Chắc là phát minh mới của kẻ địch muốn tấn công chúng ta đó. Hãy phá hủy nó trước". Người kia nói: "Phải đó". Rồi họ dùng gươm "pa!" (Sư Phụ bắt chước tiếng chém). Con đỏ bỗng nhiên cảm thấy đau nhói, kéo chiếc mũi ngắn lại như cũ, máu chảy ròng ròng; nó khóc ngất lên. Con xanh nghe tiếng khóc của con đỏ lập tức chạy lại hỏi: "Chuyện gì vậy? Chuyện gì vậy?" Con đỏ vừa mắc cở vừa tức, không biết nói sự thật làm sao, trả lời: "Kệ tao. Đừng có làm phiền tao". Con xanh nói: "Không, tôi không làm rộn anh đâu, tôi chỉ muốn giúp thôi. Nó đang chảy máu kìa. Coi nè, tôi biết thuốc trị. Tôi bôi nó vào là hết chảy máu liền. Mũi của anh sẽ đẹp lại như trước. Nếu không, anh sẽ có thẹo bự lắm, thành một cái lỗ ngay đó, xấu lắm. Tôi chỉ muốn giúp anh thôi". Cuối cùng con đỏ thấy cảm động nói: "Thôi được, thôi được". Rồi bắt đầu khóc thảm thiết: "Ai da! Đau quá. Làm mau lên, mau lên! Làm nó khỏi mau lên đi". Dĩ nhiên họ giảng hòa với nhau vì bị đánh như vậy đủ rồi. Nó thấy đánh nhau không tốt và học được bài học hòa bình. Từ đó về sau, họ mặc quần áo đẹp, mỗi ngày uống trà với nhau, và không gây chiến tranh nữa. Thanh Hải Vô Thượng Sư kể chuyện : " Yêu Tình Xanh Và Yêu Tinh Đỏ " . SM Video
0 Comments
Có một câu chuyện, tôi quên đó là truyện Trung Hoa hay Âu Lạc (Việt Nam). Tôi có kể truyện này qua chưa? Câu truyện dường như thế này. Một phụ nữ có một người chồng trước kia, rồi vì lý do gì đó, bà tưởng chồng bà đã qua đời, hoặc ông đã không trở về, một thời gian lâu, cho nên bà tái giá với một người khác. Sau này, người chồng trước trở về và gặp vợ, và rồi vợ ông sợ, cho nên người chồng sau nấp trong đống rơm. Rồi người chồng mới trở về, không biết có người núp bên trong, ông đốt đống rơm đi. Rồi thì, dĩ nhiên, người bên trong bị thiêu chết, khi người vợ thấy lửa cháy như vậy, bà nghĩ đó là vì bà mà người chồng sau bị chết, cho nên bà nhảy vào lửa để chết theo ông. Rồi người chồng trước thấy vợ mình nhảy vào trong lửa, ông cũng nhảy vào trong lửa để chết theo vợ. 3 người rất chung thủy, cho nên trời đặt tên cho họ là ông táo và bà táo; một nữ và 2 nam. Đó là trường hợp bi thương. Họ chết vì chung tình. Câu chuyện này cũng khá thích hợp cho hôm nay, bởi vì hôm nay là lễ Tình thương. Hiếm khi có một câu chuyện như vậy, với tình thương và cảm giác như vậy. Love Is Very Important – BMD 1745 Từ thời xa xưa, các đấng tiên tri luôn khổ sở vô cùng. Cho nên, Ngài không những chịu khổ, đệ tử Ngài cũng chịu khổ. Phải, đôi khi người ta khủng bố họ thê thảm. Và đây là một trong những câu chuyện. Đây là câu chuyện về một cậu bé thuộc truyền thống Sikh, đạo Sikh, vào thời đó, và về niềm tin không lay chuyển trong tín ngưỡng của cậu. Như quý vị biết, nhiều đạo sư Sikh giáo đã bị khủng bố bởi chính quyền gì đó vào thời đó, vì, dĩ nhiên, sự hiểu lầm, hoặc có lẽ vì sự ganh tỵ, của tông phái tôn giáo chính thức vào thời đó. Cho nên, người ta khủng bố các Ngài rất nhiều, và đệ tử của Ngài nữa. Và một số đệ tử thậm chí phải dùng vũ khí để bảo vệ gia đình họ và tất cả điều đó, giống như Hồi giáo gần đây. Đó là điều rất tệ xảy ra cho họ. Bây giờ, câu chuyện này là về một cậu bé tin vào Sikh giáo thời đó, vào các đạo sư của cậu. Ở Ẩn Độ, vào thời của vua Farrukh-Siyar, nhà vua chống lại giáo đồ Sikh giáo ở Punjab. Tôi đã nói với quý vị rồi. Phải, bởi vì nhà vua thuộc về tôn giáo này hay tôn giáo khác. Và rồi nếu có người giảng điều gì khác và không từ trong sách, thì nhà vua nghĩ rằng ông ta có quyền diệt trừ người không theo đạo đó, người không tin vào những gì ông ta tin. Phải, điều này luôn xảy ra. Đó là chuyện rất buồn bởi vì mọi người đều nghĩ rằng họ tin vào Thượng Đế, nhưng rồi trong danh nghĩa của Thượng Đế, họ giết nhau. Ý tôi là, vào thời đó. Mọi người tranh chấp với nhau vì tín ngưỡng tôn giáo, họ làm vậy thường vì cùng một Thượng Đế, cùng cái bánh táo. Chỉ là một người nướng nó rồi ăn, và người kia chỉ niệm công thức cả ngày và rồi đánh lại người có thể nếm được bánh táo bởi vì họ chưa từng nếm qua trước đó. Chuyện là như vậy. Cho nên vua Farrukh-Siyar đánh lại giáo đồ Sikh giáo ở Punjab, hy vọng có thể tiêu diệt toàn bộ vương quốc của họ. Ông ta thật sự muốn tiêu diệt tất cả họ. Vì thế, với đội binh của ông, và thậm chí mọi người khác, ông ra lệnh rằng mỗi tín đồ Sikh giáo bắt được phải bị chém đầu tức thì. Chỉ với danh nghĩa tôn giáo. Và dĩ nhiên, nhà vua rất có quyền lực. Vua là người có thể chém đầu quý vị bất cứ lúc nào ông ta muốn, vào thời đó. Cho nên, nếu vua không khai ngộ, và đồng thời còn là người quá khích nửa, thì dĩ nhiên, quý vị có thể tưởng tượng khó khăn thế nào cho những đạo sư Sikh giáo và đệ tử của họ để có thể sinh tồn được vào thời đó. Nhưng niềm tin luôn thắng, và bất kể khó khăn đến đâu, người ta luôn luôn tin tưởng và theo những vị Minh Sư đó, Sikh giáo hoặc chúa Giê-Su, hoặc Tiên tri Mô-ha-mét, Đức Phật, v.v.- Không gì có thể ngăn cản họ. Cho nên, nhà vua treo giải thưởng 200 ru-pi cho mỗi một ai mang vào đầu của một tín đồ Sikh giáo. Ồ kinh khiếp! Đây cũng giống như chuyện săn phù thủy thời trung cổ, phải không? Quý vị biết, điều nầy thậm chí rất nguy hiểm, bởi vì quý vị có thể cứ chém đầu bất cứ ai nếu muốn và rồi mang đầu vào cho vua và nói: Đây là tín đồ Sikh giáo. Làm sao chứng minh được, biết không? Dĩ nhiên, tín đồ Sikh giáo thời đó, họ có dấu hiệu riêng của họ. Họ có vòng đeo tay, họ có lược, có khăn quấn đầu, có quần ngắn, và một thanh gươm. Tôi nghĩ bởi vì thời đó họ phải tự vệ bằng cách nào đó. Không phải là họ có chủ ý muốn giết ai, mà chỉ là để trông như ta cũng có vũ khí, cho nên hãy “suy nghĩ lại trước khi giết ta.” Đại khái vậy. Hoặc, “suy nghĩ lại trước khi gây hại đến ta. Tôi nghĩ chỉ là tự vệ. Cũng vậy với thời của Tiên tri Mô-ha mét. Đấng Tiên tri không hề giảng dạy đệ tử đi ra ngoài đánh ai, mà họ chỉ phải bảo vệ thân nhân bạn bè. Họ chỉ phải có gì đó để cho kẻ thù ít nhất thấy rằng “Ta cũng có, cho nên một trong hai ta sẽ bị thương.” “Biết không?” Có lẽ ta sẽ bị thương, nhưng ngươi cũng sẽ bị thương. Vậy hãy để yên cho chúng tôi.” Đại khái vậy. Họ chỉ hy vọng vậy. Bây giờ, do vận may của ông, quân sĩ của vua ở Punjab một ngày bắt được gần 500 giáo đồ Sikh. Con số chúng ta đang có hiện giờ, quý vị có thể tưởng tượng được tất cả quý vị bị chém đầu vào lúc đó không? Kinh khiếp. Họ đang ẩn núp trong rừng. Họ đã trốn ở trong rừng rồi, nhưng quân lính của vua vẫn vào đó để lùng bắt họ ra. Đây là một điều đáng sợ về chủ nghĩa cuồng tín. Ý tôi là, nếu họ có làm gì sai thì được, không sao. Nhưng họ không có. Đạo Sikh cũng giống như mọi tôn giáo khác, dạy đạo đức, trường chay, câu thông với Thượng Đế. Nhưng đó là vấn đề, thấy không? Đa số tôn giáo chính thức vào thời đó không có giảng như vậy bởi vì vị Minh Sư đã đi rồi, cho nên không câu thông được với Thượng Đế. Cho nên bây giờ, đệ tử Sikh giáo sẽ nói: “Ta đã câu thông với Thượng Đế.” Hoặc họ sẽ nói: “Đến với đạo sư của tôi và quý vị có thể câu thông trực tiếp với Thượng Đế.” Rồi, dĩ nhiên, họ không chịu nói. Làm sao có thể được? Bởi vì đã lâu rồi kể từ lúc vị sáng lập tôn giáo qua đời và không ai truyền xuống pháp mạch trực tiếp này, sự nối kết trực tiếp với Thượng Đế không còn nữa, cho nên họ chỉ niệm giáo lý của những vị tiên tri xưa và tuyên bố rằng đó là một tôn giáo và bất cứ ai khác không tin vào đó hoặc không làm cùng điều thì là vô thần, hay gì đó. Bất cứ lý do nào, bất cứ tên gọi gì họ bị gán cho, và phải bị diệt trừ một cách như vậy. Tất cả họ được mang về Đề Li, thủ đô của Ẩn Độ, giờ vẫn còn, và bị dẫn vào trình vua, và vua liền ra lệnh họ bị chém đầu. Chúa ơi, vua gì kỳ vậy. Tôi không tin chuyện này. Tôi không hiểu điều này; Ý tôi là, người ta không cần phải tin những gì mình tin. Có lẽ quý vị không tiếp xúc với họ, quý vị không tin những gì họ tin, và không bảo vệ họ hay cho họ đặc quyền nào, mà chém đầu người nào đó chỉ vì họ tin điều gì đó khác, đây là quá mức. Tôi không tin nổi. Nhưng điều đó đã xảy ra trong lịch sử nhân loại chúng ta. Trong nhóm những tù nhân, có một cậu bé Sikh giáo là con trai duy nhất của cả gia đình. Quý vị biết điều đó quan trọng ra sao với họ, phải không? Người nam để nối dõi tông đường. Cậu là người duy nhất trong gia đình. Mẹ cậu đã theo những tù nhân đến Đề Li. Bà chưa bị bắt, họ bắt mọi người và cậu bé, nhưng mẹ cậu thì không và bà khóc lóc với vợ của tể tướng, năn nỉ và thuyết phục chồng để khẩn cầu với vua tha mạng đứa bé. Người mẹ thậm chí quen biết vợ của tể tướng. Tể tướng giống như thừa tướng. Nhà vua nói: “Ta sẽ tha đứa bé nếu nó chịu nói rằng nó không phải giáo đồ Sikh.” Dỉ nhiên, như vậy ông ta sẽ có lý do; hoặc ông không muốn cậu bé làm tín đồ Sikh giáo. Một cận vệ đặc biệt mang đứa bé đến trước mặt nhà vua, và nhà vua ra lệnh với giọng cao ngạo: “Bé con, để cứu mạng ngươi, ngươi phải tự tuyên bố mình không phải tín đồ Sikh giáo.” Nhưng khi nghe điều này, đứa bé lớn tiếng hét lên: “Tôi đạo Sikh. Tôi dạo Sikh.” Rồi, quay qua đao phủ, cậu bé nói một cách chắc chắn và quả quyết không chút phủ nhận: “Thưa ông, xin rủ lòng tốt chém đầu tôi lập tức. Tôi không muốn mẹ tôi chịu khổ thêm nữa vì chờ đợi về số phận của tôi.” Cậu bé muốn mẹ nó dứt khoát điều đó để ít nhất khi nó chết đi bà biết rằng nó chết rồi, để bà không đau khổ và lo lắng là nó sẽ chết hay không. Điều đó cũng khổ sở, chờ đợi, chờ đợi, và không biết điều gì xảy ra, không biết con mình có được tha hay không. Đó cũng là điều thê thảm cho người mẹ để trải qua. Cho nên nó nài nỉ đao phủ cứ chém đầu nó cho xong chuyện. Đây là loại niềm tin cũa một người đạo Sikh. Sikh nghĩa là đệ tử. Satguru nghĩa là Chân Sư, Minh Sư. Như vậy cho dù đó là một vấn để mất đi mạng sống, họ cũng sẽ vẫn kiên trì trong niềm tin và sự dâng hiến cho Minh Sư. Là như vậy. Và Đạo Sư Nanak nói đại khái như: “Một đệ tử chân chính là không hy vọng hay sợ hãi. Người nào không sợ chết, là một đệ tử hoà nhập hoàn toàn. Phải, nói thì dễ, nhưng khi đến chuyện sinh tử, đôi khi chúng ta bấn loạn suy nghĩ mình có nên ra đi như vậy không. Khi Chúa Giê-Su bị người La Mả bắt, một trong các đệ tử của Ngài cũng phủ nhận Ngài 3 lần. Tôi không biết tại sao phủ nhận Ngài. Đó chỉ là bản tánh của con người, biết không? Khi bỗng nhiên phải đối diện với điều gì đó sẽ kết liễu cái gọi là sự sống. Mặc dù một đệ tử như Phê-rô lẽ ra nên biết tốt hơn. Có lẽ ông phủ nhận để ông không cần phải làm nhân chứng chống lại Chúa Giê-Su nữa. Không phải ông lo sợ cho tính mạng mình. Nhưng nếu người La Mã biết rằng: “Ô, ta biết người này.” Thì có lẽ ông phải làm chứng: “Đúng, Ngài là Minh Sư, và là vị Minh Sư quý vị muốn bắt.” Và ông không thể nói dối, cho nên ông thà là nói dối chút ít. Nên nói: “Tôi không biết ông ta.” Hơn là về sau phải phủ nhận Ngài thậm chí là Minh Sư. Hiểu ý tôi không? Hoặc là làm chứng, nói sự thật, như Ngài là Minh Sư, rồi làm nguy hiểm đến tính mạng của Thầy. Hiểu ý tôi không? Cho nên, tôi không nghĩ Phê-rô thật sự lo sợ cho tính mạng của mình. Tôi nghĩ ông lo sợ cho tính mạng của Thầy. Và trong hoàn cảnh nầy, ông thà là nói dối một chút, nói dối nhẹ nhàng, để cứu Ngài, thay vì phải nói sự thật và gây hại cho Thầy. Tôi nghĩ chuyện là như vậy. Tôi không nghĩ một đệ tử với thân phận Thánh Phê-rô lại lo sợ cho tính mạnh mình. Gathering, August 29, 2008 Có một người tên là Dadu dayal. Ngài là một Đại Sư hồi xưa. Ngài nói rằng Satguru, nghĩa là Chân Sư. Sát nghĩa là chân, Guru nghĩa là sư. Satguru nghĩa là Chân Sư, Minh Sư chân chính, Minh Sư hoàn mỹ. Vị Chân Sư này biến thú thành người. Ông có thể biến một con vật thành người. Ông có thể biến một người thành thánh, và thánh thành Thượng Đế. Và ông có thể biến Thượng Đế đó thành Đấng Vô Thượng. Một vị Chân Sư có thể làm như vậy. Cho thấy quyền năng của vị Minh Sư. Nhưng Đấng Tối Thượng không cần phải được tạo ra bởi Minh Sư. Có điều, nếu Đấng Tối Cao đó giáng trần, cũng phải đi qua tiến trình đó. Vậy thôi. Hiểu không? Ngay Chúa Giê-su, nhớ không? Ngài để John, vị Thánh đó rửa tội, Tâm ấn cho Ngài. Hồi xưa, có một tên ăn trộm khét tiếng, sắp sửa qua đời, gọi con trai đến bên giường và nói rằng: "Này con, đây là lời khuyên tốt nhất mà cha cho con." Tên trộm bố nói với tên trộm con như vậy. Nó thừa kế nghề của cha nó, phải không? "Trước hết, làm ăn trộm, con không bao giờ nên vào chùa chiền, hay ký túc xá cho người hành hương." Giống như thiền đường vậy đó. "Thánh đường, bất cứ nơi nào liên quan tới tu hành. Thứ hai, nếu con bị bắt vì tội ăn trộm, đừng bao giờ thú nhận, dù có bị người ta đánh bầm tím." Dĩ nhiên, nếu con thú tội, con sẽ bị kết tội, đúng không? Họ sẽ giết con hay chặt tay con, tùy đó là quốc gia nào, hoặc là bỏ tù con suốt đời. Ông ta nói: “nếu con bị đánh nhừ tử, cũng đừng có bao giờ thú tội.” Sau đó, vua ăn cắp qua đời. Ông rất nổi tiếng trộm cắp. Chưa bao giờ bị bắt hay bị tù. Thấy chưa? Sống tới tuổi già, nghĩa là ông ăn cắp rất giỏi. Sau đó, đứa con trai đi ăn cắp mỗi đêm. Nhưng có một đêm, anh ta đột nhập vào căn nhà nọ, người trong nhà tỉnh dậy, và họ báo động nhau, và bắt quả tang anh chàng. Anh không biết chạy ngả nào. Cứ chạy, chạy đại. Vô tình thấy một lối thoát, đó là chạy vào ký túc xá cho người hành hương. Giống như người bên Ấn Độ, họ xây những ký túc xá hành hương khắp nơi trên Hy Mả lập Sơn. Mỗi 10 dậm có một chỗ miễn phí. Quý vị có thể ở đó. Không có gì cả. Không giường, không gì cả. Ngủ đại trên sàn đất, ẩm ướt và bất cứ gì. Họ không cung cấp cho mình gì cả, một cái mái thôi. Chị Hai kể quý vị rồi, chị Hai có ở hai chỗ như vậy, nhiều chỗ như vậy. Anh ta nhớ lời khuyên của cha, nhưng vì không có cách nào khác, anh phải vào ký túc xá đó, và lúc đang thuyết giảng, Satsang, Satsang nghĩa là giảng về Chân Lý. Đó là tiếng Phạn chỉ sự diễn giảng Chân Lý, như bài thuyết pháp của Minh Sư, đại khái vậy. Hiểu không? Buổi thuyết giảng nói về Chân Lý vừa mới bắt đầu. Anh ta nhớ lời khuyên của cha, nhưng lỡ ở trong ký túc xá rồi, không làm gì được. Anh bịt lỗ tai để khỏi phải nghe, nhưng vô tình bị ngứa chỗ nào đó anh ta gãi, rồi làm lỏng một lỗ tai, và anh ta nghe thấy một câu: "Các vị thần không lưu lại bóng. Anh chàng nghĩ bụng: "Có bóng hay không có bóng ăn nhằm chi tới mình?" Cho nên anh ta không để ý tới chuyện đó. "Dẫu sao mình cũng không cố tình muốn nghe câu đó. Tự nhiên xảy ra vậy thôi." Anh ta đang biện cho mình trước linh hồn của bố anh ta. Trong khi đó, cảnh sát tới bắt anh. Họ đánh anh, nhưng anh không thú nhận. Theo luật lệ thời đó thì người bị buộc tội không bị án trừ phi họ thú tội. Sau đó anh ta bị đưa đến diện kiến vua, và cũng bị đánh, nhưng không kết quả. Anh ta không thú tội. Nhưng họ biết anh ta đúng là tên ăn cắp. Người ta nhận diện ra anh và biết anh là ăn trộm, nhưng vì anh ta không thú tội, nên họ không biết làm sao. Về sau, có người khuyên rằng ngay cả trộm cũng rất tin các vị Thần. Thế là cảnh sát mướn một nữ tội nhân người này khuyên họ là trộm sẽ sợ và thú tội với các vị thần. Thế là bà ta hứa làm anh này phải nhận tội của mình. Một đêm kia, người đàn bà nầy giả trang làm nữ thần. Bà ta có hai cánh tay giả gắn vào người, giống như Durga. Durga có 4 cánh tay và cởi sư tử hay cọp. Với sự sắp đặt của cảnh sát, bà cởi cọp giả. Giống như các nữ thần bên Ấn Độ, bà ta cởi cọp hay sư tử. Cởi cọp, vậy chắc là nữ thần Durga. Bà ta cởi trên mình cọp và có bốn cánh tay. Khi bà đi vào, cửa phòng tên trộm trẻ đó tự nhiên mở ra. Họ sắp đặt như vậy làm như bà ta là nữ thần thiệt. Bà đi vô, của tự nhiên mở. Có lẽ họ làm sợi giây chỗ nào đó kín đáo, và mở cửa cho bà, của không khoá. Vị nữ thần đó, nữ thần giả nói với tên trộm: "Này con, ta tới cứu con. Nhưng nếu con phạm tội ăn cắp, con phải thú nhận với ta trước, thì ta mới có thể rửa tội cho con." Tên trộm sắp sửa nói sự thật về tội phạm của nó, bỗng nhiên nó thấy nữ thần này có cái bóng. Anh ta nhớ tới câu nói mà anh ta nghe thấy trong ký túc xá của người hành hương trong thời gian ngắn ở đó, đang bị ngứa nên anh để tai anh lỏng ra: "Các vị thần không lưu lại bóng." Anh nghĩ bụng: "Tôi biết bà này là giả." Thế là anh ta nói với bà với giọng thơ ngây trong trắng: "Thưa Thần linh, con không có tội. Họ đánh con vô cớ thôi. Làm ơn giúp con. Con không thể chịu nổi sự bất công này. Ở đây họ không cho con gì ngon để ăn. Họ đánh con dữ lắm. Con sẽ chết mất! Nếu đại lực lượng gia trì của ngài không giúp con được thì hãy giết con bây giờ đi. Hơn nữa, dù con có phạm tội ăn cắp, ngài cũng biết rồi, ngài đâu cần hỏi con. Ngài biết con không làm mà, phải không? Ngài biết rồi. Ngài là nữ thần. Ngài biết rồi." Thành ra, dĩ nhiên là cảnh sát, cai tù với loa phóng thanh ngoài kia nghe hết. Họ mới nói: "Ồ, người đàn ông nầy vô tội. Hãy thả hắn ra." Thế là anh ta được thả tự do. Sung sướng được về, hồi phục các vết thương, vết thẹo, và ăn ngon, ăn khỏe, đủ thứ. Sau đó anh ta nghĩ bụng: "Nếu ta vô tình nghe được một câu Chân lý như vậy mà nó đã cứu ta thoát khởi hành hạ, cứu ta thoát chết, gìn giữ danh dự của ta, đủ thứ. Thì nó sẽ cứu ta biết bao nhiêu nữa nếu ta tham dự và nghe cả bài thuyết giảng và nghe mỗi ngày?" Cho nên, dĩ nhiên, anh ta trở lại chùa đó nữa và lắng nghe những lời giảng dạy của Minh Sư đó mỗi ngày, và trở thành một nhà tu pháp Quán Âm, và không bao giờ ăn cắp nữa, rồi trở nên một đại thánh nhân thời đó. dvd 809 Thuở xưa, rất lâu về trước, có một thị trấn nhỏ có hai con đường song song một bên trái và một bên phải. Có hai con đường như vậy. Hai con đường nghịch hướng nhau. Bấy giờ một tu sĩ Hồi Giáo tình cờ đi ngang qua thị trấn này. Trước tiên, ông đi trên một con đường, và rồi đi sang con đường bên kia, vì hai đường chạy song song. Quý vị đi một đường trước và rồi quý vị đi đường bên kia. Khi ông đến con đường thứ hai, có người để ý thấy mắt ông đẫm lệ, và lệ cứ tuôn rơi, nước mắt cứ rơi dài, rơi dài. Cho nên bất chợt có người kêu lên và nói: Ô, có người chết trên con đường thứ nhất bởi vì họ thấy tu sĩ Hồi Giáo đến từ con đường thứ nhất, nước mắt tuôn dài cho nên người trên con đường thứ hai nói: Ô, có người chết trên con đường thứ nhất, họ đoán vậy. Họ nghĩ rằng có người đã chết. Và rồi tất cả trẻ em gần đó nghe vậy cũng cùng nói theo: “Ô, có người chết trên con đường thứ nhất.” Và rồi chúng đều chạy về nhà mình và báo tin đó: Ô, có người chết trên con đường thứ nhất cứ như vậy. Nhưng họ thậm chí không hỏi vị tu sĩ Hồi Giáo tại sao nước mắt ông chảy dài. Quý vị có đoán được tại sao? ĐT - Thưa trời nhiều gió. SP - Có lẽ. Phải, có thể vậy, phải. Có người, khi trời nhiều gió, họ chảy nước mắt, hoặc bị bụi, bất cứ gì. Có thể là gì nữa? ĐT - Nghiệp quả (quả báo) của ông ta. Đó là nghiệp quả (quả báo) sao? Chúa ơi, nghiêm trọng quá. SP - Ông ta vui mừng. Ông ta có lẽ vui mừng, phải , có thể. Khi vui mừng, quý vị khóc, phải không? Có thể. Còn gì nữa? Có nhà nấu bếp nào ở đây không, nhà nấu bếp? Cắt củ hành. Củ hành. Phải. Nhưng tôi đã gợi ý cho quý vị nên mới vậy. Ông ta lột vỏ củ hành trước khi đi ra ngoài. Ông ta có lẽ đã lột củ hành, và có lẽ ông ta thiếu nước tương, cho nên chạy ra đường bên kia để mua một ít nước tương để nấu cho Truyền Hình Vô Thượng Sư. Ai biết được. Dù thế nào, chuyện là như vậy. Ông ta đang lột củ hành, và rồi chạy ra đường thứ hai bởi vì có lẽ trên con đường thứ hai có những tiệm bán những món ông cần mà đường thứ nhất không có. Dù thế nào, sự việc không giải thích ở đây nhưng chúng ta có thể đoán. Cho nên, tu sĩ Hồi Giáo chạy ra đường thứ hai với mắt đầy lệ, và bây giờ, sau một thời gian ngắn, sau tất cả tiếng kêu la này về việc có người sắp chết trên con đường thứ nhất lần đến mọi góc phố, và mọi người đều nghĩ vậy. Họ thật bối rối, đau buồn, và hoang mang. Bởi vì đây là một thị trấn rất nhỏ và chỉ có hai con đường và mọi người đều biết mọi người ở đâu, và hầu như mọi người đều liên hệ với mọi người trong thị trấn nhỏ này. Giống như một gia đình nhỏ, cho nên họ đều vô cũng lo lắng: Ai có thể là người sắp chết trên con đường thứ nhất? Có thể nào là em họ tôi? Có thể nào là chú tôi? Có thể nào là cô tôi? Có thể nào là chị tôi hoặc anh, hoặc thông gia.” Hay bất cứ gì. Mọi người đều căng thẳng. Và vào thời đó họ không có điện thoại để hỏi thăm. Chỉ có thể gọi nhau thất nhanh, để hỏi nhau có sao không. Họ cứ nói với nhau có người chết trên con đường thứ nhất, chỉ vậy thôi, và mọi người đều căng thẳng. Và rồi không ai thậm chí dám hỏi như ai sắp chết và tại sao. Tại sao ồn ào huyên náo vậy, phải không? Không ai hỏi bởi vì họ điều bận rộn căng thẳng và lắng nghe nhau: “Phải, có người chết!” Và họ bận rộn đi nói cho người khác: “Có người chết trên con đường thứ nhất!” Và người đó bận rộn đi nói cho người khác và cả thị trấn đầy những tin về việc người sắp chết này. Không ai hỏi về việc ai chết và tại sao. Trong thị trấn có một người thông thái, và ông ta bảo mọi người: “Xin hãy giữ bình tĩnh! Ít nhất hãy đi hỏi xem. Tại sao trước hết quý vị không hỏi ai chết, và tại sao?” Và rồi mọi người vô cùng căng thẳng và hoang mang, và họ đều nói cùng một lúc, không ai lắng nghe ai và vô cùng ồn ào và náo loạn, và nói: “ Chúng tôi chỉ biết vừa có một bệnh dịch chết người trên đường bên kia!” Trước tiên, có người sắp chết và bây giờ có bệnh truyền nhiễm xảy ra, ở đường bên kia. Bịnh dịch chết người đang xảy ra.” Chúa ơi! Ngay khi họ vừa nói như vậy, tin đồn này lại bay khắp mọi hướng, và mọi người bây giờ biết rằng có một bệnh dịch, bệnh dịch chết người, trên con đường thứ nhất. Rồi mọi người, toàn thể dân chúng trong thị trấn, suy nghĩ: “ Vậy là xong. Đây là tận thế như đã được tiên đoán đâu đó. Thôi rồi! Bệnh dịch! Truyền nhiễm! Ô, chúng ta tận mạng!” Và họ bắt đầu khóc rất nhiều, rất nhiều. Trước tiên, họ khóc cho người chết, và bây giờ họ khóc cho bản thân họ và tương lai tâm tối họ đang chờ đợi. Rồi sau một thời gian lâu, sau mọi hỗn loạn, tất cả sự than khóc thế nào đó giảm xuống đôi chút và trật tự được phục hồi một chút, hai cộng đồng quyết định rằng cuối cùng họ nên bàn với nhau. Họ thậm chí chưa hỏi gì cả. Họ quyết định rằng: “Chúng ta phải nói chuyện với nhau, và dời những người còn lại sang cộng đồng kia nhanh chóng trước khi họ đều chết vì bệnh dịch.” Đó là điều họ nghỉ. Cho nên họ bắt đầu thu xếp hành trang, gọi con cái, và gọi xe bò, xe ngựa, bất cứ gì. Và rồi, không bao lâu, từ cả hai bên đường. Toàn thể dân chúng được tản cư. Tựa đề nói đây là cách truyền thống được lập ra: “Sự thành lập một Truyền Thống.” Cho nên bây giờ, thậm chí nhiều thập niên sau, hai con đường, khu phố vẫn còn bị bỏ hoang. Không ai sống ở đó nữa. Và cách đó không xa, có hai ngôi làng có lẽ được sinh ra vì nạn dịch này. Mỗi làng có truyền thống riêng về việc nó bắt đầu thế nào như một sự định cư từ một thị trấn diệt vong, qua cuộc bỏ chạy may mắn vào thời xa xưa khỏi một tai họa không tên. Họ kể câu chuyện này trong truyền thống từ đâu mà họ lập hai ngôi làng. Quý vị thấy, đây là một trong những giáo lý tìm thấy trong quyển sách dạy về sự ẩn dật bí mật trong truyền thống Hồi giáo lâu đời. Họ chỉ muốn cho thấy rằng người ta vô minh đến nỗi họ thậm chí không bận tâm tìm hiểu điều gì gây ra điều gì. Rất khó để lý luận với họ một khi họ đã định ý về điều gì, thậm chí nghe một lời đồn sai, họ vẫn tin vào đó. Và rồi không chỉ một người mà là toàn thị trấn tản cư, người mù dắt người mù. Họ đều ra đi như vậy. Và đó là cách một truyền thống được lập ra, có lẽ giống như nhiều truyền thống khác. Đó là những gì vị Minh Sư muốn nói với chúng ta trong câu chuyện này. Giáo lý này là từ Tộc trưởng Qalander Shah của tông phái Saraswati. Ông qua đời năm 1832, cách đây không lâu lắm, có lẽ một thế kỷ trước. Ông vẫn còn một điện thờ ở Lahore, Pakistan. Có lẽ không phải chuyện thật, nhưng vị Minh Sư là người thật và hiện hữu vào lúc đó, không lâu lắm. Quý vị có thể tưởng tượng? Người mù dắt người mù và cả hai đi bất cứ nơi nào. Cho nên, trong giáo lý này, vị Tộc trưởng muốn nói với chúng ta rằng chúng ta phải phân biệt. Chúng ta phải dùng tâm phân biệt để nhận thức điều gì là thật và điều gì không thật. Chúng ta không thể chỉ nghe từ lời nói trong việc như vậy như thậm chí di chuyển cả thị trấn. Có thể đây là chuyện thật. Rất có thể như vậy. Use own mind to discern the truth, France january 5, 2009 Ngày xưa, vua Ương Già cai trị vương quốc Ương Già, và vua Ma Kiệt Dà cai trị Vương quốc Ma Kiệt Dà. Hai vị vua tranh đấu liên miên với nhau. Đôi khi vua Ương Già thắng, và lúc khác vua Ma Kiệt Dà thắng. Bây giờ, tại một trận chiến, vua Ma Kiệt Dà bị vua Ương Già đánh bại. Ông leo lên ngựa trốn chạy khỏi chiến trường rồi bị quân sĩ của vua Ương Già rượt đuổi. Hai vương quốc được phân ranh giới bởi sông kiêm Ba, không phải Hằng Hà. Dưới dòng sông là một vương quốc rắn, do một xà vương cai trị tên là Kampaya. Vua Ma Kiệt Dà đến dòng sông này và thấy sông bị ngập lụt, không băng qua được. Ông quyết định tốt hơn là bị chết chìm trong dòng sông này hơn là chết trong tay kẻ thù. Cho nên ông nhảy vào dòng nước đang chảy xiết cùng với con ngựa. Dưới đáy sông, xà vương có xây một mái đình bằng ngọc. Và ông ngồi trên ngai uống trà giửa quần thần của ông. Vua Ma Kiệt Dà bị dòng nước kéo xuống và rơi ngay vào giữa mái đình. Xà vương khâm phục sắc thái vương giả của Ma Kiệt Dà và cảm thấy thích ông. Đứng lên từ ngai vàng, xà vương bảo nhà vua ngồi lên đó và hỏi ông làm sao rơi vào dòng sông. Vua Ma Kiệt Dà kể với xà vương câu chuyện buồn bị thua trận. Xà vương nói với ông: “Thưa đại vương, đừng lo gì cả. Tôi sẽ giúp ngài làm vua cả hai vương quốc.” Suốt bẩy ngày, Vua Ma Kiệt Dà lưu lại trong vương quốc rắn, và được tiếp đón vô cùng trọng thể. Sang ngày thứ bẩy, vua và xà vương rời con sông để trở lại nhân gian. Rồi, nhờ quyền năng pháp thuật của xà vương giúp đỡ, vua Ma Kiệt Dà rượt đuổi chiến đấu và giết chết vua Ương Già. Rồi ông lên làm vua của hai vương quốc, và từ đó trở đi, sự liên kết giữa đức vua và xà vương thắt chặt chẻ thân tình. Hàng năm, vua Ma Kiệt Dà thiết lập một mái đình bằng châu báu bên bờ sông Kiếm Ba và tổ chức lễ dâng nạp phẩm vật cho xà vương. Tháp tùng bởi các quần thần, xà vương ra khỏi sông lên đó nhận lễ vật và dân chúng Ma Kiệt Dà được dịp chứng kiến sư huy hoàng của xà vương. Đến tuổi già, xà vương qua đời, và một vị vua khác lên cai trị vương quốc rắn. Vị vua này vừa đạo đức lại sống khắc khổ và không mấy lưu tâm đến cảnh trí rực rỡ, lộng lẫy của triều đình rắn. Không lâu sau, ông nhàm chán cuộc sống phóng túng và thiếu kỷ luật của loài rắn và suy nghĩ: “Ta nên rời cung điện này và lên nhân gian để thực hiện các nguyện ước thiêng liêng thánh thiện của mình.” Đây giả sử là Phật Thích Ca Mâu Ni, không phải con rắn kia, con rắn thứ hai này. Vì vậy, trong những ngày chay tịnh, ông rời khỏi sông và tới nằm trên một tổ kiến cạnh con đường lớn không xa một ngôi làng biên cương. Nhà vua tự phát nguyện: “Nếu có ai thích lấy da của ta, ta sẽ không chống đối, ta sẽ không kháng cự. Nếu có ai muốn biến ta thành con rắn nhảy múa, ta sẽ cho phép họ làm vậy.” Nhiều người đi qua gần con đường để lễ bái xà vương và dâng cúng hương trầm trước Xà Vương. Dân chúng trong làng biên cương biết đó là vua rắn có quyền uy rất lớn cho nên xây một ngôi đền trên tổ kiến nơi ông nằm. Ông không thoát được. Ông bỏ trốn khỏi một cung điện và gặp một cái khác. Mỗi nữa tháng vào ngày mười bốn và rằm, xà vương thực hành lời nguyền và giữ chay tịnh. Và mỗi tháng ngày mồng một, nhà vua trở về cung điện. Rồi thời gian cứ thế trôi qua. Ngày nọ, rắn hoàng hậu Su Ma Na nói với nhà vua, chồng bà: “Thưa bệ hạ, vào những ngày chay tịnh, bệ hạ lên cõi nhân gian để thực hành lời nguyện. Nhưng thế giới trên đó tràn đầy nguy hiểm. Giả sử có chuyện không may xảy ra cho bệ hạ, làm sao thần thiếp biết được?” Xà vương đưa hoàng hậu đến hồ nước may mắn, bảo rằng: “Nếu có ai gây thương tích cho trẫm, nước hồ này sẽ trở thành bùn. Nếu cướp bắt trẫm mang đi, nước hồ sẽ khô cạn. Nếu người dụ rắn bắt trẫm, nước hồ sẽ biến thành màu huyết đỏ.” Sau khi giải thích ba dấu hiệu cho hoàng hậu, xà vương rời cung điện dưới sông Kiếm Ba và trở lại tổ Kiến. Thân hình của vua trông giống cuộn dây vàng ròng. Và lúc vừa nằm ở đó, vẩy của ngài lóng lánh dưới tia nắng mặt trời. Bấy giờ, một thanh niên bà la môn từ thành BA La Nại đến Tắc Xi La học với một danh sư trên thế giới. Từ vị này, chàng học được bùa phép có thể sai khiến mọi sinh vật. Trên đường về nhà, anh đi ngang qua ngôi làng biên cương và nhìn thấy xà vương nằm trên tổ kiến. Anh ta thầm nghĩ: “Ta sẽ bắt con rắn này và luyện tập rắn nhảy múa, rồi ta sẽ mang nó trình diễn khắp xóm làng, phố phường và sẽ kiếm được nhiều tiền.’’ Anh lấy ra vài ngọn cỏ yêu thuật và đọc bùa chú, anh tiến đến gần xà vương. Do ảnh hưởng của pháp thuật xà vương ngẩng đầu lên, nhìn người bà la môn dụ rắn, nhà vua thầm nghĩ: “Ta có thể dễ dàng dùng nọc độc giết tên này, nhưng nếu làm vậy, ta sẽ vi phạm lời nguyện của ta.” Do đó, xà vương hạ thấp đầu và nhắm mắt lại. Người Ba La ôn đến gần cầm đuôi và bắt xà vương bỏ vào trong giỏ rạ. Rồi anh ta mang chiếc giỏ đến làng biên cương và bắt xà vương nhảy múa trước một đám đông người. Mọi người rất thích thú xem rắn biểu diễn và họ ban thưởng người bà là môn 1000 đồng tiền bạc với nhiều phẩm vật trị giá 1000 đồng khác. Người bà là môn dự định phóng thích xà vương sau khi kiếm được 1000 đồng tiền bạc. Nhưng vì thấy kiếm tiền quá dễ, anh ta sanh lòng tham, cho nên muốn giữ con rắn và kiếm thêm tiền trong tương lai. Bây giờ, anh ta nghĩ sẽ kiếm thêm tiền nếu mang con rắn đi biểu diễn trước vua chúa và triều đình, nghĩa là các quan viên của vua. Người bà là môn mua một chiếc xe cho tất cả tài sản của anh và một toa xe khác để anh ngồi. Tháp tùng bởi số đông dân chúng, anh đi qua nhiều thôn xóm phố phường để trình diễn rắn nhảy múa. Anh quyết định cuối cùng mang rắn biểu diễn trước vua Út Ga Xê Na của xứ Ba La Nại. Anh quyết định sau khi biểu diễn cho vua xem, rồi anh sẽ thả con rắn tự do. Người bà là môn thường bắt nhái làm thức ăn cho xà vương nhưng xà vương từ chối không ăn. Rồi người bà la môn cố gắng dụ con rắn với mật ông và bắp rang nhưng vua rắn cũng không ăn gì cả. Xà vương nghỉ: “Nếu ta dùng bất cứ thức ăn gì ta sẽ bị nhốt mãi trong giỏ này cho đến chết.” Một tháng sau, người bà la môn đến thành Ba La Nại. Anh ta trình diễn rắn nhảy múa tại các làng bên ngoài cổng thành và thu được khá nhiều tiền. Nhà vua nghe tin về con rắn lạ biết khiêu vũ, cho nên mời vị bà la môn đến và ra lệnh sắp xếp một cuộc trình diễn. Khắp kinh thành người ta đánh trống để thông báo hôm sau một con rắn sẽ biểu diễn nhảy múa tại nơi sân cung điện và dân chúng trong thành nên tới dự xem. Sân cung điện được trang hoàng và người bà la môn được mời đến trước sự hiện diện của vua. Anh ta mang xà vương trong cái giỏ bằng vàng bạc, trải một tấm thảm màu xuống đất rồi đặt cái giỏ lên đó. Nhà vua ngồi trên ngai vàng giữa đám đông dân chúng. Người bà la môn lấy xà vương ra khỏi giỏ và điều khiển rắn nhảy múa. Nhip điệu lui tới của con rắn trông thật ngoạn mục, khiến khán giả không thể nào đứng yên. Hàng ngàn chiếc khăn tay đưa lên vẫy trên không trung và một trận mưa châu báu rơi xuống quanh xà vương, người ta thật thích xem. Một tháng đã qua. Kể từ ngày xà vương bị bắt và suốt thời gian đó xà vương chưa ăn uống gì. Tại hoàng cung dưới sông Kiếm Ba, hoàng hậu Su Ma Na bắt đầu thắc mắc và lo lắng: “Đã hơn một tháng, phu quân thân yêu của ta chưa trở về. Có điều gì xảy ra cho người chăng?” Cho nên hoàng hậu ra nhìn nơi hồ may mắn và thấy nước đã biến thành màu huyết đỏ. Bây giờ bà biết rằng nhà vua đã bị người dụ rắn bắt đi. Hoàng hậu rời cung điện tìm lên cõi nhân gian, đến nơi tổ kiến. Bà nhìn thấy chổ vua rắn bị bắt nên khóc nức nở. Rồi hoàng hậu đi đến ngôi làng biên cương và hay tin chúa công của bà đã bị đưa về thành Ba La Nại. Ở Ấn Độ, người ta kính trọng chồng và gọi chàng là “ Chúa công,” như thế ông là chúa của bà, chủ nhân của bà. Vì vậy, Chúa công nghĩa là chồng tôi. Người Ấn Độ đối với nhau như vậy. Hoàng hậu đến kinh thành và đi thẳng đến sân cung điện, tại đây bà thấy xà vương đang nhẩy múa làm trò vui chổ đám đông. Bà đứng lơ lửng trên không khóc than thảm thiết. Xà vương đang khiêu vũ, nhìn lên thấy hoàng hậu, cảm thấy hổ thẹn và bò vào giỏ ẩn trốn. Khôi hài chưa, tại sao? Tự ông ta chuốc phiền phức, phải không? Có phải không? Ông ta muốn làm anh hùng, phải không? Một Bồ Tát, một Xà thánh vương. Vậy tại sao ông ta phải thẹn thùng về sứ mạng ông cố gắng hoàn thành? Nhà vua thấy con rắn ngưng múa, bèn lên tiếng: “Tại sao vậy?” Nhìn lên, vua cũng thấy hoàng hậu rắn quanh quẩn trên không. Kinh ngạc trước cảnh tượng đó, ngài hỏi: “Ngươi là ai mà rực rỡ như ánh chớp, và chẳng khác gì ngôi sao sáng? Phải chăng ngươi là nữ thần, bởi ta thấy ngươi không phải là người?” Rắn hoàng hậu trả lời: “Tâu đại vương, tôi không là người hay nữ thần. Tôi là rắn hoàng hậu đến đây với mục đích lớn.” “Ngươi đang khóc và có vẻ đầy sự giận dữ. Hãy nói cho ta biết tại sao hoàng hậu lại đến đây?” “Thưa bệ hạ, con rắn múa trước mặt ngài đã bị người ta bắt để thu lợi. Rắn là chồng của tôi, và tôi đến để xin cho chồng tôi được thả ra.” Nhà vua hỏi: “Làm sao một người ốm yếu này bắt được rắn có sức mạnh như vậy? Kể cho trẫm nghe, hoàng hậu, chuyện xảy ra thế nào?” “Tâu đại vương, con rắn này rất mạnh, có thể thiêu đốt kinh thành nầy ra tro bụi. Nhưng ông đã tự nạp mình cho người ta bắt vì muốn giữ trọn lời nguyện đã phát.” “Và làm sao người này bắt được ông?” “Vào ngày chay tịnh, vua rắn thường nằm bên đại lộ. Người dụ rắn đã bắt ông tại đó. Ông ta là vua của 16.000 con rắn đang sống dưới sông Kiếm Ba. Hãy giúp cho ông được tự do, thưa đại vương. Xin ngài mua lại sự tự do từ người này, bằng tiền vàng, 100 con bò và một ngôi làng. Xin làm việc phúc đức này, thưa đại vương.” Nhà vua bằng lòng cho xà vương được trả tự do, và quay sang người bà la môn, vua nói với anh ta: “Trẫm sẽ mua sự phóng thích cho vua rắn. Trẫm sẽ ban cho ngươi châu báu, hoa tai và 100 đồng tiền vàng. Ta sẽ ban cho ngươi một chiếc ngai có nệm gối rất đẹp, ngoài 100 con bò, hai người vợ cùng tuổi với ngươi, cùng giai cấp.” Bây giờ, nhà vua ban cho người bà la môn nhiều vàng bạc quà tặng, và thê thiếp để mua sự tự do cho con rắn. Nhưng người bà la môn đáp lời vua: “Thần không muốn quà tặng, thưa hoàng thượng. Thần sẽ tự ý thả con rắn này.” Rồi anh ta lấy xà vương ra khỏi giỏ, xà vương bò vào trong một đóa hoa, và do trải qua nhiều khổ cực ông đã chịu đựng, rắn giờ đây có thể thoát kiếp lầm than bò sát và biến thành hình thể một thanh niên trẻ đẹp. Hoàng hậu rắn Su Ma Na từ không trung đi xuống và đứng bên cạnh chồng. Xà vương kính cẩn cúi đầu chào vua Út Ga Xê Na: “Thưa đại vương, tôi xin bày tỏ lòng tôn kính và hoàn toàn biết ơn ngài. Giờ đây một lần nữa tôi được trả tự do, tôi sẽ trở về cung điện của tôi.” “Cung điện ngài ở đâu, nầy xà vương? Tôi muốn viếng thăm. Xà vương đáp: “Ngài đã giúp tôi được tự do, thưa đại vương. Để trả ơn, tôi và thần dân nước tôi sẽ hết lòng phục vụ ngài. Hãy cùng tôi đến thăm xứ sở của tôi.” Tha thiết viếng thế giới rắn, vua Út Ga Xê Na truyền lệnh người đánh xe: “Hãy chuẩn bị sẵn sàng các cổ xe hoàng gia và buộc vào đó những con la. Hãy mang ra những con voi được trang hoàng rực rỡ vì chúng ta sẽ đi thăm vương quốc của loài rắn.” Trống lớn vang lên, trong nhỏ đánh lên, tù và được thổi, chiêng khánh khua vang. Khi vua Út Ga Xê Na và xà vương cùng với số đông quần thần theo sau rời khỏi kinh thành. Bằng quyền phép, xà vương dựng lên một bức thành làm bằng bảy loại quý kim quanh vương quốc dưới nước, và con đường dẫn tới cung điện được trang hoàng đẹp đẽ. Khi vua Út Ga Xê Na vào đến thế giới của loài rắn, ông trông thấy một quang cảnh vô cùng lộng lẫy. Lòng sông được bao bọc với cát vàng và xung quanh là san hô màu đỏ chói sáng. Mỗi góc đường có một tòa tháp bằng vàng. Cung điện của xà vương được che bóng mát bởi ngàn cây và chiếu ánh sáng vô hình rực rỡ. Khi vua Út Ga Xê Na bước vào hoàng cung, mùi thơm cửa hàng ngàn nước hoa khác nhau ngào ngạt không gian, đàn thụ cầm tấu lên những điệu nhạc êm dịu, và các thiếu nữ rắn múa hát trong đại điện. Nhà vua ngồi trên chiếc ngai vàng có lót gối lụa mềm, được ướp mùi hương gổ chiên đàn. Người ta mang đến cho vua thức ăn, thức uống tuyệt hảo. Suốt 7 ngày, vua Út Ga Xê Na và các triều thần được xà vương tiếp đãi niềm nở. Vô cùng ngạc nhiên trước sự giàu sang vô cùng của vương quốc loài rắn, đức vua nói với xà vương: “Thưa đại vương, tại sao ngài lại từ bỏ mọi sự huy hoàng ở đây để lên thế giới của tôi, và nằm nơi tổ kiến? Ngài có những lâu đài to lớn và hồ cá sâu rộng đẹp đẻ hơn ở trần thế. Nhiều loại cò, công, tu hú, và những hoa kèn mọc khắp nơi trong vương quốc của ngài. Mọi thứ ở đây đều tuyệt hảo hơn cõi nhân gian, thế mà ngài lại rời bỏ tất cả. Tại sao?” Xà vương đáp: “Tôi tìm đến thế giới của ngài, thưa đại vương, vì tôi rất muốn tái sinh làm người.” Cho nên con người quý hơn tất cả châu báu và cảnh trí đẹp đẻ nầy. Hãy nhớ đặc quyền của mình và tận dụng thời giờ của mình. Nhà vua tiếp tục hỏi ông: “Thưa xà vương, ngài có nhiều uy lực và quyền phép, xin cho tôi biết, điều gì ở nhân gian chúng tôi tốt hơn thế giới của ngài?” Xà vương đáp: “Sự tự chủ và giữ tâm thanh tịnh chỉ có thể thực hiện ở thế giới loài người.” Có nghe không? Đó là điều tôi đang mong cầu. Thế nên đức vua nói: "Tôi khâm phục trí huệ của ngài, đại xà vương. Tư tưởng của ngài thật cao quý. Tôi sẽ noi theo gương ngài và cố gắng làm các việc lành. Tôi đã ở đây khá lâu, và bây giờ đến lúc tôi xin cáo từ.” Xà vương chỉ vào những kho tàng châu báu của ông và nói với vua Út Ga Xê Na: “Hãy lấy những gì ngài ưa thích nơi đây. Tôi có vô số vàng, và những đống bạc cao bằng ngọn cây, hãy lấy về để xây tường bằng bạc, và nhà bằng vàng ở vương quốc ngài. Tôi có 5.000 rương chứa đầy ngọc trai và san hô, hãy lấy chúng về trải khắp mặt đất trong hoàng cung. Hãy xây các lâu dài lớn trong thành của ngài, thưa đại vương. Thành Ba La Nại sẽ giàu có. Hãy cai trị dân chúng ngài sáng suốt và nhân từ.” Vua Út Ga Xê Na chấp thuận nghe theo lời khuyên dặn của xà vương và từ biệt ông ta. Với hàng trăm cổ xe chở đầy châu báu. Giữa cảnh tưng bừng tiễn đưa, nhà vua rời vương quốc loài rắn để trở về thành Ba LA Nại. Có điều gì quý vị muốn biết không? Có điều gì không rõ ràng không? Mọi sự điều rõ ràng? Tôi nghĩ câu chuyện này chỉ để cho quý vị thấy rằng để thành Phật, một chúng sinh phải trải qua rất nhiều, rất nhiều huấn luyện, rất nhiều kỷ luật, rất nhiều bài học từ bi trước khi họ đến được giai đoạn toàn thiện và toàn mỷ bên trong mình. Để có được trí huệ viên mãn, kiến thức vẹn toàn về mọi việc, và hoàn toàn từ bi khoan hồng, và nhân ái, chúng ta phải trải qua nhiều thử thách và khảo nghiệm và tình nguyện hy sinh để trở thành một chúng sinh cao thượng như Đức Phật. Tôi chúc tất cả quý vị sẽ trở thành như vậy. The Reincarnations of Shakyamuni Buddha P2 5 May 16, 1996 Cambodia Bây giờ tôi kể quý vị nghe câu chuyện về người hầu thích cầu nguyện. Đó là từ Rumi, tất cả tuyển tập thơ của ông đều hay. Bình minh, một số người giàu muốn đi tắm hơi. Quý vị biết tắm hơi là gì không? Gọi là nhà tắm hơi. Quý vị đến đó, họ cho hơi nóng vào gian phòng, quý vị chỉ đứng trong đó và mồ hôi đổ ra. Hoặc có thể họ chỉ tắm nước nóng, như tấm kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc nhà tắm của Nhựt. Giống như một hồ bơi, nhưng nóng và rồi mọi người đến đó, tắm trước, nhảy vào, cũng như hồ bơi. Mọi quốc gia có loại tương tự này nhưng nhà tắm hơi có chút khác biệt. Bình minh đến, có người nhà giàu muốn đi nhà tắm hơi. Ông đánh thức người hầu Sunqur, nói: "Nầy, đi mau. Lấy cái chậu và khăn và đất sét để tắm rửa và hãy đi tắm." Cho nên, Sunqur lập tức thu thập những thứ cần thiết, và họ cùng đi ra xuống con đường. Khi họ đi qua đền thờ, tiếng cầu nguyện vang lên. Họ có thời gian nhất định để cầu nguyện, hiểu không? Người Hồi giáo cầu nguyện mỗi ngày năm lần. Cho nên vào lúc bình minh, đó là một lần cầu nguyện, có lẽ lần cầu nguyện đầu tiên trong ngày, và tiếng cầu nguyện vang lên. Sunqur thích việc cầu nguyện năm lần này. Cho nên anh ta nói với chủ: "Ông chủ, xin vui lòng nghĩ trên ghế này một lát, để tôi có thể niệm kinh Sura 98, bắt đầu thế này: 'Người đối đãi với nô lệ với lòng tử tế.'" Vì vậy ông ta ngồi trên ghế dài bên ngoài trong khi Sunqur vào trong. Buổi cầu nguyện tàn, các tu sĩ và tất cả tín đồ ra về, nhưng Sunqur vẫn còn bên trong. Cho nên người chủ chờ và chờ, và chờ. Cuối cùng, ông kêu lớn vào trong đền: "Sunqur, sao còn chưa ra?" Sunqur nói: "Tôi không thể. Tôi không biết làm sao. Người thông minh này không để cho tôi đi. Xin có chút kiên nhẫn. Tôi có nghe ông ngoài đó." Chủ nhân gọi bảy lần, bảy lần ông ta chờ. Và rồi ông lại kêu lớn. Và lời đáp của Sunqur luôn giống nhau: "Chưa được. Ông ta chưa để tôi ra." Người chủ nói: "Nhưng không ai trong đó, ngoại trừ ngươi. Mọi người khác đã về rồi. Ai khiến ngươi ngồi yên lâu như vậy?" Người hầu nói: "Người giữ tôi trong đây cũng là người giữ ông ngoài đó. Cùng một người không cho ông vào, là người không cho tôi ra." Bây giờ, có lời chú thích của tác giả như thế nầy: "Đại dương sẽ không cho phép cá ra khỏi nó. Cũng không để thú vật trên cạn vào nơi có cá bé nhỏ mỏng manh sinh sống." Thú vật trên cạn không thể vào, có thể sẽ tiêu diệt cá mềm mại, hoặc cũng tự mình chết chìm. "Động vật trên cạn đi rộn rịp trên mặt đất. Không có sự khéo léo nào thay đổi được điều này. Chỉ có một chìa khóa cho ổ khóa của những vấn đề này. Hãy quên suy nghĩ của quý vị. Quên đi bản thân quý vị. Lắng nghe người bạn. Khi quý vị có thể hoàn toàn thuần phục vị đó, Quý vị sẽ được giải thoát." Câu chuyện hay. Ngoại trừ chúng ta không phải là chủ trong đó. Câu truyện thật sự có tiết lộ một số điều. Tôi tưởng mọi người ở vùng đó nhất định đều là người Hồi giáo, nhưng người chủ này có lẽ không phải. Ông ngồi cạnh đền thờ, nhưng không vào. Người hầu là người vô cùng ngoan đạo. Và khi ở bên trong, có lẽ anh ta quá an vui với Chúa nên thậm chí dám trả lời với người chủ, nói: "Tôi vẫn còn bận." Và tranh cãi với ông: "Người giữ tôi trong này là người giữ ông ngoài đó." Có lẽ ý anh ta nói giống như loài cá và loài thú. Làm sao thú vật trên cạn có thể vào đại dương để chơi với loài cá, hoặc làm cùng thứ như cá được? Đó có thể là hai thể loại khác nhau hoàn toàn. Đây là thời xưa khi hệ thống người hầu vẫn còn rất nổi tiếng và mạnh mẽ, phần nhiều người hầu sẽ không bao giờ không vâng lời chủ. Bằng không anh ta có thể bị trừng phạt hoặc bị bán đi nơi khác hay gì đó, thậm chí vào tù. Và người hầu nầy, vì niềm tin của anh ta nơi Allah vô cùng mạnh mẽ đến nỗi anh ta không màng. Khi anh ta ở trong đền thờ, anh ta toạ thiền nơi đó. Và có lẽ anh ta cảm thấy thật vui sướng, thật câu thông với Chúa, anh ta có thể đồng nhất thể với Chúa, và anh ta hiểu được. Cho nên anh ta trở thành như không sợ. Và đó là lực lượng của Thượng Đế, khi câu thông được với lực lượng đó, thì không sợ gì cả. Cho nên giống như điều tôi đã chỉ cho quý vị. Lực lượng của Thượng Đế, qua Ánh sáng và Âm thanh, đó là đại biểu của Thượng Đế ở mức độ khác. Giống như chân, đầu gối, bao tử, cổ họng, gương mặt của quý vị, đó toàn là của quý vị. Chỉ ở mức độ khác. Cho nên khi quý vị nghe Âm thanh khác và thấy Ánh sáng khác, có thể từ cảnh giới thấp hơn, thì đó chỉ là chân của Chúa. Phần bên dưới, nhưng đó là một phần của Chúa và rồi quý vị lên, lên, lên và rồi quý vị sẽ thấy toàn bộ hình ảnh. Bây giờ, Ánh sáng và Âm thanh ngự trong quý vị, và đó là quý vị. Đó là quý vị đang lắng nghe Tự Tánh và quý vị liễu ngộ Tự Tánh. Càng biết thêm về Ánh sáng và Âm thanh nầy, quý vị càng biết được phẩm chất của Thượng Đế bên trong, sẽ càng tách rời khỏi nhục thể, và tất cả những điều thuộc về nó và do nó gây nên. - Con xin được hỏi một điểm. Tại sao lại bảy lần? - Hơn bảy lần. Có lẽ chỉ bảy lần, chỉ tình cờ, không liên quan đến bao nhiêu lần. Ý nghĩa của nó là anh ta cứ nhiều lần từ khước người chủ, chỉ để nói lên rằng anh ta đang ở trong sự cầu nguyện rất sâu. Anh ta quá thích được đồng nhất thể với Thượng Đế đến nỗi bất chấp rằng chủ nhân đang chờ bên ngoài. Trong bài thơ của Rumi, ông dùng đó như một lý do để phổ thơ, như một chuyện ngụ ngôn. Nói rằng dầu và nước không trộn lẩn, ngay cả người nô lệ bị thu hút vào sự cầu nguyện và đồng nhất về Thượng Đế, và người có thật nhiều tiền mà không thể dành thời giờ và thậm chí không bước vào. Vì một số người không được tạo ra như vậy. Bất kể là sao, dù họ ngồi cạnh bên đền thờ, nó không ảnh hưởng họ gì cả. Và người nô lệ phải ở trong đó, nếu không anh không sống nổi. Một khi ở bên trong, không phải chỉ vì anh ta thích cầu nguyện, mà có thể vì anh ta quá câu thông với Allah cho nên không đành rời xa sự câu thông đó và đi vào đó chỉ để lấy chiếc khăn cho một phàm nhân. Không phải anh cố làm vậy để chúng mình rằng anh tốt, ngoan đạo, cứng cỏi, hay can đảm, đại khái vậy, anh ta chỉ câu thông rất sâu. Có lẽ anh ta tọa thiền rất tốt trong lúc đó, cho nên chỉ có thể trả lời thậm chí không thể di động thân thể. Có thể chân anh ta đã hết cảm giác rồi. Cho nên nó xảy ra như vậy, rằng anh ta đang ngồi trong cầu nguyện. Anh ta nhập định đã sâu, cho nên đầu gối và chân nhượng bộ, không đứng lên được. Vì vậy anh ta nói: "Người thông minh này không để tôi đi." Có lẽ vì anh ta nhập định quá sâu, nên chưa thể di động thân thể. Anh ta không cố ý làm vậy. Chỉ khi quý vị đã từng nhập định như vậy, thì mới hiểu tôi đang nói gì. Một số quý vị có, phải không? Đến một mức nào đó. Đôi khi phân nửa thân thể bị tê, đôi khi toàn thân. Quý vị có thể thấy, có thể nghe, có thể nói, nhưng không thể khôi phục sự chủ động thân thể nhanh được. Cho nên anh ta nhất định đang nhập định, đang trong trạng thái nhập định sâu, vì không phải người Hồi giáo nào cũng là tín đồ bình thường. Một số có thể là Minh Sư, hoặc một số ngay cả trong hình dáng nô lệ, có thể anh ta đã đi vào cảnh giới tâm thức rất cao bởi vì anh ta đã thọ Tâm Ấn bởi đạo sĩ Sufi khai ngộ nào đó. Giữa chúng ta cũng có một số quý vị có địa vị khác nhau trong xã hội, và đôi khi làm việc như thư ký hoặc thậm chí người quét dọn trong khách sạn hay bất cứ gì. Nhưng quý vị ở đẳng cấp cao và thậm chí không ai biết. Quý vị thật sự đạo đức và có đạo đức cao. Và quý vị được thăng hoa trong sự huy hoàng tâm linh. Không ai biết được. Bởi vì người thật của quý vị không phải là người lau sàn nhà. Người thật của quý vị không phải là người đánh máy vi tính mỗi ngày. Đó không thật là quý vị. Nên người nô lệ này có thể đã ở cảnh giới tâm linh rất cao, nhưng người chủ sẽ không bao giờ biết được. Tôi chắc ông đó đối với anh ta như nô lệ mỗi ngày và anh ta không để tâm điều đó. Anh ta không để tâm mình bị đối đãi thế nào, vì anh biết giá trị của mình. Tôi chắc là anh ta thậm chí giấu cả chủ nhân. Chỉ là vào lúc đó, thế nào đó, không dự tính như vậy. Có lẽ anh ta vào đó nhập định thật sâu trong thiền định và không di động được. Tôi chắc là anh ta không cố ý làm vậy, cố làm chủ nhân bực mình không có lý do. Và có lẽ đây không phải lần đầu anh ta đến đền thờ. Chỉ tình cờ ngày đó chủ nhân anh biết được, vì họ đi cùng với nhau đến nhà tắm hơi. Xem anh chàng này, chỉ là nô lệ mà thật can đảm. Cho nên mọi người nên học từ anh ta. Thời đó, người hầu không là gì cả, chủ nhân có thể giết, bán đi, trừng phạt bất cứ cách nào họ muốn. Họ đối đãi với người hầu thời đó như là món đồ, như một sở vật, một tờ giấy hoặc đôi giày, quần áo hoặc có khi còn thấp hơn. Họ không dám làm hư hại quần áo vì họ muốn mặc nhưng đôi khi họ lại đánh đập người hầu, đối xử rất tệ và bạc đãi với họ. Cho nên, đối với người đó, can đảm như vậy và trả lời qua lại với chủ nhân bảy lần như vậy, đây thật sự là điều gì đó đã đánh thức anh ta. Cho nên, nếu mọi người trên đời có sự can đảm nầy, tôi nghĩ chúng ta đều có thể trở thành người ăn chay và địa cầu sẽ được cứu vãn. BMD 810 Một ngày, ngay trước khi Ốc Sên Vàng chết, nhiều ốc đệ tử, những đệ tử, ốc bạc đến quanh quân vương, giường bệnh của Ốc Sên Vàng, chỉ để tán thán và nói lời từ giả và đưa tiễn lần cuối. Cho nên, nhiều đệ tử ốc bạc nói nhiều lời tán thán như là: “Chúng ta chưa bao giờ thấy một ốc sên đẹp, huy hoàng như vậy trước đây.” Và con khác nói: “Đúng, đúng, đúng.” Và rồi con khác có một phát biểu huy hoàng hơn, như: “Chúng ta chưa bao giờ có một ốc sên trí huệ như vậy cả đời mình.” Và những con khác nói: “Phải, phải, phải, phải.” Và một con khác sẽ nói: “Một ốc sên từ bi như vậy chúng ta không bao giờ có thể tìm thấy trên đời này.” Và những con khác cũng nói: “Phải, phải, phải. Dĩ nhiên, chỉ có Ốc Sên Vàng vô thuợng mới từ bi được như vậy.’’ Và rồi con khác nói: “Các vị biết gì không? Tôi nghĩ Ốc Sên Vàng vô thượng của chúng ta là vị duy nhất có thể câu thông Thượng Đế trong một kiếp và thậm chí cho chúng ta cơ hội để làm vậy.” Rồi mọi người vỗ tay tán thưởng và hoan hô và mọi điều. Sau đó Ốc Sên Vàng lẽ ra rất áy này và cảm thấy không yên. Rồi ốc trợ lý, có màu giữa bạc và vàng và có hai râu, có chút ngắn hơn râu của con gọi là Ốc Sên Vàng vô thượng. Ốc trợ lý hỏi ốc Sên Vàng với hai râu dài hơn, nói: “Thưa thầy, điều gì khiến cho thầy cảm thấy áy nảy vậy? Con cảm thấy thầy không yên lắm. Thầy có nghe những lời tán thán của các đệ tử đó không?’’ Bởi vì nó biết rằng vị Thầy Ốc Sên Vàng thích nghe lời khen tặng và tán thưởng, vỗ tay và những điều như vậy. Vị thầy giữ im lặng một lúc rồi con ốc cứ hỏi dồn. Ốc thị giả hỏi: “Thưa thầy, thầy không nghe tiếng tán thán của các đệ tử sao? Họ nói thầy là từ bi, trí huệ, thông minh, xinh đẹp, huy hoàng, giác ngộ Thượng Đế, và thầy là vị duy nhất trên toàn thế giới của Ốc Sên thật là vĩ đại.” Thế nên ốc thầy nói: “Làm sao? Ta thật khiêm tốn như vậy. Ho thậm chí không nhắc đến một lần.” Và đó là lý do vị thầy không yên. Là vì điều đó, khiêm tốn. Được rồi, tôi đã chọn một truyện cho quý vị tối qua. Ngày nọ, đệ tử vô thượng của Ốc Sên vô thượng sư kiên trì quấy rầy Thường Đế để được quả vị thầy. Ốc cứ nói với Thượng Đế: “Ôi, Thượng Đế, nhìn xem. Ngài là đấng toàn năng và không có gì Ngài không làm được. Xin ban cho con quả vị thầy, bằng cấp thầy, về tâm linh. Con tu hành đã nhiều năm rồi. Con đã trường chay nhiều năm và luôn cầu nguyện. Con thức dậy 4 giờ rưỡi sáng mỗi ngày và tọa thiền cho đến 7 giờ rưỡi. Và rồi tối đến, khi vừa về đến nhà, con ăn uống, tắm rửa, và tọa thiền ngay lập tức từ 9 đến 12 giờ. Rồi con đi ngủ, và rồi lại thức dậy lúc 4 giờ rưỡi và tọa thiền và … đi làm và rồi trở về và lại tọa thiền và … ngủ và sáng hôm sau thức dậy và lại tọa thiền nữa và tiếp tục.” Ôi, Thượng Đế, ôi Chúa Trời. (Thượng Đế đã mệt rồi.) Phải, Phải. Thường Để nói: “Ta đã mệt nghe về sự tinh tấn của ngươi.’’ Cho nên Thượng Đế nói: “Bây giờ, người muốn gì? Nhưng xin lỗi, mọi điều nầy không ban cho ngươi danh hiệu Minh Sư. Chưa. Sao ngươi không cứ cố gắng, nhìn nó theo một cách khác?’’ Và Thượng Đế sẽ không nói với ốc bởi vì đó vốn là một bí mật của vũ trụ và mình phải tự tìm ra. Cho nên, anh chàng ốc bực tức sau khi quấy rầy Ngài suốt mấy tuần lễ và Thượng Đế không di động. Về mặt đó ngài dường như là một Thượng Đế rất vô lý. Cho nên, một ngày nọ, anh ta cứ thúc ép Thượng Đế lần nữa để ban cho ít nhất là, thời gian tập sự làm thầy, sáu tháng tập sự. Bởi gì mỗi lần trên thế gian, nếu nhận bất cứ việc làm gì quý vị phải có thời gian tập sự, phải không? Ít nhất là sáu tháng hay ba tháng, rồi đôi bên sẽ hiểu nếu người đó có thích hợp hay không. Nhưng Thượng Đế nói: “Không, không. Ta có việc khác tốt hơn cho ngươi. Sao ngươi không chỉ tuyên bố với thế gian rằng Ta đã ban cho ngươi quả vị thầy, nhưng ngươi từ khước? Như vậy cao thượng hơn.” Thượng Đế thật khôn khéo. Ngài không muốn làm ốc tổn thương mà Ngài cho anh ta điều gì đó thậm chí tốt hơn. Có một vị Minh sư khác, khi bà sanh ra làm con ốc sên vàng. Khi ốc thầy ngồi đó với các đệ tử một ngày, cùng với ốc sên bạc, ốc sên đồng, ốc sên kim loại, ốc sên nhôm. Có đủ loại, ốc sên tùy theo sự phát triển bên trong. Họ nói chuyện giữa bữa ăn trưa. Ốc thầy gọi họ đến ăn trưa. Và bỗng nhiên, có một trận động đất, rất, rất, rất dữ dội, 9.9 độ, do đó tất cả ốc sên vội chạy nhanh hết sức của ốc, đó đây, lên xuống, vào ra. Họ cứ đụng vào bàn và đụng vào kính, cửa và tất cả. Rất hỗn loạn. Và nhà của ốc sên đang rung chuyển thế nầy, và tất cả râu của họ kiểu như xoắn lại với nhau và tình trạng rất hỗn loạn. Và trận động đất kéo dài khoảng ba phút, trong trường hợp này. Và rồi, sau khi trận động đất kết thúc, mọi người trở lại ghế ngồi và: “Cảm ơn Thượng Đế, đã hết rồi!’’ Và Ốc Sên Vô Thượng Sư ngồi đó với râu vểnh cao, họ không có mũi, quý vị biết, ốc sên không có mũi, chỉ có râu, ốc thầy vểnh hai râu lên, râu rất dài, rất dài và to đưa lên trời, im lặng một lúc. Cho đến khi các đệ tử không chịu nổi nữa và hỏi vị thầy: “Việc gì vậy?” Bởi vì họ biết mỗi lần vị thầy vểnh râu vàng lên như vậy, là ốc thầy sắp tuyên bố một điều trọng đại, hay một bài giảng thâm thuý, hay đại khái vậy, và làm sao để thành Phật trong một giây, những chuyện như vậy. Cho nên, họ vô cùng hồi hộp và mong đợi. Nhưng vị thầy cứ vênh râu lên và không nói gì cả. Cuối cùng, ốc thị giả nữa vàng nửa bạc nói: “Xin vui lòng, xin từ bi, thưa thầy, và xin cho biết thầy đang nghĩ điều gì to lớn trong đầu hiện giờ. Đừng do dự thêm nữa vì tất cả chúng sinh đều khao khát Chân Lý.” Vì vậy, vị thầy từ từ hạ râu xuống đẳng cấp tâm thức bình thường để tất cả đệ tử có thể hiểu. Bởi vì nếu râu cao quá, tôi nghĩ những con ốc sên phàm phu không thể nào bắt kịp. Cho nên bây giờ, ốc thầy hạ râu xuống đến đây, như thế này, và nói: “Các người không thấy ta rất bình tĩnh suốt trận động đất sao?’’ Tất cả ốc sên nói: “Ồ, dạ phải, thưa thầy, phải.” Và rồi vị thầy tiếp tục nói thêm sau khi ngừng một lát, để người ta quý trọng hơn: “Các ngươi có thấy rằng ta không chạy đó đây như tất cả các ngươi sao?” Và rồi tất cả đệ tử nói: “Dỉ nhiên, dĩ nhiên.” Và tất cả râu của họ vỗ với nhau đồng nhịp để tán thán vị thầy. Bây giờ ốc thầy nói: “Các ngươi có thấy ta bình thản ngồi đây hớp trà trong khi các ngươi chạy đó đây như vậy không?” Các đệ tử nói: “Dạ phải, chúng con thấy thầy bình thản ngồi đây uống. Nhưng nước thầy uống là nước tương, không phải nước trà.” Tiếc quá, sai tách. Ốc thầy quá bình tĩnh, không để ý thấy sự khác biệt. Quý vị hiểu không? Đó là điều gọi là ngã chấp làm thầy. Có ngã chấp của trò, và ngã chấp của thầy. Cho nên, khi quý vị đạt được quả vị thầy, quý vị có lẽ sẽ được ban thưởng ngã chấp làm thầy, được chứ? The Reincarnations of Shakyamuni Buddha P1 May 16, 1996 Cambodia Có bốn thầy tu Hồi giáo gặp nhau theo truyền thống Hồi giáo. Họ gặp nhau và quyết định sẽ đi khắp nơi, đến mọi nơi trên thế giới để tìm pháp thuật. Món gì đó hay vật gì đó, để họ có thể dùng để giúp đỡ nhân loại. Họ nghĩ rằng họ đã học mọi điều cần học. Và họ nghĩ nếu tìm được những thứ này, đồng thời cũng kết hợp lại với kiến thức của họ thì họ sẽ có thể phụng sự nhân loại cách tốt nhất. Cho nên, họ sắp xếp cho mỗi người phải đi một hướng khác nhau và rồi họ sẽ gặp nhau, có lẽ là hai thập niên sau. À, nếu họ vẫn còn sống. Những người nầy vô cùng lạc quan. Rồi sau hơn hai thập niên, họ gặp lại nhau tại một nơi định trước. Có lẽ nơi họ đã chia tay trước kia. Và người đầu tiên trong bốn người đã mang về với ông từ nơi rất xa, từ vùng phái bắc của địa cầu một cây gậy thần, như cây này, có lẽ vậy. Ai cưỡi lên nó có thể tới điểm đích ngay lập tức. Đó là một công cụ rất tốt. Tôi ước tôi có một cây. Bây giờ, vị thầy tu thứ hai, mang về với ông chiếc mũ thần. Bất cứ ai đội lên đầu có thể lập tức thay đổi diện mạo tương tự như người nào đó. Người thứ ba, mang về với ông sau chuyến du hành rất xa xôi ở miền Đông, một gương thần. Tấm gương này rất đặc biệt. Người nào nhìn vào đó có thể thấy khắp nơi trên thế giới. Thầy tu Hồi giáo thứ tư, mang về với ông từ tận nam cực của địa cầu một ly thần. bất cứ bệnh gì cũng chữa được bằng ly thần này. Cho nên bây giờ bốn thầy tu, họ giờ đây rất tự tin với tất cả dụng cụ thần thông nầy. Trước nhất, họ lấy tấm gương ra xem nguồn sinh thủy ở đâu để họ có thể tìm nó trước, để họ có thể sống đủ lâu để dùng những công cụ thần thông khác. Nguồn sinh thủy, quý vị biết tìm đâu ra không? Ai cũng có. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều hơn, hoặc chúng ta có thể tìm thấy ít hơn tùy có bao nhiêu trở ngại mà chúng ta gặp phải từ đầu óc. Quá nhiều trở ngại từ đầu óc làm chúng ta chậm lại và trì hoãn sự tiến bộ của mình. Ngồi đó và suy nghĩ: "Làm sao kiếm tiền ngày mai nhiều hơn hôm nay?" Và "làm sao cho người bạn gái thương mình hơn hôm qua." v.v. Những điều này cũng được. Đây là những điều thích thú để suy nghĩ. Nhưng cũng có những điều khác không thích thú nhiều như vậy gây cho chúng ta quá nhiều phiền phức, buồn rầu, đau đớn, khổ não, chia cách, lo lắng, mọi thứ trên đời này thật sự tìm cách kéo chúng ta xuống và khiến chúng ta kiệt sức, suy nghĩ về giải pháp đến nỗi đôi khi chúng ta không thể thậm chí tập trung để tìm nguồn sinh thủy. Nhưng chúng ta phải tìm nó, bằng không chẳng những không giải quyết được vấn đề mà càng đau khổ hơn. Do đó thiền không phải là vì Thượng Đế, Minh Sư, hay thậm chí chưa vì thế giới. Trước tiên, vì bản thân quý vị, bởi vì không có nó, không có nước, chúng ta chết vì khát, không có nguồn sinh thủy, chúng ta khổ, chết bên trong. Chúng ta chết quá nhiều nên cứ chết và chết và chết. Và đây là hoàn cảnh rất bi thảm nếu chúng ta không có nguồn sinh thủy. Nếu chúng ta không tìm được trí huệ của mình đủ thì chúng ta sẽ đau khổ nhiều. Có phải vậy không? Bây giờ, họ đã tìm được nguồn sự sống. Họ bay đi bằng cây gậy thần với nhau. Thấy không, họ đến nơi trong tích tắc với gậy thần. Và họ uống nước. Và rồi họ niệm vài câu chú gì đó để xem ai cần họ phụng sự nhiều nhất lúc đó, ai gặp hoạn nạn nhất. Ai cần sự giúp đỡ của họ nhất. Thế là, họ nhìn vào gương. Họ thấy một người sắp chết. Anh ta sống rất xa nơi họ đứng. Nhưng không sao, họ có gậy thần. Vừa leo lên cây gậy thần và rồi trong tích tắc, chỉ tức thì họ lập tức đến nhà của người cần giúp. Một ông ra mở cửa, nhưng không phải người bệnh, và bốn vị thầy tu Hồi giáo nói với người giữ cửa: "Chúng tôi là những người trị bệnh rất nổi tiếng thần kỳ. Chủ nhà của quý vị đang bệnh, chúng tôi hiểu. Chúng tôi muốn vào chữa cho ông ta." Dĩ nhiên, người chủ nhà nghe vậy cho nên mời họ vào. Nhưng ngay khi ông nầy thấy bốn vị thầy tu. Bệnh của ông trở nặng hơn, như thể bị đột quị hay co giật. Cho nên ông lập tức ra lệnh cho người hầu đuổi họ ra. Ai mà không vậy? Trong lúc bị đuổi ra người hầu giải thích với 4 nhà sư rằng người bệnh, người chủ nhà không thích người Hồi giáo. Ông ta ghét thầy tu Hồi giáo. Cho nên bây giờ họ ra ngoài, đội nón lên đầu để họ biến thành hình dáng khác, bốn người chữa bệnh hoàn toàn khác để bệnh nhân sẽ cảm thấy dễ chịu và an ổn hơn và chấp nhận sự có mặt của họ. Cho nên dĩ nhiên, khi họ đi vào trong hình dáng khác, và bốn người khác hoàn toàn, không có gì liên quan đến bốn người Hồi giáo đã bị đuổi ra và người đó chấp nhận họ, tin cậy họ, bởi vì họ xuất hiện trong hình dáng mà bệnh nhân có thể tin cậy. Có lẽ là cùng tôn giáo, có lẽ cùng giai cấp xã hội, quần áo giống nhau, có lẽ đầu tóc giống nhau, hay ngay cả giày cao bằng nhau. Ai biết được. Hoặc cùng cây dù. Cho nên người chủ nhà, ấy là bệnh nhân, chấp nhận họ, tin tưởng họ, bởi vì họ trông giống như những gì ông mong đợi, và trong giống những người ông đã quen thuộc hay tin cậy. Trông giống những người đáng tin cậy. Cho nên ông nhận thuốc của họ. Và ngay khi ông uống thứ gì đó từ ly thần nầy, ông cảm thấy khoẻ hơn bao giờ hết, chưa bao giờ cảm thấy khỏe như vậy trong đời. Bây giờ, vị chủ nhà, bệnh nhân, là người rất giàu có. Sau khi hết bệnh ông thưởng công cho họ một căn nhà tuyệt đẹp để họ có thể sống ổn định. Thế là, họ tiếp tục ở trong nhà này, và mỗi ngày họ đi đến những nơi khác nhau trị bệnh cho người ta, giúp đỡ người ta bất cứ ai cần đến và bất cứ ai tiếp nhận họ. Và trong cách này, họ phụng sự nhân loại tại những nơi khác nhau. Một ngày, ba vị thầy tu Hồi giáo đi ra ngoài và chỉ có một vị với ly thần ở lại nhà. Và rồi bỗng nhiên, quân lính đến nhà họ và bắt ông ta đi người với cái ly. Ông ta rất sợ, không biết chuyện gì xảy ra. Nhưng hóa ra không có gì để lo lắng, bởi vì vua xứ đó nghe nói về phép thuật của họ, cho nên muốn đưa người này đến hoàng cung để chữa bệnh cho con gái ông. Con gái ông bị bệnh chỉ vậy thôi. Bởi vì cô ta có một bệnh rất kỳ lạ không bác sĩ nào chửa được. Bây giờ, ông cho cô ta loại thuốc thường mà cô đã dùng qua rồi, nhưng ông để thuốc đó vào trong ly thần nhưng không hiệu nghiệm. Bởi vì ông quên nhìn vào gương thần. Có lẽ ông không tự biến mình để hợp với thị hiếu của công chúa. Có lẽ ông trong quá xấu, công chúa cảm thấy tệ hơn. Có lẽ công chúa đang yêu anh chàng tuấn tú nào đó và anh chàng này trong giống anh chàng xấu nhất cô đã gặp khiến bệnh cô càng tệ hơn, vô vọng. Ôi, thật thê thảm, bởi vì thuốc không hiệu nghiệm mặc dù ông đã để vào ly thần. Nhà vua ra lệnh đóng đinh ông lên tường. Có phải tệ không? Nếu chửa không được thì là không được, sao đóng đinh người ta để làm gì? Chỉ cần đuổi ông ra, đúng không? Chuyện đó có xảy ra rằng ngay cả đôi khi bác sĩ nổi tiếng nhất cũng không thể luôn luôn chửa khỏi một người khi bệnh đó là bất trị. Chuyện đó có xảy ra. Cho nên tôi không biết tại sao vì vua nầy cuồng tín và tệ như vậy. Bất cứ chuyện gì, cứ giết người ta. Bất cứ chuyện gì, đóng đinh người ta. Thật tệ. Vị tu sĩ hồi giáo dĩ nhiên cố gắng giải thích với nhà vua rằng có lẽ ông không đủ thời gian, cần hội ý và thiếu một vài vật liệu đặc biệt, vì vậy xin cho ông thêm chút thời gian để ông có thể trở lại và trị bệnh cho công chúa. Nhưng nhà vua nóng tánh, rất độc đoán, không tin điều đó, nghĩ rằng vị thầy tu đó tìm cách kéo dài thời gian để có thể bỏ trốn. Ôi chao, cho nên, bây giờ, ông ta sắp bị hành xử, và ba thầy tu kia về nhà và họ không thấy ông ta ở đâu cả, vì vậy tức thì họ nhìn vào gương thần để xem bạn họ ở đâu. Và họ tìm được ông ta, họ biết rằng ông ta sắp sẽ chết. Cho nên, họ lập tức cưỡi cây gậy thần và đi đến đó để giải cứu bạn. Nhưng con gái của vua không chữa được, họ không cứu được cô ta bởi vì quá muộn, bởi vì họ không thể tìm được cái ly thần nữa, thậm chí vậy. Và rồi khi họ nhìn vào gương, họ thấy nhà vua ra lệnh ném cái ly xuống biển, đại dương rất sâu. Bây giờ, làm sao có thể tìm được cái ly dưới biển? Quá sâu. Tôi không biết là cây gậy thần có thể mang họ xuyên qua một luồng nước như vậy. Có lẽ họ sẽ đi nhưng không tìm được cái ly. Có lẽ đi xuống và ở lại đó ai biết được. Nhưng để coi chuyện gì xảy ra. Đại dương sâu nhất trên thế giới là nơi có cái ly, đó là nơi nhà vua ra lệnh ném ly vào. Vua kiểu gì vậy? Chắc là quỷ vương, ma vương. Quý vị biết những chuyện này luôn luôn là biểu tượng. Ly thần là gì? Sự khai ngộ, đúng không? Và đại dương sâu thẳm là gì? Tất cả rắc rối, buồn phiền, ngăn trở mà chúng ta khó thoát ra được. Mặc dù chúng ta biết nó ở đâu, cũng không tìm được. Cho nên, mặc dù họ có một gậy thần, chiếc mũ thần và tấm gương thần, cần 1000 năm để tìm lại được cái ly. Thảo nào có lẽ họ phải bơm tất cả nước biển ra, hoặc ít nhất không sâu như vậy. Ngay cả với cây gậy thần đi xuống với tốc độ như vậy, thậm chí vậy, nếu đi trong nước. Quý vị đi và sâu đến như vậy, không phải như quý vị bơi trên mặt nước nửa, Nếu trên mặt nước quý vị có thể bơi. Bất kể lâu bao nhiêu quý vị có thể nổi, quý vị có thể bơi và quý vị không sao. Nhưng nếu quý vị phải lặn xuống biển sâu như vậy. Vào thời xưa người ta không có dụng cụ như bây giờ. Tôi tin chắc họ suốt tới dưới. Đừng nói đến suốt trở lên nữa. Khi có người ném 1 vật xuống biển, nó không ở yên như vậy, để có thể dể cho mình tìm phải không? Có lẽ do trọng lực của nó, nó sẽ chìm sâu xuống bùn hay cát hoặc có thể bị kẹt trong hang nào đó dưới biển, giữa đám san hô và giữa các tua mực phù hay gì đó. Và rất khó lấy từ mực phù bởi vì nó cứ hút vào xúc tu của nó hiểu không? À tôi chỉ tưởng tượng đủ mọi điều có thể xảy ra. Trong chiều sâu nhất của đại dương. Điều gì cũng có thể xảy ra. Hàng ngàn năm sau khi có kinh nghiệm không hay này với công chúa. Họ thực tập làm việc kính đáo hơn. Bất cứ làm gì, họ sẽ làm trông rất hợp lý, như một phương pháp y tế đơn giản hay đại khái vậy. Một cách hợp lý, có thể giải thích được. Chẳng hạn nếu họ dùng ly, họ có lẽ sẽ để vài viên aspirine gì đó và nói : "Thấy không thuốc nầy nổi tiếng là chữa được như vầy như vầy, kể cả bệnh nhứt đầu. Cho nên nếu dùng thuốc này, sau vài giờ, quý vị sẽ khoẻ hơn." Thế là mọi người tin. Ồ, dĩ nhiên, thuốc nầy tốt, tốt, tốt. Quý vị hiểu câu chuyện không? Quý vị thấy đây chỉ là chuyện ngụ ngôn, như chúa Giê-su thường kể chuyện để làm thí dụ, làm biểu tượng của ý Ngài muốn nói. Cái ly giống như sự khai ngộ, khó tìm. Mặc dù quý vị biết nó ở đâu, không như quý vị không biết và điều đó hiển nhiên nhưng khó tìm được ở nơi có những trở ngại thành kiến xã hội về khai ngộ phải như thế nào. Những phái đã được củng cố, có thể là tín ngưỡng tôn giáo, có thể là truyền thống, có thể là bất cứ gì. Có phải đáng tiếc. Điều quá rõ với chúng ta, chúng ta có thể thấy với một gương thần đối với nhiều người đôi khi quá bí ẩn, không có được, không thể được. Nhưng thật ra không có gì. Đó là của quý vị, quý vị có nó. Quý vị chỉ cần câu thông với nó và rồi quý vị có mọi điều khác. Rồi mọi lo lắng, băn khoăn, rắc rồi sẽ biến mất. Rắc rối, băn khoăn, lo lắng cũng là bệnh tật. Và đôi khi vì những lo lắng, băn khoăn, hoá hiện vào thân thể vật chất. Rồi trở thành 1 bệnh có thật. Nó bắt đầu trước ở trong đầu, đâu đó trong tư tưởng, trong cách suy nghỉ của mình. Người ta gọi nó là áp lực, đôi lúc: "Tôi bị áp lực quá, tôi rối lên rồi" Đại khái vậy. Ai là người rối lên? Không phải thân thể. Đó là đầu óc phải không? Quý vị quá lo lắng, Hoặc bị quá nhiều áp lực, nên nói lên: "Tôi thật rối lên." Nhưng ai rối lên? Bởi vì nếu đó là thân thể, thì khi người chết nằm đó, họ vẫn còn thân thể đó. Họ còn thân thể giống vậy nhưng quý vị có thể ở đó mắng nhiếc họ hàng ngàn năm, họ cũng không di động. Họ sẽ không bao giờ rối lên. Họ sẽ không bao giờ bị áp lực. Đó là vậy. Cho nên chính là đầu óc tự gây áp lực cho nó, hoặc tự rối lên. Cho nên bất cứ là gì đều là do sự suy nghĩ trước. Rất khó để kềm chế điều đó, mặc dù chúng ta hiểu điều đó. Đâu có liên quan gì đến thân thể của mình. Được ngươi có thể lo lắng. Ta đi ăn, đi uống, đi thiền. Rất khó, rất khó nói: “Ta không để tâm đến ngươi, cứ đi thiền, cứ đi cầu nguyện. Đi nghe nhạc, đi khiêu vũ. Đôi khi người ta nghĩ. "Tôi đi khiêu vũ và tôi quên hết phiền phức.” Họ có thể quên vài chốc, vài giờ. Nhưng khi trở lại phiền phức vẫn còn đó một lần nữa. Ngày xưa, có một vị vua tên Si Vi. Ông rất hùng mạnh và trị vì vương quốc Si vi. Vua có một hoàng tử cũng đặt tên là Si Vi. Thật hay. Đến tuổi trưởng thành, thái tử đi Tắc Xi Là để học tập. Lúc trở về, nhờ đầy đủ thông mình và kiến thức, thái tử được phụ hoàng đề cử giữ chức phó vương trong nước. Khi vua cha qua đời, thái tử Si Vi lên làm vua, cai trị dân chúng rất công bình và nhân đức. Ông cho thiết lập sáu trại tế bần ở kinh đô, bốn trại tại cổng thành, và hai trại ngoài hoàng cung. Mỗi ngày, 600.000 đồng tiền được phân phát cho dân nghèo. Vào ngày mồng tám, mười bốn, và rằm mỗi tháng, nhà vua đến thăm các trại này để xem tiền bạc có được phân phát đúng đắn không. Đây là một trong những tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni. Vào một ngày trăng tròn, ông ngồi trên ngai vàng dưới lọng che và suy nghĩ về mọi việc ông đã làm cho dân chúng. Bây giờ ông suy nghĩ: Về vật chất, không có gì mà ta đã không cho, những loại bố thí này chưa làm ta thỏa mãn, vì ta muốn bố thí điều gì đó là một phần của ta. Hôm nay, khi đến các nhà trại tế bần nếu có ai xin điều gì một phần của thân thể ta, ta sẽ vui lòng cho họ. Nếu có người nào nói họ cần một người nô lệ, ta sẽ cởi áo bào và đi làm công việc nô lệ cho họ. Nếu có người nào xin ta đôi mắt, ta sẽ lấy mắt ra ngay khởi đầu và tặng cho Ông tắm với 16 bình nước hoa và mặc y phục sang trọng. Sau một bữa ăn thịnh soạn, ông cưỡi một con voi được trang hoàng lộng lẫy và đi đến nơi phát chăn. Đế thích, vua của hàng chư thiên, quyết định thử nhà vua. Ngài tự nhủ: “Vua Si Vi đã quyết định bố thí mắt cho bất cứ người nào hỏi xin. Khi thời gian đến, ta không biết vua có thực hiện được sự hy sinh vô thường như đã hứa không?’’ Do đó ông cải trang làm tu sỉ bà la môn già, mù lòa và đứng bên ngoài nhà tế bần. Lúc nhà vua cưỡi voi đi đến, ông đưa tay ra cầu xin: “Tâu đại vương, không có nơi nào trên thế gian không nghe danh tiếng về việc làm phước đức của ngài. Như ngài thấy, tôi bị mù. Ngài có hai mắt, tôi từ xa đến đây để xin bệ hạ bố thí cho tôi một mắt của ngài.” Nhà vua suy nghĩ: “Đây chính là điều ta đã nghĩ tới trong cung điện hôm nay. Tâm nguyện của ta sẽ được thành tựu. Ta sẽ tặng một món quà từ trước đến nay không ai từng ban tặng bao giờ.’’ Cho nên vua quay sang hỏi vị bà la môn: “Ai bảo ngươi đến và xin ta con mắt? Đó là bộ phận quan trọng nhất của thân người và khó để chia sẻ.” Do đó người bà la môn đáp: “Chính là Đế Thích đã bảo tôi xin ngài con mắt, tâu đại vương. Người ta nói tặng mắt là món quà quý báu hơn tất cả. Mong vua Si Vi đừng từ chối. Hãy cho tôi xin chỉ một con mắt của ngài.’’ Nhà vua trả lời thế này: “Ngươi chỉ xin ta một con mắt, đạo sĩ bà la môn, ta sẽ cho cả hai. Nói xong, nhà vua trở về hoàng cùng với vị bà la môn. Tôi nghĩ thời xưa người ta đã có phẫu thuật ghép bộ phận để có thể thay mắt xấu thành mắt lành. Bằng không, có ích gì nếu nhà vua móc mắt ra và tặng cho người mù và ông ta chỉ nhìn xem? Ông thậm chí không nhìn thấy vì ông đã mù. Cho nên, bất kể sự hãnh diện về những thành tựu của thời hiện tại, tôi nghĩ chúng ta nên cảm thấy rằng mình không văn mình và tiến bộ gì lắm. Bởi vì thời xưa, theo như tôi hiểu, người ta đã có giải phẫu nảo và giải phẫu ghép bộ phận, như ghép những mô của bộ phận hiến tặng cho người khác. Cho nên tôi nghĩ địa cầu chúng ta đã phát triển từ lâu thậm chí trước khi chúng ta ra đời. Và trước nền văn minh ngày nay, chúng ta đã có một nền văn minh vĩ đại hơn. Cho nên khi nhà vua trở về hoàng cung với vị bà la môn. Khắp kinh thánh loan tin nhà vua muốn bố thí mắt cho đạo sĩ bà la môn mù. Hoàng hậu, thống soái thượng thư, và quần thần thỉnh cầu đức vua đừng tặng đôi mắt. Họ nói: “Bệ hạ nên bố thí tiền bạc, ngọc ngà, san hô, đá quý, vàng, bất cứ gì, từ quốc khố, nhưng đừng ban tặng đôi mắt. Chúng thần van xin bệ hạ đừng bố thí đôi mắt, tâu hoàng thượng, vì chúng thần cần ngài, xin ngài giữ gìn long thể an toàn và khỏe mạnh cho thần dân trung thành.” Nhưng nhà vua nói: “Trẫm đã phát nguyện bố thí bất cứ gì người ta xin trẫm. Nếu không giữ lời nguyền, trẫm sẽ phạm một trong những điều tội lỗi nhất. Linh hồn ta sẽ bị đe dọa và trẫm sẽ bị đọa xuống cởi diêm vương, nghĩa là âm phủ. Nếu không có ai xin, trẫm sẽ không bố thí vật gì. Nhưng vị bà la môn nầy xin đôi mắt của trẫm, và trẫm phải giữ lời hứa.” Quần thần hỏi: “Bệ hạ mong được điều gì khi bố thí đôi mắt của bệ hạ? Do nguyên nhân nào khiến bệ hạ hành động như vậy? Vì sự sống quý báu, sắc đẹp, nguồn vui hay quyền lực? Tại sao đại vương Si Vi đã phải bố thí mắt ngài vì lợi ích trong kiếp sau?” Nhà vua nói: “Khi bố thí đôi mắt, trẫm không cầu danh lợi, vương quốc hoặc nhiều con. Đây là con đường của thánh nhân. Lòng trẫm tràn ngập niềm vui khi nghĩ đến việc bố thí”. Rồi nhà vua quay sang vị y sĩ giải phẫu và ra lệnh: “Si Va Ca, ngươi là bạn và đồng chí của trẫm. Hãy làm theo lời trẫm yêu cầu. Hãy lấy đôi mắt của trẫm ra với đôi tay thiện xảo của ngươi và trao chúng cho vị bà la môn mù nầy.’’ “Xin suy nghĩ kỹ, tâu bệ hạ, bố thí đôi mắt không phải là việc tầm thường.” Nhà giải phẫu nói với nhà vua như vậy. “Trẫm đã suy nghĩ kỹ. Si Va Ka. Đừng chậm trễ và nói nhiều trước mặt trẫm. Theo lịnh trẫm, hãy lấy mắt của trẫm ra.” Vị y sĩ giải phẫu do dự, nhưng cuối cùng vẫn phải mổ lấy mắt nhà vua ra theo lời của ngài. Sự đau đớn thật to lớn và toàn thể quần thần đều quỳ xuống nơi chân đức vua khóc lóc và kêu than. “Hởi ơi, thưa bệ hạ, tại sao bệ hạ làm vậy? Bệ hạ đã hy sinh đôi mắt của ngài.’’ Nhà vua im lặng nhận chịu sự đau đớn và không thốt lên lời nào. Sau một lúc, ông bảo vị bà là môn đến gần: “Đạo sỉ bà la môn, đây, hãy nhận lấy mắt trẫm để lấp vào hóc mắt không trông thấy của ngươi. Con mắt của kiến thức vô tận thì cả ngàn lần quý báu hơn mắt thế nhân này. Nhờ ngươi ta có lý do để hành động.” Đạo sỉ bà la môn lấp mắt của nhà vua vào hóc mắt ông và rời khỏi cung điện. Khi ra khỏi cổng thành, ông hiện lại nguyên hình và trở về thiên giới. Bây giờ nhà vua bị mù, còn ở lại trong hoàng cung, không thể đi lại tự do. Vài ngày sau, ông suy nghĩ: “Người mù làm sao có thể cai trị vương quốc? Ta sẽ trao quyền lại cho các triều thần và đi vào công viên sống như nhà tu khổ hạnh.’’ Vì vậy ông triệu tập các đại thần đến, nói với họ điều ông định làm. “Trẫm chỉ mang theo một người với trẫm. Anh ấy sẽ chăm sóc và dẫn bước cho trẫm.’’ Ông truyền xe ngựa đến, nhưng các quần thần không để nhà vua bước lên xe ngựa. Họ mang một kiệu vàng và khuân nhà vua đến công viên. Sau khi sắp đặt chỗ ở an toàn cho nhà vua, họ để lại một người hầu cận và trở về hoàng cung. Vua Đế Thích nơi cõi trời nhìn xuống thấy vua Si Vi đang tọa thiền trong công viên. Ngài nghĩ: “Ta sẽ ban cho nhà vua một phần thưởng và làm mắt ông ta sáng lại.’’ Vì vậy ông xuống thế gian với hình dạng của mình và đứng trước vị vua mù. Nhà vua nghe bước chân lạ, lên tiếng hỏi: “Ngươi là ai? Và ngươi muốn gì nơi ta?” Ta là Đế Thích, vua của hàng chư thiên. Và từ cõi trời ta xuống đây thăm ngài. Ta muốn ban một ân huệ cho đức vua thánh thiện. Cho ta biết điều ước của ngài.” Hỏi Đế Thích. “Ta từ bỏ phú quý, quyền thế và vô số tiền bạc của cải. Ta muốn chết, và không thích gì nữa vì ta đã mù.’’ “Vua Si Vi, ngài yêu cầu sự chết vì ngài bị mù lòa, hay vì ngài không muốn sống?’’ “Thưa Ngài, vì tôi mù.’’ “Vua Si Vi, ngài đã bố thí vì nghĩ đến tương lai. Người ta xin ngài một con mắt nhưng ngài lại cho cả hai. Nói thật ta biết, tại sao ngài làm vậy, chỉ khi đó mắt ngài mới được phục hồi lại.” “Thưa Đế Thích, nếu Ngài muốn ban lại cho tôi đôi mắt, xin hoàn trả chúng lại tôi như kết quả của sự bố thí của tôi.’’ “Mặc dù ta là Đế Thích, vua của hàng chư thiên, nhưng ta không thể cho ai một con mắt được. Nhưng đó là vì sự bố thí cao cả của ngài, chứ không bởi lý do nào khác, đôi mắt của ngài sẽ được hoàn lại cho ngài.’’ Nhà vua vui mừng nói: “Bất cứ ai đến yêu cầu tôi bố thí, tôi sẽ bố thí họ không suy tính gì. Nếu tôi nói sự thật thì xin con mắt của tôi hiện ra.’’ Khi vua vừa thốt lời nói này, một mắt của ông hiện trở lại, trong hóc mắt của ngài. Nhà vua nói tiếp: “Một vị bà la môn đến gặp và xin tôi một con mắt, tôi đã tặng cả hai. Hành động bố thí đó mang lại cho tôi nguồn vui và an lạc lớn nhất. Nếu lời tôi nói là sự thật thì xin con mắt kia cũng hiện ra.” Tức thì, con mắt thứ hai hiện ra trở lại, và đôi mắt này được gọi là đôi mắt của chân lý tuyệt đối và toàn hảo. Đế Thích dùng thần lực tạo ra cảnh thiên triều hội hộp tại công viên. Đế thích nói với nhà vua: “Vua Si Vi, để ban thưởng cho hành động vô thường từ hy sinh của ngài nầy ta ban cho ngài một đôi mắt thần. Ngài sẽ có thể nhìn thấy xuyên qua đá và tường, qua núi đồi và thung lũng. Một trăm dặm, mắt ngài sẽ thấy được mọi phía.” Rồi Đế Thích từ giả nhà vua và trở về thiên đình. Tháp tùng bởi các triều thần, nhà vua trở về kinh đô và giữa đám rước lễ nghi tưng bừng, ngài tiến vào cung điện tên là Căn Da Ca. Tin về việc mắt vua đã sáng lại được loan truyền khắp thành Si Vi, và dân chúng đến gặp ông, mang theo quà tặng trên tay. Một mái đình lớn được dựng lên nơi cổng vào cung điện và nhà vua ngồi trên ngai vàng dưới lộng của hoàng gia. Những người dân trong thành tiến vào kinh thành để tập hợp mọi người lại. Và khi đám đông quỳ từ trước nhà vua, ngài nói với thần dân: “Hởi quốc dân xứ Si Vi, nầy quý vị đã trông thấy đôi mắt thần này, quý vị đừng bao giờ dùng thức ăn mà không bố thí chia sẻ. Đừng bao giờ ăn mà không nghĩ đến người đói kém. Có ai trong các ngươi khi được yêu cầu bố thí dù là tài sản quý nhất lại nở lòng từ chối? Đôi mắt này của trẫm, là món quà của Thượng Đế. Mắt này có thể thấy xuyên đá và tường, qua núi đồi và thung lũng một trăm dặm, khắp mọi phía. Trẫm đã bố thí mắt phàm và đền bù lại, nhận được mắt thần. Hởi các thần dân của trẫm, hãy luôn luôn san sẽ của cải của mình với người khác. Hành thiện giúp người khác, quý vị sẽ lên thiên đàng, Vào những ngày thánh và mỗi hai tuần lễ, vua Si Vi thuyết giảng như vậy cho dân chúng. Khuyến khích họ sống đời đạo đức. Dân chúng của ông bố thí, hành thiện, và cuối cùng lên thiên đàng để sống vinh viễn với hàng chư thiên. Đây là một trong những tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni trong một tiền kiếp. Và qua vô số việc làm đạo đức và hành động từ bi. Ngài đã chỉ cho những chúng sinh có liên hệ với Ngài, đạo của Thượng Đế, đạo của thánh nhân rằng chúng ta luôn luôn phải đặt người khác trước bản thân. Sau đó để bù lại, thậm chí không cầu, chúng ta sẽ được ban thưởng bội lần nhiều hơn. Đây là cách duy nhất để đạt đời sống phong phú hơn và sung túc hơn về kiến thức tâm linh. Nhưng đa số người không biết bí mật đơn giản này và họ luôn luôn cố gắng lấy mọi thứ về cho chính mình, do đó họ mất tất cả vào lúc cuối. Trong Thánh Kinh. Chúa Giê-su cũng nói ai bỏ đi sự sống sẽ đạt được nó. Có nghĩa là bất cứ gì quý nhất đối với mình, bất cứ gì chúng ta gọi là của mình hay của tôi, ngay cả mạng sống, sẽ bị lấy đi nếu chúng ta không biết đến sự sống vĩnh hằng. Nếu chúng ta không xả bỏ sở hữu vô thường và thân thể vô thường mà chúng ta gọi là sự sống, chúng ta sẽ không bao giờ đạt kiến thức vĩ đại hơn, và đời sống vĩnh hằng. The Reincarnations of Shakyamuni Buddha P4 May 16, 1996 Cambodia |
Archives
January 2023
Categories |