20150808-Karma of Being Unfair Có một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ, tại tịnh xá Kỳ Đà, khu vườn lát vàng và giảng pháp trước đại pháp hội về nhiều điều khác nhau. Trong thành đó có một gia đình rất giàu có năm cô con gái nhưng không có con trai. Đang lúc vợ ông mang thai thì ông vãng sinh. Lúc ấy trong nước đó nếu gia đình nào không có con trai sau khi cha mẹ qua đời thì tất cả tài sản sẽ thuộc về chính phủ, trở thành tài sản công. Nghĩa là họ tịch thu tất cả tài sản của gia đình nào không có con trai. Đây là pháp luật thời đó. Vì vậy, sau khi ông trưởng giả chết, chính quyền địa phương đến muốn tịch thu tất cả tài sản. Người con gái lớn trong gia đình đó đến tâu vua: “Tâu bệ hạ cha con mới chết, nhà con không có con trai. Nhưng vào lúc này, mẹ con đang mang thai. Vậy xin bệ hạ hoãn việc tịch thu lại cho tới khi mẹ con sinh em bé được không? Ai biết được? Có lẽ đó là bé trai. Nếu vào lúc đó, mẹ con sinh con gái. Thì bệ hạ vẫn có thể tịch thu tài sản của chúng con. Vậy cũng chưa muộn, chưa quá muộn.” Cho nên, nhà vua Ba Tư Nặc, sau khi nghe cô tâu có lý, khen phải, và chấp nhận. Vua nói: “Được, con nói có lý. Phải lắm. Ta sẽ bảo quan viên địa phương trì hoãn việc tịch thu. Đừng lo.” Rồi cô bái tạ lui ra, và về nhà. Không lâu sau, mẹ của cô gái hạ sinh một bé trai. Nhưng chỉ có một thứ là con trai, đó là bộ phận của người đàn ông. Ngoài ra cậu không có gì nữa. Không có tay, không chân, không tai, không mắt, miệng lưỡi. Cho nên nhìn giống một cục thịt. Nhưng tuy vậy, bộ phận đàn ông trong rất rõ ràng. Cho nên, đó là nam tử. Rồi cô gái lớn đến tâu vua một lần nữa và trình bày rõ cho ông nghe. Vua nghe xong, ngẫm nghĩ một hồi rồi nói rằng: “Phải, em trai con tuy thế, nhưng cũng có một nam căn, vậy thì cũng kể là con trai. Vậy được, tất cả tài sản nầy thuộc về các con, chính phủ sẽ không lấy nữa. Vua tốt! Thế rồi cô gái lớn nói lời cảm ơn nhà vua và cáo lui. Mặc dù họ giữ lại được tất cả tài sản, cô vẫn cảm thấy rất buồn. Cô cảm thấy như là: Một đứa em trai nhìn không giống người chút nào. Vậy mà vẫn giữ được gia tài. Còn con gái thì không có giá trị gì hết. Cô cảm thấy không công bằng. Nên sau đó, cô rất giận, giận gì là phận gái và giận vì hệ thống luật pháp bất công. Rồi cô bỏ nhà, đi hầu hạ các nhà khác. Và từ sáng đến tối, cô nấu ăn, dâng thức ăn, trà và mọi thứ vô cùng kính cẩn, từ tốn, không khác gì người tớ gái nhà họ. Ở gần gia đình mà cô tự nguyện đến làm gần như giống như người tớ gái, mặc dù cô không cần phải làm vậy, có một ông trưởng giả khác, không phải cùng chung gia đình mà cô giúp việc. Mà là gần đó đến hỏi: “Cháu ngoan, nhà cháu giàu có. Mà sao cháu phải đến đây làm người tớ gái như vậy? Sao cháu phải làm thế?” Lúc đó, cô gái nói với ông trưởng giả: “Kính thưa bác, cha cháu chết rồi. Gia đình cháu không thiếu thốn gì cả, nhà cháu rất giàu. Nhưng trong nhà có năm chị em gái. Cho nên thường thì gia tài này sẽ thuộc về chính phủ. Nhưng may sao mẹ cháu sinh được đứa em trai, trong không giống con người chút nào. Không mắt, không cánh tay, không tai, không lưỡi, không chân, chỉ như một miếng thịt vậy. Và chỉ có một thứ đàn ông của nó là nam căn. Những mặc dù vậy, nhà vua vẫn nói đó là đàn ông, cho nên vua trả tài sản cho em trai cháu. Cháu nghĩ rằng làm phụ nữ thật vô dụng, bất lực, không xứng đáng, không giá trị. Vì vậy cháu rất buồn. Cho nên, cháu đến đây để làm việc.” Nghe vậy ông trưởng giả nói: “Ô, thôi con đừng quá buồn. Nếu cháu muốn giải thoát khỏi kiếp đàn bà, và kiếp sau được làm thân nam thì đi cùng với bác đến đảnh lễ Đức Phật.” Thế là cô gái đi cùng với ông trưởng giả. Và sau khi bái lạy Đức Phật, và đảnh lễ Ngài, ông trưởng giả nói: “Kính lạy Đức Thể Tôn cậu Mạn Tư Tỳ Lê đã có công đức gi, có nhân duyên gì mà được sinh vào một gia đình giàu sang? Và cậu đã phạm tội gì đến nỗi khi sinh ra, tuy làm thân nam nhưng không có giác quan. Cúi xin Ngài chỉ bảo cho chúng con rõ.” Rồi Đức Phật nói: “Nếu muốn biết, ta sẽ kể các con nghe. Câu chuyện đã lâu rồi, nhiều kiếp về trước. Có hai anh em trong một gia đình rất giàu có. Người anh có tên là gì đó, người em có tên là gì đó. Rồi người anh rất đạo đức, là người quân tử, trung chính và thường hay làm hạnh bố thí. Những người nghèo có thể đến với ông. Ông sẽ bố thí, giúp đỡ họ, cho đến khi họ trở nên khá hơn. Thế nên cả quốc gia rất kính nể người anh. Rồi sau đó, nhà vua cũng nghe kể về ông. Do đó, nhà vua ban cho ông chức Bình Sứ. Bởi vì nhà vua nghĩ là ông sẽ rất công bằng liêm chính đối với cả quốc gia. Ông làm chức Bình Sứ để xét những việc kiện tụng trong nước. Theo luật pháp nước nầy thời đó, những người muốn vay mượn tiền không cần viết văn tự gì phức tạp. Chỉ cần đến chỗ quan Bình Sứ này. Nếu ông chứng nhận là đủ rồi. Có một gia đình giàu có khác tên là Thi La Thế Chất. Ông vô cùng giàu có, thường cho vay tiền để lấy lãi. Một lần nọ, có một người lái buôn đến vay ông một số tiền rất lớn để đi buôn. Và ông đồng ý cho vay. Trước khi giao tiền, cả hai người đi đến trước ông Bình Sứ để làm chứng. Lúc đó ông dẫn theo đứa con con trai nhỏ của ông. Ông chỉ có một đứa con trai, cậu bé hãy còn nhỏ. Rồi ông đến và nói: “Thưa quan Bình Sứ người lái buôn nầy mượn em một số tiền lớn để đi ra nước ngoài buôn bán. Xin vui lòng làm chứng cho em. Nếu em chết sớm, thì con trai của em đây. Người lái buôn phải trả lại tiền cho nó.” Thế là quan Bình Sứ nói: “Không sao hãy yên tâm. Điểm chính là người lái buôn sẽ đi buôn và an toàn trở về và buôn bán thuận lợi.” Sau một thời gian, người cha Thi La Thế Chất chết thật. Người lái buôn ra khơi buôn bận. Nhưng không may gặp trận bão làm đắm thuyền. May thay ông tìm được một khúc gỗ và bám vào nó rồi thoát chết trở về nhà. Vào lúc nầy cậu con trai đã khôn lớn một chút. Cậu nghe kể người lái buôn gặp chuyện không may, thuyền của ông bị đắm và tất cả hàng hoá bị mất hết. Vì vậy cậu con trai không đến để đòi nợ. Lúc đó có một người khác giàu hơn thương tình ông lái buôn nên cho mượn một số tiền để có cơ hội thứ hai. Và sau khi ra khơi lần này, ông gặp may, buôn bán rất thuận lợi, kiếm được rất nhiều tiền, và trở về với một chiếc thuyền lớn chở đầy vật quý từ các quốc gia khác ở hải ngoại. Nào là vàng bạc, châu ngọc, và đá quý. Cho nên khi trở về, ông mời anh em họ hàng và thân hữu đến ăn uống vui mừng, rồi trả các món nợ. Nhưng món nợ từ Thi La Thế Chất quá lớn cho nên ông không có lòng muốn hoàn trả. Ông nghĩ chuyến đi trước khi ta trở về từ vụ đắm tàu con trai ông ta không hề nói gì. Có lẽ bởi vì khi ta vây tiền cậu con trai còn bé quá nên không nhớ. Hoặc có lẽ cậu ta thấy mình không có đủ tiền do buôn bán thua lỗ nên cậu không hỏi. Vậy có lẽ ta sẽ thử xem cậu ta có thật sự nhớ hay không. Cậu ta nghĩ thế nào về món nợ mình đã mượn của cha cậu?” Thế là, ông mặc áo đẹp nhất, cưỡi ngựa đẹp, rồi đi đến chợ. Khi đến chợ, ông gặp cậu con trai của Thi La Thế Chất. Con trai của Thi La Thế Chất hỏi ông: “Tất Bạt, dạo này, tôi nghe nói ông buôn bán phát tài. Ông kiếm được rất nhiều tiền. Có phải hôm nay ông định đến đây để hoàn trả số nợ mà ông mượn của cha tôi ngày trước?” Tất Bạt giả vờ ngẫm nghĩ và nói: “Tôi không hiểu tiền gì vậy? Tôi nghĩ cậu lầm rồi. Đó là một người khác, không thể nào là tôi. Cậu về nhà và xem lại sổ sách cha cậu đã viết ai mượn bao nhiêu. Coi lại xem.” Vậy là ông không muốn trả nợ. Do đó khi về đến nhà, ông biết rằng cậu bé còn nhớ. Ông cầm một viên ngọc rất quý đi sang nhà quan Bình Sứ. Nhưng ông không nói chuyện với quan Bình Sứ, mà nói với người vợ: “Kính thưa bà, tôi có mượn một số tiền từ Thi La Thế Chất, số tiền nhỏ, nay con ông muốn đòi nợ. Bây giờ đối với gia đình tôi đó là số tiền khá lớn. Cho nên tôi xin biếu bà viên ngọc quý nầy trị giá 100.000. Nếu cậu ấy đến kiện tôi, thì xin bà nói với quan lớn hãy bác đơn đi để tôi không phải trả số nợ đó.” Người vợ nói: “Ô, không được! Chồng tôi rất thắn thắng 100 phần trăm, rất thành thật, rất công bằng. Tôi không dám nói. Ông mang viên ngọc của ông về nhà đi.” Thế là người lái buôn nầy cố gắng dùng tài ngoại giao nói ngọt đủ điều. Rồi sau một lúc, người vợ mềm lòng, nên nói thôi hãy để đó tôi sẽ bàn với chồng tôi sem sao. Đến tối người chồng về bà nói với ông. Ông lập tức gạt phắt đi: “Đừng nói với tôi những điều như vậy! Thứ nhất nó là cháu tôi. Thứ hai tôi được nhà vua và người dân tin cậy giao cho công việc này. Tôi không thể làm việc phi pháp này. Nếu ngày mai người lái buôn đó đến một lần nữa bà kêu lính đuổi ông ta đi.” Ngày hôm sau, người lái buôn trở lại một lần nữa. Rồi bà nói với ông ta là không được. Tôi có nói với chồng tôi nhưng ông ấy hoàn toàn không muốn. Vậy ông hãy mang viên ngọc đi đi.” Sau đó người lái buôn, suy nghĩ một lúc rồi ông đưa ra thêm hai viên ngọc và ông nói với phu nhân: “Thưa bà lớn chuyện nhỏ thôi mà, bà chỉ cần nói với ông vài câu, không cần phải làm gì nhiều đâu.” Ông cứ năn nỉ. Rồi bà ta nghe êm tai, lòng tham nổi lên bà nói: “Thôi hãy để đó tôi sẽ lo cho.” Sau đó, khi ông chồng về nhà, bà cứ nài nỉ và nói ngọt rất nhiều. Nhưng ông nói không được. Rồi ông trở nên tức giận. Cuối cùng ông nói: “Không có chuyện như thế, chuyện vô lý. Tôi là một người đáng tin cậy trong quốc gia này, nếu tôi làm một việc như là nhận hối lộ thì không chỉ trong kiếp này người dân sẽ mất lòng tin nơi tôi mà ở kiếp sau tôi sẽ phải gánh nghiệp báo kinh khiếp. Làm ơn quên chuyện đó đi.” Rồi ông đứng lên đi vào phòng nghỉ. Lúc đó vợ ông mới sinh được một bé trai. Rồi bà cũng tức giận, bế đứa bé theo ông vào phòng và rất giận dỗi. Bà nói: “Ông và tôi kết duyên với nhau, hai thân như một. Cho dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta sẽ không bỏ nhau hoặc làm trái ý nhau. Đây chỉ là chuyện nhỏ thôi. Tôi đã nói hết lời để cầu xin ông, vậy mà ông vẫn không nghe. Thế thì tôi không còn thiết sống nữa. Nếu ông không giúp tôi việc này thì tôi sẽ giết đứa con trai trước, rồi tôi sẽ tự sát cho rồi.” Ông bình sứ không biết phải làm sao. Rồi ông thầm nghĩ: “Mình chỉ có một đứa con trai. Nếu nó chết, thì tất cả gia nghiệp này, mình sẽ giao cho ai? Nhưng nếu nghe theo lời vợ thì mình sẽ phạm pháp. Trong đời này, không ai sẽ tin mình nữa. Và kiếp sau, mình sẽ chịu khổ vì tội lỗi này.” Thật khó giải quyết. Rồi người vợ cứ đứng đó dùng hết sức lực cằn nhằn ông. Rồi sau một lúc, bà vẫn không lay chuyển. Thế rồi ông nói được, được. Hãy yên tâm, tôi sẽ thu xếp việc đó. Rồi sau đó, người đàn bà rất vui sướng. Sáng hôm sau người lái buôn đến gặp bà. Bà tươi cười nói: “Quan lớn đã nhận lời, và hứa sẽ lo liệu. Đêm qua, tôi phải thật sự làm ráo riết. Bằng không ông ấy không chịu làm việc đó đâu.” Thế là người lái buôn cũng vô cùng vui sướng. Cảm ơn bà rất nhiều. Sáng hôm sau, ông thức dậy thật sớm, mặc áo đẹp nhất. Lần này không chọn một con ngựa, mà là một con voi , rồi cưỡi voi ra chợ. Con trai của Thi La Thế Chất, thấy cảnh đó. Cho nên cậu nghĩ: “À, hôm nay, có lẽ người lái buôn này đến để trả lại số tiền ông ấy mượn của cha mình.” Nhưng rồi ông ấy đi ngang qua, không nói lời nào hết. Thấy vậy cậu đến hỏi: “Này Tất Bạt có phải bây giờ ông sẽ trả tiền cho tôi số tiền ông đã mượn của cha tôi không?” Rồi ông này, vì đã được quân Bình Sứ và phu nhân nâng đỡ, nói: “Cái gì? Cậu đang nói vớ vẫn gì vậy? Tiền gì? Tôi chưa bao giờ mượn gì từ cậu hoặc từ cha cậu cả. Nếu tôi có mượn tiền từ cha cậu, thì phải có người nào đó làm chứng, phải không?” Vì vậy cậu con trai nói: “Đúng! Ông quên quan Bình Sứ đã làm chứng sao?” Người lái buôn nói: “Tôi không biết gì về điều đó. Nếu cậu không hài lòng, thì đến chỗ quan Bỉnh Sứ mà hỏi.” Rồi cả hai người đến gặp quan Bình Sứ. Và dĩ nhiên, cậu con trai nói: “Thưa bác, người này có mượn của cha con một số tiền. Lúc ấy bác đã làm chứng, và con cũng có ở đó. Xin bác xét xử cho.” Quận Bình Sứ nói: “A, cháu trai cháu quên đấy. Việc này bác không biết. Về nhà đi. Đừng kiện tụng lôi thôi nữa. Hãy về nhà đi.” Cậu con trai nói: “Không, lúc đó bác nói với cha con là đừng lo, bác còn lấy tay con chỉ vào số tiền đó và nói: “Đừng lo tôi sẽ làm cho ông ấy trả tiền cho con. Tại sao bây giờ bác nói là bác không biết?” Rồi quan Bình Sứ nói: “Cháu biết, bác là người xét xử cho cả nước. Làm sao bác làm trái pháp luật được? Đừng nói nhiều nữa. Hãy về đi!” Cậu con trai nói: “Thưa bác, bác là người công bằng trung chính, bởi vậy nhà vua mới phong cho bác làm quan Bình Sứ. Cả nước tín dụng bác. Hơn nữa, con là cháu của bác. Sao bác có thể đối xử với con như vậy! Sao bác có thể phân xử bất công như thế? Được rồi. Sao cũng được, con cũng không biết làm sao. Có lẽ kiếp sau, bác sẽ hiểu Cậu con trai nói vậy với ông bác. Rồi lúc đó, Đức Phật quay sang ông trưởng giả và nói: “Trưởng giả ông nên biết quan Bình Sứ thuở đó nay chính là cậu bé Mạn Tư Tỳ Lê, người không tai, không mắt, không mũi, không lưỡi, không miệng, không tay, không chân. Bởi vì một lời nói dối thời đó, ông phải đọa địa ngục và chịu khổ khôn cùng trong một thời gian dài. Sau khi chịu xong bản án ở địa ngục trong 500 năm, ông sinh ra trong tình trạng tương tự như hiện giờ, mặc dù ông có công đức được sinh vào gia đình phú quý có quyền thế, bởi vì ông thường làm từ thiện và bố thí cho người nghèo.” Nhưng dù vậy, bởi vì một lần phán xử sai lầm gây hại tới tài sản của người khác, cho nên ông phải sinh ra 500 năm trong tình trạng này. Mặc dù ông đã làm rất nhiều việc thiện, bố thí rất nhiều thứ cho rất nhiều người. Nhưng ông không thể thoát được. Ông có công đức từ thiện. Do đó, ông luôn luôn sinh ra trong gia đình giàu có và có mọi thứ ông cần. Chỉ vì nghiệp phán xử sai, ông phải chịu như vậy. Do vậy Đức Phật nói: “Vì thế các ông cũng nên chăm chỉ giữ gìn thân khẩu ý cho cẩn thận. Đừng tạo ác nghiệp như người đàn ông này.” Mọi người đều nghe. Họ cảm thấy rất sợ hãi, nhưng đồng thời cũng được khai ngộ. Một số người đạt được đẳng cấp tu hành sơ quả. Và người khác đạt được đẳng cấp tu hành Tứ quả ở đó. Và một số khác cũng phát tâm muốn đạt quả vị Phật. Ai nấy đều rất vui mừng và cũng kính lễ Đức Phật rồi ra về.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |