Buddhist Stories The Story of Khuda, Aug. 24, 2015 Tôi có nghe (A Nan). Một thời Đức phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại núi Kỳ Xà Quật. Vào lúc đó Đức Thế Tôn bị cảm lạnh. Nhiều đệ tử đi triệu ông Kỳ Vực Y Vương, một bác sĩ nổi tiếng đến chăm sóc Đức Phật. Ông hòa 32 vị thuốc trong chén. Ông dâng lên và bạch với Phật rằng: “Kính lại Đức Thế Tôn, thời tiết năm nay bất hòa. Rất nhiều người mắc nhiều thứ bệnh lạ, con thành kính luyện thuốc này dâng Ngài. Cúi xin Ngài mỗi ngày dùng ba mươi hai lạng.” Đức Thế Tôn hoan hỷ thứ y dược và uống theo lời dặn và chủ nguyện của vị y vương. Nhưng vào thời đó, Đề Bà Đạt Đa luôn luôn vô cùng ganh tỵ với Đức Phật. Và người này cũng vô cùng tự cao tự đại. Ông muốn mọi người kính trọng ông cũng nhiều như Đức Phật. Mặc dù ông không có công đức tâm linh như Đức Phật. Bởi vì ông nghe nói Đức Phật uống y dược đặc biệt từ vị y vương ông cũng muốn uống. Vị y vương dâng lên Đức Phật và dặn mỗi ngày uống 32 lạng. Và Đề Bà Đạt Đa cũng gọi vị y vương đến và luyện một số y dược cho ông. Và rồi vị y vương cũng làm một số y dược và dặn rằng: “Thưa ngài thuốc này mạnh lắm ngài chỉ dùng bốn lang một ngày thôi.” Đề Bà Đạt Đa hỏi: “Đức Phật dùng một ngày mấy lạng?” Y vương: “Thưa ngài! Phật uống ngày 32 lạng.” y nói: “Vì lẽ gì Phật uống 32 lạng mỗi ngày mà ngươi cho ta chỉ bốn lạng mỗi ngày? Tại sao?” Y vương nói: “Phật khác, ngài khác. Nếu ngài uống nhiều như Đức Phật, tất bị tổn thương đến thân thể, ngài sẽ bị bệnh.” “Nếu ta uống hết bao nhiêu đó ta cũng có đủ lực tiêu hóa. Thân ta, thân Phật khác chi, để ta uống coi, có hiệu lực như Phật không.” Và rồi vị y vương nói: “Tùy ý ngài, nhưng xảy ra việc gì, tôi không chịu trách nhiệm.” “Dĩ nhiên, ông đừng lo.” Thế là Đề Bà Đạt Đa cân đủ 32 lạng và uống luôn một hơi. Sau đó ông ngã quay lơ, và lăn ra sắp chết. Mắt trợn ngược và sùi bọt mép. Rồi ông nhảy lên giường, và nhảy xuống đất, chạy khắp nơi, không chịu nổi, kêu la rên rỉ. Phật thấy thương xót cho ông nên từ xa ông duỗi cánh tay vàng và xoa đầu ông. Nhờ vậy Đề Bà Đạt Đa có thể tiêu hóa được liều thuốc mạnh này. Và ông không còn vấn đề nữa. Ông nhìn lên thấy bàn tay của Đức Phật. Ông thầm nghĩ: “Tất Đạt Đa có nhiều thần thông. Đối với thế giới này cũng vô dụng. Không thiết thực. Không thể sử dụng được nhiều. Hắn không có việc làm. Bây giờ hắn lại học nghề thuốc để cầu thêm danh lợi.” Sau khi nghe Đề Bà Đạt Đa nói những lời vô ơn nghĩa như vậy, A Nan quỳ xuống trước mặt Phật bạch rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn, Đề Bà Đạt Đa vô ơn bất nghĩa quá. Ngài vừa cứu ông ấy, ông không cám ơn Ngài thì thôi, lại còn nói xấu Ngài như thế, luôn ganh tỵ và tranh đấu với Ngày.” Đức Phật nói: “A Nan, không phải chỉ lần này. Đề Bà Đạt Đa, đời đời kiếp kiếp đã dùng rất nhiều muu kế xấu xa để hại ta bằng nhiều cách khác nhau.” Tôi lại hỏi Đức Phật: “Kính lạy Đức Thế Tôn, chẳng hay trong kiếp trước ông ấy làm hại thế nào? Xin cho chúng con được rõ.” Đức Phật nói: Ông hãy nghe kỹ, tôi vì ông mà nói. Đã từ lâu lắm rồi, hằng ức kiếp về trước, cũng ở Châu Diêm Phù Để này, có một vương quốc tên là Ba La Nại. Có nhà vua tên là Phạm Ma Đạt, tính rất hung tàn, không có từ tâm, lại ham mê sắc dục, và đủ loại lạc thú. Và ông hay gây ra nhiều đau khổ cho muôn dân. Như thể nọc độc trong tâm ong. Một hôm nhà vua nằm mộng thấy con thú tuyệt đẹp có lông vàng trên những đầu lông tỏa ánh sáng. Khi tỉnh giấc ông nghĩ: “Con thú ta nằm mộng thấy ắt phải có trên đời này. Ta phải tìm nó.” Thế là ông triệu tập tất cả thợ săn trong vương quốc lại và bảo họ: “Hôm nay ta mời các khanh đến đây, bởi vì ta muốn kể cho các khanh một chuyện. Trong giấc mộng, ta thấy con thú sắc vàng ngời sáng, trên những đầu lông phóng ra những tia sáng tứ phía. Ta chắc rằng trong rừng, hoặc trên núi nhất định có loại thú này. Vậy nếu các khanh đến đó, hãy đi khắp nơi tìm bắt nó rồi lột lấy da và mang về đây cho ta. Rồi ta sẽ trọng thưởng cho ngươi và con cháu bảy đời, có đầy đủ nhu yếu phẩm suốt đời. Nếu không thì ta sẽ xử trảm tất cả quý vị và cả gia tộc quý vị.” Tất cả các thợ săn nghe nhà vua dọa dẫm như thế, họ đều sợ toát mồ hôi. Bởi vì họ biết tánh nhà vua. Nhưng mọi người không biết trình bày làm sao, nên họ chỉ biết cúi lạy vua rồi lui ra. Và mọi người về nhà, tất cả các thợ săn hợp bàn. Họ nói với nhau: “Thưa bằng hữu việc này rất khó cho chúng ta. Bởi vì tôi là một trong những thủ lĩnh của nhóm. Từ thuở tôi biết dùng súng săn, từ nhỏ đến giờ, tôi chưa từng nhìn thấy con thú như vậy. Có lẽ đó chỉ là giấc mộng. Nhưng nếu chúng ta không thể bắt được con thú có bộ lông sáng và phát ra tia sáng như thế, thì tất cả gia tộc chúng ta sẽ bị sát hại. Chi bằng chúng ta đưa vợ con trốn sang nước khác.” Và một trong những thợ săn nói: “Thưa các bạn tôi nhận thấy trong núi này, gần chỗ vua và nơi vua thấy con thú. Nơi đây có rất nhiều thú dữ, rắn độc và đủ loại ác thú và trùng độc rất nhiều. Nơi đây rất nguy hiểm cho chúng ta. Có ngày đi mà không hẹn ngày về. Thế nên có lẽ bọn ta chỉ mướn người khác làm hộ là hơn.” Mọi người đều tán thành. Sau một hồi tìm kiếm họ tìm được một người sẵn lòng đi. Anh là người nghèo, anh không có gì nhiều trong nhà. Vậy nên anh nghĩ: Tốt hơn là đi làm việc này, lỡ như trở về vẫn còn có tiền hơn là ở nhà dù sao cũng chết đói thôi. Nhưng trước khi anh đi, họ làm kiểu như giấy cam đoan, nói: “Anh hãy an tâm vào rừng núi làm việc được giao và săn hộ con thú lông vàng trên đầu lông có ánh sáng. Nếu anh được bình an trở về, chúng tôi sẽ trọng thưởng cho anh rất nhiều vàng bạc. Nếu chẳng may mất mạng trong núi, chúng tôi sẽ mang số vàng bạc đó cho vợ con anh dùng và chăm sóc họ.” Nhưng người nầy thầm nghĩ. Ô mình làm việc này cũng là để cứu mạng sống của họ. Dù có chết cũng cam lòng. Người này cũng là một người rất cao thượng. Sau khi nghĩ như thế anh nói với các thợ săn: “Thưa các bằng hữu, đừng lo lắng. Tôi xin bảo đảm việc đó và làm hết sức mình. Tôi nguyện rằng nếu không thành công, tôi sẽ không trở về.” Vì vậy mọi người đều rất vui mừng. Va sắm sửa cơm hộp lương thực để anh lên đường. Khi bắt đầu lên đường, mọi người đều chúc anh vạn sự tốt lành. Trong nhiều ngày liền, anh trải qua rất nhiều nguy hiểm, và lương thực đã gần hết. Rồi từ từ, dần dần, anh không còn thức ăn nửa, bị đói khát. Thân thể trở nên ốm yếu. Anh cảm thấy đã kiệt sức. Rồi sau đó anh cũng phải băng qua sa mạc cát nóng. Gần như chờ chết. Trong phút cuối, anh cầu nguyện: Có ai ở đó không, xin nhủ lòng từ bi, giúp tôi với. Khi đó trong núi ấy có loại thú tên là Cừ Đà. Thân thể thú có lông vàng, và tất cả lông phát ra ánh sáng khắp mọi hướng. Chú không phải là loài thú bình thường. Chú có thể nghe rất xa. Vì vậy, chú nghe tiếng kêu cứu của anh thợ săn. Chú động lòng thương, dấn thân đi tìm. Chú băng qua dòng suối nước lạnh và cát nóng để tìm người đó. Tới nơi, chú thấy một người nằm phơi trên mặt đất, hầu như sắp chết. Khi đó vì khí hậu lạnh, trong sa mạc, nên thú lông vàng đến và dùng thân mình ôm người ấy để che chở anh, giữ cho anh ấm. Sau một hồi, từ tình trạng kiệt sức, người đó tỉnh dậy. Và rồi chú mang anh tới khe nước trong vắt. Chú tắm gội lau chùi cho anh, và cho anh uống nước. Xong rồi chú để anh ở đó và đi khắp nơi để tìm hoa quả ngon ngọt, đem về cho người nầy ăn. Sau đó người này trở lại bình thường, khỏe mạnh. Sau khi anh tỉnh dậy, anh thấy con thú đó. Anh thầm nghĩ: Ô, đây là con thú có lông mà mình đi săn bắt, nhưng khi ta gặp nguy cùng cực, chú đã cứu mạng sống của ta. Ơn ấy ta chưa đền đáp. Nở lòng nào còn hại chú? Nhưng nếu không bắt chú mang về cho nhà vua thì nhiều người sẽ chết. Anh cảm thấy rất khó xử, không biết làm sao. Lúc đó Cừ Đà, con thú hỏi anh: “Tại sao anh không vui?” Người này rơi lệ đáp: “Vì tôi đang nghĩ tới một việc riêng, rất khó quyết định. Cừ Đà hỏi tiếp: ‘A, vấn đề gì vậy? Anh có thể nói cho tôi nghe không?” Anh thợ săn nói: “Ô việc này rất khó giải quyết và tôi cũng không dám nói.” Cừ Đà tiếp tục ép hỏi: “Xin cứ nói. Có lẽ tôi giúp được anh.” Sau khi chú cứ thúc ép. Anh thợ săn kể hết sự tình. Cừ Đà rất vui mừng hoan hỷ. Chú nói: “Ô, việc này dễ mà. Nếu anh muốn, tôi có thể biếu da của tôi. Anh nên biết rằng, nếu tôi đem những kiếp đầu thai, và sinh tử của tôi. Thì đây đã vô số lần rồi. Anh không thể tưởng tượng là tôi đã sống bao nhiêu kiếp, để chết bao nhiêu kiếp. Nhưng tôi chưa từng làm được việc gì hữu ích cả, với thân thế mà tôi có. Vậy nên lần nầy hôm nay tôi có thể dùng da tôi để giúp anh và nhiều người khác, thì đó là điều tốt nhất. Điều đó làm tôi rất vui. Anh cứ việc lột da tôi, lột lông của tôi. Nhưng xin đừng giết tôi quá nhanh. Tôi không thấy hối tiếc, chỉ là đừng giết tôi nhanh quá.” Anh thợ săn nghe con thú Cừ Đà nói và anh vẫn không thể quyết định. Anh thấy rất buồn. Nhưng rồi vì mạng sống của nhiều người, nên anh bất đắc dĩ phải làm vậy, lột da sống như thế. Trong đời sống chúng ta hiện nay, nhiều loài vật cũng chết như thế, nhất là chó. Không cần phải là thú lông vàng. Mỗi năm hàng tỉ con vật bị giết như vậy. Cừ Đà có lời thề rằng: “Tôi chính tôi, thành tâm hy sinh da và lông này để cứu nhiều mạng sống. Nguyện đem công đức hướng về tất cả chúng sinh để họ có thể được giải thoát và thoát khỏi sinh từ, cùng tất cả đau khổ rồi về nơi Niết Bàn.” Sau khi con thú Cừ Đà nguyện vừa xong, 3000 thế giới chấn động sáu lần. Nhiều thiên cung nghiêng ngửa, quay cuồng. Nhiều thiên nhân, nhiều thiên vương đều rất kinh ngạc. Nên họ nhìn xuống xem chuyện gì xảy ra. Khi đó họ thấy một Bồ Tát lột da bố thí, cứu sinh. Vậy nên tất cả họ từ Thiên Đàng bay xuống, tung hoa cúng dường con thú ấy. Ai nấy đều rơi lệ. Lột da xong, toàn thân chú đỏ như gấc chín, huyết chảy lênh láng. Nhìn rất rùn rợn. Rồi ruồi kiến bu xúm xít đầy mình, rỉa thịt uống huyết. Thật đau đớn cho chú, chú muốn quay mình lại nhưng sợ làm hại chết loài ruồi kiến nên đành phải đứng vậy không dám động đậy. Chú cố chịu đựng. Sau khi những loại con trùng nầy ăn thịt uống huyết của chú. Sau khi chết đi chúng được sinh trên Thiên Đàng. Người thợ săn được da từ thú lông vàng mang về vương quốc. Nhà vua rất, rất hài lòng, khen ngợi và ban thưởng cho anh rất nhiều tiền và vàng bạc, tước lộc ngôi cao. Nhà vua dùng lông thú đó để trải giường nơi ông ngủ. Mỗi khi ngủ trên tấm lông đó ông cảm thấy rất an lạc. Tới đây Đức Phật nhắc lại cho A Nan biết rằng: “A Nan ông nên biết Cừ Đà lúc đó là ai? Là tiền thân của ta, một trong những tiền thân của ta. Vua Phạm Ma Đạt, nhà vua lúc đó nay là ông Đề Bà Đạt Đa. Những ruồi kiến ăn thịt, và uống huyết ta thuở đó khi ta mới đắc quả vị Phật, tất cả họ ta giảng đạo và tất cả họ đã lên Thiên Đàng. Đề Bà Đạt Đa làm tổn thương tánh mạng ta và gây đau khổ cho ta. Tới nay, ông không bao giờ có một chút thiện tâm gì đối với ta. Suốt ngày ông chỉ nghĩ cách để hại ta mà thôi. Lúc đó tôi, A Nan và đại chúng nghe Đức Phật nói thế ai nấy đều rất buồn, và cảm động trong lòng. Nhiều người vì điều đó đã bắt đầu tu hành tinh tấn hơn nên họ đạt quả vị Tư Đà Hoàn, A La Hán v.v.. Ai nấy đều vui vẻ và chào Phật và rút lui.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |