Buddhist stories: The Brahmin With a Single Robe – Europe, Sep 18,2015 Hãy mau làm điều lành. Phật dạy câu trên khi ngụ tại tịnh xá Kỳ Viên, liên quan đến Bà-la-môn Tiểu Nhất Y Culla Ekasataka. Thời Phật Tỳ-bà-thi (Vipassi) có một người Bà-la-môn, tên là Maha Ekasataka hay được gọi là Đại Nhất Y”. Kiếp hiện tại tái sanh ở Xá Vệ là Culla Ekasataka, giờ được gọi là Tiểu Nhất Y. Ông chỉ có một cái quần khố duy nhất. Vợ ông cũng vậy, và cả hai xài chung cái áo khố. Như vậy khi anh Ba-la- môn nầy hoặc vợ ra khỏi cửa thì người kia phải ở nhà. Một hôm người ta loan báo có thuyết pháp tại tịnh xá. Mình đi nghe pháp ban ngày hay bạn đêm?” Họ hỏi nhau như vậy. Vì chúng ta không có đủ áo khố, không thể đi cùng nhau được.” Vợ người bà-la-môn trả lời: “Anh à, em đi ban ngày.” Nói vậy rồi cô vợ mặc áo khố đi nghe pháp. Người Bà-la-môn ở nhà ban ngày. Ban đêm ông đến tịnh xá, ngồi trước mặt Đức Phật, lắng nghe Phật. Khi ông nghe Pháp, ông nhận đuoc 5 loai pháp hỷ tràn ngập khắp thân thể. Vì vậy, ông phát tâm cúng dường Phật. Nhưng tư tưởng sau đó ngăn cản ông. Ông suy nghĩ: “Nếu dâng y này đến Thế Tốn thì không còn aó khố nào cho ta và vợ ta.” Một ngàn ý niệm ích kỹ không dâng y nỗi lên bên trong, thì có một ý niệm sùng tín lại muốn dâng y. Rồi những tư tưởng vị kỷ nổi lên trong đầu ông và trấn áp tư tưởng sùng tín. Dù vậy, tư tưởng vị kỷ mạnh mẽ đã chặn lại, như thường lệ, và buộc chặc rồi đẩy tư tưởng sùng tín ra ngoài. Nên ông tranh đấu bên trong. Ta sẽ dâng y. Không, không dâng. Sẻ dâng y. Không, không dâng.” Vì anh ta cứ tranh chấp bên trong như vậy, đến khi canh một trôi qua và canh hai lại đến. Và rồi ông vẫn chưa dâng y lên Thế Tôn. Đến canh cuối, người Bà-la-môn nghĩ rằng hai canh đã trôi qua, nếu cứ giằng co mãi giữa ý niệm và sùng tín và ý niệm vị kỷ. Nếu như sự thoải mái bản thân, quan tâm bản thân và ích kỷ nổi lên thì sẽ không nhắc đầu ra khỏi bốn đường khổ.” Ít ra ông còn biết điều đó. Ta sẽ vì vậy mà cúng dường. Vì thế, người Bà-la-môn cuối cùng chinh phục được hàng ngàn tu tưởng vị kỷ và chỉ nghe theo một tư tưởng sùng tín. Lấy y đặt dưới chân Thầy, nghĩa là Đức Phật. Ông kêu to ba lần: “Ta đã chế ngự được! Ta đã chiến thắng.” Vua Ba Tư Nặc xứ Kosala tình cờ cũng đang nghe Pháp lúc đó, khi nghe người đó la lớn, ông sai thuộc hạ đến hỏi chuyện. Hỏi xem ông ta chiến thắng gì vậy? Người của vua hỏi ông Bà-la-môn câu đó và người Bà-la-môn giải thích ngọn ngành cho họ nghe. Khi nhà vua nghe được lời giải thích, vua nói: “Việc người Bà-la-môn thực hiện quả là một việc khó khăn. Ta sẽ ban ân huệ cho ông.” Thấy không, ngay lập tức nhận được phước báu về việc thiện mà anh đã làm. Thật ra Đức Phật ban ân cho ông khi Ngài nhận cái áo khố hôi hám, cũ nát chắp vá. Cho nên nhà vua nghĩ là ông sẽ ban ơn cho người Bà-la-môn, Người nói đã chiến thắng sau khi hết câu chuyện. Rồi nhà vua thưởng cho ông hai bộ y phục ngay lập tức. Người Bà-la-môn cũng dâng y phục được tặng này cúng dường Như Lai, nghĩa là Đức Phật. Vua lại tặng ông gấp đôi, lần đầu là hai bộ rồi bốn bộ, tám bộ, cuối cùng mười sáu bộ. Người Bà-la-môn dâng hết cho Đức Phật. Nhà vua lại ra lệnh tặng 32 bộ còn lại cho người Bà-la-môn. Nhưng để tránh nói, tránh nói rằng: Người Bà-la-môn không giữ bộ nào cho mình, mà cúng dường tất cả những bộ mà ông nhận được,” nên vua nói với người Bà-la-môn: “Hãy giữ một bộ cho ông và đưa một bộ cho vợ ông. Nói vậy, nhà vua muốn người Bà-la-môn giữ hai bộ và để ông cúng dường 30 bộ còn lại cho Như Lai. Dù người Bà-la-môn có dâng hết những gì ông có đến một trăm lần, vua cũng vẫn đáp ứng tương xứng. Trong một tiền kiếp Đại Nhất Y giữ hai bộ trong 64 bộ nhận được. Tiểu Nhất Y giữ hai bộ trong số 32 bộ. Ô, bởi vì ông nhỏ hơn. Vua ra lệnh cho quân hầu: “Người Bà-la-môn thật sự đã làm một việc rất khó làm, nên tìm hai cái mền trong ngự phòng của ta.” Quan hầu tuân lệnh. Vua mang tặng ông hai cái mền, mền đó trị giá đến một ngàn đồng. Nhưng người Bà-la-môn thầm nhủ: “Ta không xứng đáng được đắp những cái mền nầy. Mền đó chỉ thích hợp với giáo đoàn của Phật.” Cho nên ông lấy một cái mền làm thành cái màn che, và treo trong hương thất để che giường của Thế Tôn. Cũng như vậy, ông làm một cái màn che từ cái mền kia, và treo trong nhà ông để che nơi các tỳ kheo thường đến thọ thực. Buổi tối vua đến thăm Đức Phật, nhận ra mền bèn hỏi Phật: “Thưa Ngài, ai là người vinh danh Thế Tôn món quà chăn mền làm thành lòng như vậy?” Đức Phật đáp: “Tiểu Nhất Y cúng dường.” Vua tự nhủ: “Thậm chí khi ta có niềm tin và hoan hỉ với niềm tin đó, thì người Bà-la-môn này cũng tin tưởng và hoàn hỉ như vậy. Do đó ta tặng cho ông ta bốn voi, bốn ngựa, bốn ngàn đồng, bốn phụ nữ, bốn tỳ nữ và bốn ngôi làng tốt nhất.” Do đó nhà vua khiến cho người Bà-la-môn được Quả Bốn Món. Chà! Các Tỳ kheo bắt đầu bán tán trong Pháp đường: “Ổ! Việc làm của Tiểu Nhất Y thật kỳ diệu! Ông sớm được quà tặng mọi thứ bốn cái! Ngay khi ông làm việc thiện, phước báu đến liền.” Thế tôn đến gần hỏi: “Này các Tỳ kheo, các ngươi ngồi đây bàn chuyện gì vậy?” Khi nghe kể xong, Ngài nói: “Các Tỳ kheo! Nếu Tiểu Nhất Y cúng dường cho ta vào canh đầu, ông đã nhận được quà tặng mọi thứ mười sáu cái. Nếu ông có thể làm vậy vào canh giữa, ông đã nhận món quà mỗi thứ tám cái.” Nghĩa là tám voi, tám phụ nữ, tám nô tỳ và tám ngôi làng, vân vân… Nhưng vì để trễ đến canh cuối. Hầu như thời điểm cuối cùng của canh cuối ông mới cúng dường ta món quà, nên ông chỉ nhận mỗi thứ bốn cái. Ai làm việc thiện đừng chần chờ, mà phải làm tức khắc. Một việc công đức làm chậm trễ đem lại phước báu cũng chậm trễ. Do đó ta phải làm việc thiện ngay khi có sự thôi thúc trong lòng.” Nói xong để cho thấy sự liên kết và đạo Pháp, Ngài đọc pháp cú: “Hãy gấp làm điều lành. Ngăn tâm làm điều ác. Ai chậm làm việc lành thì ý ưa thích việc ác.”
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |