BUDDHIST STORIES: THE PAST LIVES OF THE FIRST FIVE DISCIPLES - PART 1/2 Aug 14, 2015 Chính tôi được nghe: Một thời Phật ở vườn của Thái tử Kỳ Đà, Vườn lát vàng. Thuở đó nước La Duyệt Kỳ có hai anh em người lái buôn, cùng ở một nơi. Người anh hỏi cưới con gái ông trưởng già sống gần đó, nhưng cô này còn ít tuổi, nên chưa cho xin cưới. Vì kế sinh nhai, nên người anh ra nước ngoài buôn bán. Không biết vì lý do gì mà lâu năm không về. Cô con gái ông trưởng giả đã lớn, chờ đợi lâu quá sợ lỡ tuổi xuân. Nên ông trưởng giả gọi cậu em đến bảo rằng: “Anh của chú đi xa, không biết đi đâu, lâu quá, chắc đã chết rồi, vậy tôi gả con gái tôi cho chú, ý chú thế nào?” Người em đáp: “Dạ, thưa trưởng giả, không được! Anh tôi hãy còn sống và tôi không bao giờ làm những chuyện kỳ quặc như vậy!” Tự đó trở đi, ông trưởng giả luôn luôn hối thúc anh phải lấy con gái ông. Nhưng anh vẫn cung kính từ chối. Người cha bất đắc dĩ, không còn cách nào thúc ép người em. Nên mạo ra một lá thư. Rồi cho người lái buôn khác mang lại, ý nói rằng: “Anh của chú đã chết lâu rồi.” Khi nhận được thư, mở xem hay tin rằng anh mình đã chết. Y đang than khóc cho người anh thì ông trưởng giả đến hỏi nữa. Ông hỏi: “Hôm nay sao chú buồn thế?” Người em đáp: “Thưa trưởng giả, tôi vừa nhận được tin anh tôi đã chết từ lâu!” Ông trưởng giả làm bộ như Phật, có trí huệ, nói: “Thôi chú ạ. Đừng buồn nữa. sinh tử chết sống của con người trong đời này là chuyện bình thường! Người nào chết hãy để họ chết. Bây giờ mình còn sống thì phải lo cho người sống. Giờ đây tôi hỏi thật chú: Có định kết duyên với con gái tôi thì xin trả lời, còn không thì tôi sẽ định liệu cho nó.” Cũng do ông ép uổng quá, nên cuối cùng anh phải nhận lời. Rồi họ kết hôn. Đôi vợ chồng trẻ đang mặn nồng hạnh phúc bên nhau, bỗng nhiên được tin người anh ở nước ngoài trở về. Người em sợ quá chạy trốn sang nước Xá Vệ. Người em tìm đến chốn Phật ngụ, thấy Phật anh ta tủi thẹn, cúi đầu lễ dưới chân, bạch Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn! Tôi đây một lòng thành kính, cầu xuất gia tu học, cúi xin Ngài từ bi tế độ!” Phật hoan hỷ cho nhập môn, và cải tên là Ưu Bà Tư. Chăm chỉ tu hành dưới sự dạy dỗ của Phật, chẳng bao lâu đã đắc quả A La Hán.” Thành ra trong cái rủi có cái may. Anh có đủ loại thần thông cũng như phước báu. Người anh khi về tới nhà, biết em đã lấy vợ mình, đau buồn phẫn nộ đi tìm để giết, nhưng tìm mãi không thấy. Có người mách em của anh ta sang gặp Phật và đã theo Phật xuất gia. Anh ta bỏ ra năm trăm lượng vàng, thuê người đi giết, cả hai cùng đi. Anh này với người giết mướn cùng sang nước Xá Vệ. Tới nơi thấy Ưu Bà Tư, người em đang tọa thiền. Tên giết mướn thấy người em đang tọa thiền dáng vẻ tôn nghiêm và thánh thiện, hắn thấy tội nghiệp quá và xấu hổ, phát tâm từ bi đối với người em xuất gia đó. Nghĩ như vầy: “Ta nở lòng nào giết ông Tỳ Kheo kia, Thánh nhân kia. Ông chẳng có lỗi gì đối với ta, chẳng thù oán gì với ta, sao ta có thể giết được? Nhưng nếu ta không giết thì không lấy được số vàng này.” Làm sao đây. Thành ra phải bắn. Trương cung bắn một phát, nhưng cái tên ấy lại trúng phải người anh. Người anh oán hận mà chết. Oán hận gấp hai lần. Vì lòng oán hận gấp đôi đó, tâm độc hại đó mà linh hồn đọa sinh làm con rắn đọc ở trong cái hố cạnh cổng chỗ Phật ở chờ thời có để cắn chết báo thù. Một hôm con rắn bò qua ngưỡng cửa, đột nhiên cánh cửa bị gió thổi hay gì đó, thế là nó bị kẹp vào giữa mà chết. Tuy chết nhưng tâm độc hại lòng uất hận vẫn chưa nguôi. Vì lòng oán hận chưa nguôi, nên lại nguyện sinh làm con trùng độc ở ngay trong phòng của người em xuất gia. Chờ khi người em xuất gia tọa thiền nhảy xuống giữa đỉnh đầu mà đốt chết. Toàn thể tăng chúng thấy người xuất gia nầy chết bất thình lình, không hiểu tại sao. Ngài Xá Lợi Phất không biết nguyên do, vì sao chết nên tới bạch với Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn! Tỳ Kheo Ưu Bà Tư hiện đã đắc quả A La Hán, nhưng sao vẫn còn bị côn trùng đốt chết, cúi xin Ngài chỉ giáo cho chúng con được biết nguyên do?” Mấy người kia không biết vì sao nhưng Xá Lợi Phất biết côn trùng độc này đã giết người em. Phật nói: “Xá Lợi Phất, ông nên biết. Đây cũng là một nghiệp báo từ thời quá khứ. Thuở ấy có một vị Bích Chi Phật, tức là độc giác Phật, vị Phật không dạy người ta, chỉ có ngồi thiền, rèn luyện một mình trong rừng. Bây giờ Ngài đắc quả rồi, thành Phật lần nữa. Một hôm có người thợ săn đi ngang qua, đặt bẫy bắt cầm thú. Vị Bích Chi Phật vì lòng thương thú vật, nên Ngài hoá phép chặn lại, làm cho họ không bắt được con nào. Vì thế người đi săn tức giận, dùng tên đọc để bắn Bích Chi Phật chết. Bởi vì vị Phật thấy thương cho người thợ săn này, muốn cho người đó khỏi đọa địa ngục vô gián, biết ăn năn tội lỗi của mình, nên Ngài bay lên hư không, biến hóa ra 18 phép thần thông. Người đi săn thấy thế sợ hãi trách mình, sinh lòng kính cẩn, tới trước Bích Chi Phật tạ lỗi, cầu xin xá tội. Ngài cũng hoan hỷ cho sám hối. Nhưng sau khi về nhà, anh bị trùng độc đốt chết. Sau khi chết, thần hồn đọa xuống địa ngục. Trong 500 kiếp bị trùng độc dốt mà chết. Cho đến ngày nay tuy đắc quả A La Hán, nhưng tội vẫn còn nên bị trùng độc cắn chết. Người đi săn đó chính là Tỳ kheo Ưu Bà Tư ngày nay, người em. Bởi vì lúc đó ác tâm hại vị Bích Chi Phật, nhưng sau đó lại biết sám hối, và phát nguyện xin được gặp Thánh Sư khi thời điểm tới, để được khai ngộ và được quả vị thánh nhân. Bởi thế, nhờ biết sám hối và nguyện thành thánh nhân Bồ Tát, mà ngày nay có phước báu gặp ta. Khi Phật nói xong, Ngài Xá Lợi Phất và tất cả mọi người trong đại chúng ai nấy đều sợ nghiệp báu. Từ nay mọi người cố gắng kiểm soát thân, khẩu, ý.
0 Comments
--SMCH, MP4-963 Ngày xửa ngày xưa, có một anh chàng họ Phạm. Anh ta có một người vợ rất xinh đẹp. Nhưng một ngày nọ vợ anh ta lâm trọng bệnh. Cô nằm liệt giường không thể dậy nỗi. Bệnh của cô rất nặng. Anh thường vào phòng cô thăm nom vì rất thương vợ; vợ anh cũng rất thương anh. Người này rất dịu dàng với vợ. Không may người vợ bị lao phổi và đó là bệnh nan y. Trước đây, hầu như không thể chữa được bệnh lao. Ngày trước vào thời đó người Hoa chỉ có thuốc bắc. Họ chưa phát minh ra thuốc có thể trị bệnh lao. Cô nằm trên giường và không thể cử động được. Nhưng chồng cô rất thương cô. Hàng ngày ngoài công việc ra, anh thường đến phòng an ủi cô. Vợ anh biết rằng bệnh của mình rất khó chữa khỏi, cho nên cô rất cảm động khi thấy chồng hàng ngày đến an ủi mình. Cô rất cảm động và nói: Chàng ơi xin đừng uổng phí quá nhiều công sức vì thiếp. Họ rất nhã nhặn và dịu dàng với nhau. Có một thầy thuốc giỏi, một thần y rất nổi tiếng, rất có tiếng tăm. Sau khi bắt mạch cho người vợ, ông nói với anh chàng họ Phạm: Để chữa bệnh của vợ anh, phải bắt 100 chú chim sẻ.” Thầy thuốc nói nếu bắt 100 chú chim sẽ và trộn với thuốc của ông, thì sau 21 ngày uống thuốc, người vợ sẽ khỏi bệnh. Sau đó cô phải tiếp tục ăn óc chim sẽ nữa. Rồi cô sẽ có hy vọng khỏi bệnh. Ông nói đây là Phương thuốc bí truyền của gia đình ông, không phải ai cũng biết. Và chắc chắn hiệu quả. Nhưng Phương thuốc cần 100 chú chim sẻ, không thiếu một con. Vị thầy nổi tiếng này là Trần Thạch Ung, cứ nói đi nói lại với anh chàng họ Phạm rằng nhất định phải có đủ 100 chú chim sẽ mới có thể chữa khỏi bệnh cho vợ anh. Dĩ nhiên anh chàng họ Phạm làm theo những gì thầy thuốc mách bảo. Anh nhờ người đi bắt chim sẻ, và bỏ vào lòng và mang về nhà anh. Những chú chim trong lòng kêu khóc thảm thiết. Khi vợ anh biết được điều này, cô gọi chồng vào phòng và dịu dàng nói với anh: Nếu chàng giết 100 sinh mạng để đổi lấy một mạng sống nhỏ nhoi của thiếp thị thiếp thà chết còn hơn làm điều tàn nhẫn như vậy.” Anh chàng họ Phạm từ trước tới nay luôn luôn nghe lời vợ. Thế là anh phóng sinh hết. Nhưng vợ anh ta vẫn bệnh. Nhưng mấy ngày sau cô ta khỏi hẳn không cần thuốc men gì cả. Mọi người vui mừng cho đôi vợ chồng. Người chồng tổ chức một bữa tiệc lớn và mời nhiều người đến an mừng. Mọi người đến và cảm thấy rất vui vẻ. Họ thấy Trời Đất thật sự bảo hộ cho cô, chắc chắn là có làm việc tốt nên mới được như vậy, bởi vì bình thường loại bệnh đó không chữa được. Họ nghĩ đó là bởi vì cô đã giết đàn chim đó. Sau đó cô không những khỏi bệnh mà còn trở nên khỏe mạnh hơn, xinh đẹp hơn và cô sinh một bé trai để nối dõi tông đường. Đó là một phép màu! Mọi người đến để xem em bé. Em bé rất khỏe mạnh. Đôi má và thân thể bé hồng hào, gương mặt rất sáng và dễ thương. Ai nhìn cũng thích. Tuy nhiên có một điều lạ là: trên bàn tay của bé có rất nhiều nốt ruồi nhỏ màu đen. Cả trăm nốt ruồi và mỗi nốt ruồi trông giống như một chú chim sẻ. Có lẽ đàn chim sẽ muốn nói với cô: Vì cô đã cứu chúng tôi nên chúng tôi tặng cô đứa con.” Có lẽ đàn chim hợp lại và biến thành đứa bé để đền đáp lòng tốt của ân nhân. Thật tuyệt vời. Chỉ cứu vài chú chim mà đã tốt thế rồi, số mệnh của cô cũng tốt hơn. Do đó, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể đưa vào thuốc men hoặc những điều bên ngoài. Chúng ta nên dựa vào đạo đức của mình. Nhưng là người tu hành, không phải cứ ăn chay, không sát sinh và phóng sanh là được rồi. Làm chuyện nhỏ, chuyện lớn cũng đều phải nghĩ đến người khác. Bởi vì người tu hành chúng ta có trí huệ, nên chúng ta phải bảo vệ người khác. SMCH, MP4-914 Thuở xưa, có một người rất độc ác. Từ nhỏ anh ta có cá tanh hung dữ. Anh ta mắng nhiếc và đánh đập và cắt tất cả thú vật mà anh ta gặp. Anh ta rất tàn ác. Nếu anh ta không đánh đập thì cắt thú vật ra, nếu không cắt thú vật, thì đánh hoặc đá, hoặc ném thú vật cho đến chết. Người ta sợ anh ta. Anh ta rất cao, rất lớn người, va tánh tình rất xấu. Não của anh ta có lẽ đã hư hoại rồi, cho nên gặp đâu đánh nấy. Mọi người đều sợ anh ta. Anh ta như một băng đãng. Cho nên từ nhỏ anh ta đã luôn làm hại người khác, gây hại thứ vật, không chút lương tâm. Anh ta làm cho vui mà không vì lý do gì cả. Không giống như một số người bắt cá để ăn bởi vì họ đói. Điều đó có thể bỏ qua được. Không anh ta không đói, nhưng vẫn bắt thú vật ném họ tứ tung, đánh họ, dù sao anh ta là người rất tàn ác. Vì vậy thú vật đều bỏ chạy khi thấy anh ta. Ngay cả loài vật nhỏ như ruổi cũng bay mất khi thấy anh ta. Thật đáng khủng khiếp. Anh ta phát ra một từ trường sát sanh suốt cuộc đời anh. Một ngày nọ, anh ta ra ngoài. Bỗng nhiên, anh gặp một con nhện: Ngươi muốn đi xuống?” Nhện trông dễ thương, nên anh ta để cho nó yên. Bởi vì anh ta thấy con nhện. Con nhện cũng nhìn thấy anh ta. Nhưng con nhện đã giăng lưới giữa chừng cho nên không thể chạy trốn nhanh. Hơn nữa, vì nhện đang có mang, Nhiều con của nhện đang ở trong trứng, cho nên nó phải bò chậm. Nhện sợ quá và run lên. Bỗng nhiên anh ta thấy nhện thật dễ thương và đáng thương hôm đó, cho nên để nhện đi. Chỉ một lần, anh ta tha mạng con nhện. Vì anh ta tình cờ đang ở trong tâm trạng tốt, anh ta cười rồi để nhện đi. Con nhện an tâm và sung sướng, cảm thấy vô cùng biết ơn. Nhện quỳ xuống cả tám chân để cảm tạ Thượng Đế. Từ hôm đó trở đi, nhện đi tu với Phật. Nhện biết rằng nó đã suýt chết trên đời này. Thậm chí các con của nó cũng suýt chết. Cho nên nhện bỗng nhiên khai ngộ. Nhện biết thế giới này là quá vô thường, quá bất ổn. Cho nên nhện đi học với Phật. Vì nhện quá đổi kinh hãi, nhện rất thành tâm. Nhện biết rằng đời sống mình có thể chấm dứt bất cứ lúc nào, cho nên nhện không thể bỏ lỡ cơ hội. Cho nên nhện rất thành tâm, vô cùng thành tâm, và trở thành Á La Hán trong tích tắc. Con nhện thành A La Hán. Bởi vì nhện tu hành rất thành tâm. Một thời gian sau đó, nhện chết và thành A La Hán. Dĩ nhiên khi thời gian đến, người ác đó phải chết. Khi anh ta sắp chết, hắc bạch tử thần đến để bắt anh và sẵn sàng ném anh vào chảo dầu sôi. Có nhiều dụng cụ sẵn sàng chờ đợi anh ta. Tuy nhiên trước khi trừng phạt anh ta, họ phải kiểm lại rõ ràng: mặc dù anh ta là người ác như vậy, coi anh ta có công đức gì không? Phải công bằng. Cho ma vương xem lại. Cả đời anh ta chỉ có liên quan đến việc sát sinh, mắng nhiếc, đánh đập chà đạp Không gì tốt. Rồi cuối cùng ông ta thấy: Ổ, anh ta đã cứu một, chỉ tha đi, không phải cứu, một con nhện. Rồi ông trình điều đó lên với Phật. Vì con nhện đã thành A La Hán, điều đó phải được trình lên. Đây là một con nhện phi thường. Nếu đó là một con nhện bình thường, có lẽ anh ta đã bị ném vào chảo dầu rồi. Tuy nhiên con nhện đó là A Là Hán, cho nên ông phải xem lại coi có quan hệ gì giữa họ không. Có lý do để thả anh ta không, hay còn gì khác? Cho nên điều đó phải được trình lên Phật. Sau khi xem hồ sơ, Phật hỏi con nhện: “Phải anh ta thả ngươi không?” Con nhện đáp: “Dạ phải và tha nhiều sinh mạng khác vì lúc đó con đang có mang.” Phật noi: “Vì anh ta đã tha mạng sống của ngươi một lần với lòng từ tâm, bây giờ ngươi có muốn cứu anh ta không? Con nhện đáp: “Dạ muốn.” Đó là một cơ hội hiếm có cho nên nhện thả một sợi tơ. (Mạng nhện) Một sợi là đủ không cần phải dùng cả mạng nhện. Nhện A La Hán không phải nhện thường. Nhện thả sợi tơ xuống và bảo anh ta nắm chặt. Anh ta nghe nói, nên nắm chặt sợi dây lập tức. Nhìn thấy dầu đang sôi bên cạnh anh, nếu không nắm chặt sợi dây, anh ta sẽ mất mạng. Và rồi con nhện, vị A La Hán kéo anh lên. Kể từ ngày đó trở đi, anh ta tu hành. Anh ta cũng được cứu, khỏi phải xuống địa ngục hoặc bị nướng, bị chiên và không bị hành hạ nữa. Đây là câu chuyện, nhưng cũng có thể có thật. Phật có kể chuyện Long nữ tám tuổi đã thành Phật. Long nữ là rồng chớ không phải người. International Gathering with Supreme Master Ching Hai - Europe, JUL OCT 201510.03 Tôi có nghe. Một lần, Đức Phật ở xứ Sravasti, trong vườn vàng của người đàn ông từ thiện và Hoàng Tử Jeta. Và nhiều đệ tử hàng đầu, các nhà sư, khoảng 1.250 người. Ở thành phố này, có một người đàng ông cao quý vĩ đại. Người mẹ vừa sinh con trai. Cậu bé rất xinh. Họ gọi anh ta là đồng tiền vàng, hoặc tiền vàng. Không chỉ anh ta đẹp trai, và là nhân vật nỗi bật về anh ta, kể từ khi anh ta được sinh ra, hai tay anh ta luôn nắm lại, như hai nắm đấm. Và rồi người mẹ mở những ngón tay và thấy mỗi bàn tay có một đồng tiền vàng. Sau khi lấy ra, hai đồng khác xuất hiện. Bất cứ khi nào cũng như thế, chỉ lấy ra hai, rồi hai đồng khác lại xuất hiện trong tay. Người mẹ tiếp tục thu thập vàng cho đến khi đầy nhà kho, và khắp nơi đầy tiền vàng. Và rồi anh ta vẫn luôn có hai đồng tiền vàng trong tay. Vì vậy, gia đình quý tộc của người đàn ông nầy ban đầu đã rất giàu có. Và bây giờ lại càng giàu hơn. Bây giờ, mọi người đã nói rất nhiều về gia đình và cậu bé này. Khi cậu bé lớn lên, câu ấy rất thông minh. Rồi y nghe rằng Đức Phật ở trên thế giới, ngay bây giờ, và nhiều, nhiều người đến theo, và trở thành đệ tử và họ đã đạt được giải thoát. Thế là anh ta định theo Phật để trở thành một tu sĩ. Vì vậy anh ta không muốn lập gia đình. Một ngày kia anh ta nói với cha mẹ rằng: “Cuộc sống chỉ là tạm bợ thôi. Chúng ta rồi sẽ bệnh tật, đau khổ, rồi chết. Bất cứ ai gắng bó với tình cảm và mối quan hệ tình yêu của con người, có thể so sánh với đứa trẻ đang liếm mật ong trên con dao sắc nhọn. Nó có thể bị thương. Ban đầu nó cảm thấy ngọt ngào và đáng yêu. Nhưng cái lưới sẽ bị đứt thậm chí nó còn không nhận ra. Chỉ có người từ bỏ để trở thành tu sĩ, thì đó sẽ là hạnh phúc và niềm vui tốt nhất và lâu dài. Xin vui lòng cho con trở thành một nhà sư dưới thời Phật, và làm theo sự hưởng dẫn để thực hành.” Cha mẹ y nói: “Đúng, rất hợp lý. Cha mẹ đồng ý.” Sau đó, Tên Đồng tiền vàng đi tìm Phật. Và ông thấy Phật rất hùng vĩ, và rất thánh thiện đẹp đẽ. Trong tâm anh đã phát triển một loại tôn trọng và yêu thương, ngưỡng mộ. Cho nên y lập tức đứng trước Phật và nói với Ngài: “Tôi không có ý tưởng gì về loại công đức mà tôi đã có được từ đời trước để bây giờ tôi đã gặp được Đức Phật và nương náu dưới ân sũng của Ngài. Vì vậy, xin vui lòng chấp nhận tôi là đệ tử của Ngài để tôi có thể học và được tự do.” Cho nên dĩ nhiên Đức Phật nhìn anh ta và thấy rằng anh ta có đủ quan hệ để được như vậy và đủ công đức để làm một nhà sư. Cho nên Ngài nói: “Hôm nay, do sự may mắn đã dẫn ngươi đến đây gặp ta. Nhưng ngươi cần phải siêng năng học giáo lý của ta và thực hành mỗi ngày. Thì ngươi sẽ được tự do của ý thức và trở thành Phật trong tương lai.” Đồng Tiền Vàng nói là tôi sẽ làm theo sự hướng dẫn của Ngài. Sau đó Phật gọi người trợ lý cạo đầu anh ta. Và sau đó mặc áo nhà sư. Thế rồi Đức Phật và tăng đoàn đã đi đến cõi cao hơn để ăn mừng, truyền đạt cho anh ta tất các giới luật của các nhà sư. Vì vậy, trong nhiều năm sau đó Jindai đã 20 tuổi anh đã nhận toàn bộ giới luật, toàn bộ sự truyền dạy của tu sĩ. Trước khi truyền đạt để trở thành một tỳ kheo, anh phải đi vòng quanh để cầu nguyện trước các nhà sư, các tu sĩ lớn tuổi. Và mỗi lần anh ta quỳ và nằm sấp trên đất, luôn có hai đồng xu ra khỏi tay anh ta. Nếu anh ta cầu nguyện nhiều lần, thì nhiều đồng xu xuất hiện. Sau đó ông rất siêng năng thực hành và nghiên cứu sự dạy dỗ của Đức Phật. Không lâu sau đó, y đã đạt được A La Hán. Thấy một hiện tượng kỳ lạ như vậy, tôi có nghĩa là Ananda, hỏi Đức Phật. Ông ấy đã làm gì trong kiếp trước mà bây giờ bất cứ khi nào anh ta mở tay ra là có hai đồng tiền vàng xuất hiện? Cho nên Đức Phật nói: “Nếu muốn biết hãy bình tĩnh lại ta sẽ cho biết: Trong quá khứ, có một vị Phật giảng dạy Chân Lý, Giáo pháp để hướng dẫn tất cả mọi người trên hành tinh, và giải thoát. Đức Phật Vipasyin và các tu sĩ của ngài, đang du hành khắp đất nước. Mọi nơi họ đến có nhiều gia đình quý tộc và những người giàu có, hoặc bất kỳ công dân nào khác họ chuẩn bị mọi thứ trên đường để cung cấp mọi thứ cần thiết, như thức ăn, nước uống, chăn, gối, nệm, màn chống muỗi Vào thời điểm đó có một người rất, rất nghèo. Mỗi ngày anh phải đi đốn củi để bán kiếm tiền để sống. Lúc Đức Phật đến làng ông và ông đã vừa bán củi kiếm được hai đồng xu. Khi anh ta biết được rằng nhà vua đã mời Phật và tăng đoàn vào cung điện để cúng dường công đức. Anh ta cảm thấy lấy làm tiếc cho mình là trước kia không có cúng giúp ai nên bây giờ mới nghèo khổ như vầy. Ông nghĩ ngay cả nhà vua đã giàu có như vậy mà còn muốn kiếm thêm công đức. Cho nên anh ta đến trước Đức Phật quỳ xuống và đưa ra hai đồng xu. Vị Phật cảm thấy rất tội nghiệp cho hắn và nhận lấy 2 đồng xu đó. Và anh được ban phước cho. Anan ngươi nên biết, người nghèo vào thời điểm đó đã chân thành cho hai đồng tiền, và kể từ đó đến giờ chính là người này. Kể từ đó 91 kiếp đã qua, Ở khắp mọi nơi, mọi thế giới mà anh ta sinh ra, anh luôn được sinh trong gia đình giàu có và mạnh khoẻ và luôn luôn có hai đồng xu trong tay. Bởi vì đều đó mà hôm nay ông cũng được gặp pháp luân và đắt quả vị A La Hán. Anan, tất cả chúng sinh nên hành động dâng hiến rất nghiêm túc như thế đó, bởi vì được làm thân người rất khó. Nếu không gieo công đức trong đời này thì cuộc sống tương lai sẽ không có gì. Vào lúc đó tất cả mọi người trong hội trường đều rất cảm động và có niềm tin vững vàng hơn. The Five Precepts & Five Best Ways Of Charity International Gathering with Supreme Master Ching Hai - Europe, Aug 30,2015 Phật đang giảng về năm giới luật: Giới thứ nhất: Không sát sanh, không hại người khác hay hại các sinh vật khác. Nếu giữ được giới này, thì sẽ được trường thọ, và khỏe mạnh. Giới thứ hai: Không được trộm cắp, không lấy những gì mà không được tặng cho mình. Nếu giữ giới này, thì sẽ có phước báu, sinh ra trong gia đình giầu sang và quyền quý. Và sẽ không ai bao giờ lấy gì của mình. Giới thứ ba: Không được có những quan hệ bất chánh. (không tà dâm.) Nếu giữ giới này thì Thiên Địa sẽ vô cùng kính phục, và sẽ được thân thể đẹp đẽ. Dĩ nhiên, giờ nếu mình chưa đẹp, thì nếu giữ giới này, kiếp sau, nếu giữ tất cả Năm giới này, sẽ được sinh làm người trở lại, với tất cả những điều tốt nầy. Không phải đọa địa ngục hay làm thú dữ, hay chịu bất cứ sự đau khổ nào. Nếu giữ gìn năm giới, quý vị cũng sẽ không được lên thiên đàng. Nếu chỉ giữ nam giới thôi, thì sẽ không thể lên thiên đàng được, ngay cả Thiên Đảng thấp hơn, nhưng ít ra sẽ được sinh làm người, khỏe mạnh, giàu có, và không có vấn đề gì. Giới thứ tư: Không nói dối, phải nói sự thật. Nếu giữ giới này, thì sẽ có phước báu được người đời kính trọng, những người trên hành tinh này, những người mình gặp, dù quý vị nói gì, người ta cũng sẽ tin. Giới thứ năm: Không được dùng chất làm say sưa như rượu và ma túy, nầy kia. Nếu giữ giới này, công đức đạt được là trí thông minh. Mỗi nhân đều có một quả. Ngài giảng dạy về năm giới luật, Đức Phật còn luôn ca ngợi năm hạnh bố thí, năm cách cúng dường, mang lại công đức vô lượng. Hạnh thứ nhất là nếu cúng dường hay bố thí cho người tới từ Phương xa. Hạnh thứ hai, nếu cúng dường cho người đang chuẩn bị đi xa, hạnh thứ ba là cúng dường cho người đang bệnh. Hạnh thứ tư, dĩ nhiên là cúng dường thức ăn cho người bị đói. Hạnh thứ năm là tốt nhất, cúng dường Giáo lý cho người nào muốn. Nên Ngài nói: Năm hạnh bố thí nầy, nếu biết và làm ngay, bất cứ khi nào có người cần, thì bây giờ, trong kiếp này, cũng sẽ được công đức. Rõ ràng, không cần đợi đến kiếp sau. |
Archives
January 2023
Categories |