Câu Chuyện Truyền Kỳ Của Một Vị Đạo Trưởng Hồ đồng tu Nam Đầu, Formosa kể Thường trú Tây Hồ, Formosa ghi chép, Bản tin từ 41 đến 44 Trí Huệ Sẵn Có, Thiên Nhãn Khai Mở Thuở nhỏ Hồ Đạo Trưởng sống trong một gia đình rất đặc biệt. Ông nội và cha đều là những vị đạo sĩ rất nổi tiếng đương thời, tinh thông địa lý, biết vẻ bùa niệm chú, biết trừ ma đuổi quỉ. Lúc Đạo Trưởng còn nhỏ được cha truyền cho pháp thuật, thuở thiếu thời đã mở thiên nhãn, thấy được thế giới vô hình và câu thông được với chúng sanh vô hình. Suốt cả cuộc đời, Đạo Trưởng đã tốn hết công sức và tiền bạc để tìm minh sư học Đạo. Trước sau Đạo Trưởng đã thọ giáo với hai mươi vị thầy. Nhưng ông kết luận chỉ có ba vị thật sự là người đắc Đạo có lực lượng. Một vị là đệ nhất kỳ nhân của đạo gia Formosa, Tổ Sư Lưu Bội Trung, thuộc tông phái Côn Lôn Tiên. Một vị là cao tăng Phật giáo, Quảng Khâm Lão Hòa Thượng (Trong một lần thiền định, ông thấy thân thể của Quảng Khâm Lão Hòa Thượng phát ra ánh sáng màu hoàng kim dầy khoảng sáu tấc, theo lời ông nói những người có thể phát ra ánh sánh như thế đều là những bậc dị nhân đắc đạo). Còn một vị nữa chính là Thanh Hải Vô Thuợng Sư. Vào năm 1940. Tổ Sư Lưu Bội Trung thuộc phái Côn Lôn Tiên từ Đại Lục tới Formosa. Hồ Đạo Trưởng là một trong nhóm đệ tử đầu tiên của Tổ Sư, gồm hơn mười mấy người. Và lúc ông mới có mười chín tuổi. Tổ Sư Lưu Bội Trung tinh thông thiên văn địa lý, võ công, các loại pháp thuật, bốc thuốc, và thuật tàng hình. Tổ Sư có lòng từ bi cứu thế, không phân biệt giàu nghèo, dạy dỗ đệ tử hết sức nghiêm khắc. Thành Tài Ẩn Cư cứu Thế Sau khi Hồ Đạo Trưởng theo học với Tổ Sư được một năm. Một đêm, như thường lệ, thầy trò quây quần bên nhau, có một vị đệ tử viết một lá thơ thỉnh ý Tổ Sư Lưu Bội Trung. Lúc đó Tổ Sư mới bảo các đệ tử có mặt, (có khoảng chín mươi người) hãy ngồi thiền, sau đó đoán xem trong thư viết gì. Trong tất cả các đệ tử hiện diện, chỉ có Hồ Đạo Trưởng là người duy nhất nói đúng nội dung lá thư. Tổ Sư Lưu Bội Trung nghe xong, lạnh lùng nói với Đạo Trưởng rằng: "Ngươi về nhà thu xếp hành lý, ngày mai đừng đến nửa!" Ông giật mình hỏi lại: "Thưa Sư Phụ, con đã phạm phải lỗi lầm gì, mà sao bảo con đừng đến nữa?" Tổ Sư Lưu trả lời: "Sư Phụ phái ngươi ra ngoài xây một ngôi chùa mới và cứu độ chúng sanh. Người hãy ở đó và chuyên tâm tu hành, về sau sẽ rõ." Lúc bấy giờ, đệ tử thuộc phái Côn Lôn Tiên không có mấy người đi ra dựng chùa mới, vã lại qui luật rất nghiêm khắc. Thứ nhất, trong vòng ba năm không được nhận bất cứ cúng dường nào. Thứ hai, tất cả tiền lộ phí phải tự túc. Thứ ba, không được làm phiền người khác lo cơm nước cho mình, đi giúp việc phải ăn rồi mới đi. Thứ tư, không được thoái thác từ chối giúp đỡ người khác. Thứ năm, sau ba năm mới được nhận cúng dường, và lúc làm việc không được trả giá, ai cho bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu, gặp những gia đình nghèo khổ thì phải tìm cách giúp đỡ. Cho nên, lúc Tổ Sư Lưu Bội Trung còn tại thế, được rất nhiều người kính trọng, và số môn đồ cũng ngày càng nhiều. Sau khi Tổ Sư Lưu Bội Trung qua đời, Hồ Đạo Trưởng vẫn tiếp tục ở trên núi, vừa tu hành phục vụ đại chúng vừa đi khắp nơi tìm kiếm minh sư. Trước sau ông đã gặp hơn hai mươi vị thầy, lần nào cũng đều thất vọng trở về. Cuối cùng ông quyết định không lãng phí tinh thần và tiền bạc để tìm thầy nữa. Ông vào núi bế quan khoảng mười lăm năm, không màng đến thế sự. Hồ Đạo Trưởng từ nhỏ bẩm tính đơn thuần, lạc quan, thông minh, nghịch ngợm, nhưng yêu chính nghĩa, ghét sự bất công, thích giúp người bị đối đãi bất công. Ngay cả bây giờ, tuổi đã cao mà vẫn không thay đổi, thật là "Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời". Có lẽ vì bản tính như vậy nên suốt cuộc đời, ông lập một đạo thất để giúp đời, một công việc tốn nhiều công sức mà sự đền bù rất ít. Hợp Với Ma Lấy Một Trăm Đồng Trong những chuyện xảy ra trong đời ông, có những câu chuyện ông nhớ và thích kể lại, trong đó có câu chuyện "Hợp Với Ma Lấy Một Trăm Đồng" khi ông còn nhỏ. Trong làng của ông có một hồ gọi là "Thủy Quỷ Đàm", hồ này có một đám ma da thường hay phá phách, người trong làng không ai dám bén mảng đến gần. Nhất vào ban đêm, nơi đây trở thành cấm địa của người dân quê. Có một đêm, dân làng tụ tập với nhau như thường lệ, uống trà nói chuyện gẩu. Họ kể cho nhau những câu chuyện về ma. Có một phú ông nói rằng: "Ai dám đi tới Thủy Quỳ Đàm hái lá cây sung ở nơi đó đem về, thì mỗi lá tôi cho năm cắc." Người dân làng đương nhiên là không dám mạo hiểm (vào thời đó người Nhật cai trị Formosa, và năm cắc lúc đó có giá trị rất lớn). Đạo trưởng vì lúc nhỏ thường hay tiếp xúc với chúng sinh vô hình, cho nên không sợ ma, ông liền nói với ông phú hộ: "Ông dám hứa chắc không?" Ông phú hộ trả lời liền: "Đương nhiên!" Hồ đạo trưởng liền đi đến Thủy Quỷ Đàm, quyết hái lá cây sung ở nơi ấy. Khi đến nơi, ông thấy rất nhiều ma da đang tụ tập tại đây. Đạo trưởng mới nói: "Đêm nay tôi đến đây để hái lá sung, vì một người dân trong làng nói rằng, hái một lá thì được thưởng năm cắc, cho nên xin quý vị giúp đỡ cho tôi. Cây này cao quá, tôi lại nhỏ, hái không tới, quý vị giúp kéo cành cây xuống cho tôi hái, ngày mai có tiền tôi sẽ mua nhiều tiền giấy và bánh kẹo đến để đãi quý vị." Thế là ông cùng với ma kiếm được trên một trăm đồng bạc. Đây là một số tiền khó quên trong cuộc đời "bần đạo" của ông, nhất là trong lúc ông chỉ mới hơn mười tuổi. Lòng Nghĩa Hiệp Đuổi Khách Gian Hùng Lúc nhỏ, nhà của đạo trưởng thường hay có khách giang hồ đến thăm. Người tốt kẻ xấu, ai cũng có thể đến nhà. Một ngày nọ, có một người khách từ Đại Lục sang, gọi là "Đường Sơn Khách", người này là một cao thủ chuyên dùng độc. Trong thời gian ông khách này sống tại nhà đạo sĩ, thường đi đến những tửu lầu, tìm những cô kỷ nữ để hạ độc. Ông chờ cơ hội bỏ chất độc vào khăn mặt của họ, khiến cho những người này vô tình dùng khăn lau mặt rồi bị nhiễm độc. Khi mặt của họ bắt đầu lở loét, ông mới đi rao lên rằng ông có thể chữa được chứng bệnh ấy, ai muốn chữa thì đến tìm ông. Những người kỷ nữ dựa vào nhan sắc để lôi cuốn người khác, nếu dung nhan bị tàn phá, họ rất lo sợ, nên dù tốn bao nhiêu tiền họ cũng chịu. Dần dần về sau, mọi người đều biết đây là quỷ kế của tên Đường Sơn khách bày ra để kiếm tiền, nhưng ai cũng sợ hắn ta hạ độc nên chỉ rủa thầm sau lưng mà thôi. Vì tên Đường Sơn khách ở trong nhà của đạo trưởng, cho nên gia đình của đạo trưởng cũng bị liên lụy tai tiếng. Có một ngày, đạo trưởng chịu không được nên mới hỏi cha: "Ông bác sống trong nhà chúng ta lòng dạ rất xấu, ra ngoài hại người để kiếm tiền, tại sao lại để ông ta sống trong nhà mình?" Cha ông bèn trả lời một cách miễn cưỡng rằng: "Cha không biết ông ta làm những chuyện như thế. Hỏi ông, ông không nhận. Cha cũng không thể đuổi một người bạn mà không có bằng chứng." Sau đó, đạo trưởng bắt đầu lén theo dõi ông Đường Sơn khách về sự bí mật trong việc hốt thuốc và chế thuốc giải. Khi học xong, đạo trưởng thường ở nhà đợi những kỷ nữ đến xin chữa trị, thì tự bốc thuốc miễn phí cho họ, không cho ông Đường Sơn khách biết. Ông Đường Sơn khách vì không kiếm được tiền, nên chẳng bao lâu sau đó cũng bỏ đi. Sư Phụ có lần nói một cách dí dỏm rằng: "Khen tặng người khác không cần thiết cũng là một cách cho thuốc độc, đầu độc lòng khiêm tốn của người ta, khiến cho lòng kiêu ngạo và ngã chấp của họ nổi lên, rồi cuối cùng lại làm phiền đến Tôi phải đi giải độc." Cho nên, Sư Phụ yêu cầu đồng tu đừng làm giống như người thế tục bên ngoài, khen qua, khen lại. Lẽ ra phải bảo vệ cho nhau mới đúng! Sau này, đồng tu Tây Hồ thấy đồng tu nào hay nói chuyện ngọt ngào, thích khen người, thường ghẹo họ và phong cho họ là đàm chủ của "Đàm Độc Long". Sư Phụ Báo Trước Đến Thăm Đạo Thất Ba Lần Vào năm 1989, vài tháng sau khi đạo trưởng gặp Sư Phụ lần đầu, trong một lần thiền định, ông lại một lần nữa thấy được hóa thân Sư Phụ. Trong thiền, ông nói với Sư Phụ bao giờ có thời giờ xin mời đến thăm ông, Sư Phụ nói: "Nội trong ba ngày ta sẽ đến thăm ngươi." Quả nhiên đến ngày thứ hai, Sư Phụ dẫn một đoàn đệ tử xuất gia cùng đi gặp ông. Hôm ấy, đúng vào lúc đạo thất của ông có rất nhiều khách. Khi thấy Sư Phụ đột nhiên giá lâm, ông hết sức kinh ngạc, vội vàng tiễn những vị khách trong nhà đi để tiếp Sư Phụ cùng đoàn tùy tùng hơn ba mươi vị xuất gia. Bắt đầu từ năm ấy, Sư Phụ chính thức công khai giảng kinh, hoằng pháp, số người theo Sư Phụ tu hành cũng gia tăng nhanh chóng, nhưng Hồ đạo trưởng lúc đó vẫn chưa chính thức thọ Tâm Ấn. Mấy tháng sau lúc Sư Phụ đến thăm đạo trưởng tại Cung Minh Hồ vào lần thứ ba. Khi ông gặp Sư Phụ liền hỏi: "Mấy hôm trước trong khi tọa thiền, tôi thấy hóa thân Sư Phụ nói vài hôm nữa sẽ đến, tôi hỏi vào khoảng lúc nào? Hóa thân Sư Phụ cười xua tay không đáp, nên lần này tôi không biết khi nào Sư Phụ sẽ đến." Sư Phụ trả lời: "Ta muốn cho ngươi biết thì ngươi biết! Không muốn cho ngươi biết, thì ngươi không biết. Tại sao lần nào cũng phải nói trước cho mọi người nghe!" Mọi người hiện diện đều cười rộ. Nhân Duyên Chín Mùi Gia Nhập Phật Môn Không lâu sau sau khi Sư Phụ thăm viếng lần thứ ba Cung Minh Hồ của đạo trưởng, trong một hoàn cảnh không chuẩn bị trước, ông đã chính thức thọ Tâm Ấn. Đạo tràng Tây Hồ vào những ngày sơ khởi, ngoài đồng tu ra, không mở cửa cho khách thập phương. Sư Phụ làm như vậy để bảo vệ bầu không khí thanh tịnh cho đạo tràng, giúp cho đồng tu khi đến cộng tu tọa thiền được chuyên tâm, nhận được lực gia trì tốt. Sư Phụ không muốn đạo tràng biến thành một nơi ngoạn cảnh như các chùa chiền bên ngoài, đông du khách hiếu kỳ dạo tới dạo lui, làm đạo tràng bị ô nhiễm bởi bầu không khí ăn thịt, uống rượu, và hút thuốc, như thế đồng tu làm sao an ổn tọa thiền. Nhưng công chúng tại Formosa đã sẵn có quan niệm không đúng về các trung tâm tu hành. Họ không biết tôn trọng bầu không khí tu hành thanh tịnh của đạo tràng. Cho nên đạo tràng Tây Hồ mới quyết định đặt ra quy luật không cho người ngoài viếng thăm. Vì thế đã tạo nên sự ngộ nhận từ một số người bên ngoài và thân nhân của đồng tu. Họ cho rằng nơi đây chắc có gì bí mật không thể tiết lộ công khai. Để tránh những ngộ nhận vô cớ ấy, Sư Phụ đã cho mở cửa đạo tràng và khách bên ngoài được đến thăm vào ngày Chủ Nhật. Đạo tràng mở cửa được ít lâu, có một ngày Chủ Nhật, đạo trưởng cùng vài đồng tu đến Tây Hồ thăm Sư Phụ. Đúng vào ngày hôm ấy, Sư Phụ cho tổ chức lễ Truyền Tâm Ấn. Một đồng tu khuyên ông hãy nhân cơ hội quý báu này ghi danh thọ pháp. Ông lúc ấy chưa chuẩn bị gì hết, trên người chỉ mang theo $5.000 tiền Formosa, cho nên ông nói với vị đồng tu: "Chết chưa! Tôi không biết là hôm nay có thể làm lễ bái sư thọ Tâm Ấn, cho nên không chuẩn bị tiền cúng dường." Đồng tu cười trả lời: "Sư Phụ truyền Tâm Ấn cho đệ tử, xưa nay chưa bao giờ nhận bao lì xì (tiền)." Ông nghe rồi vẫn không tin, bèn đi dọ hỏi các đồng tu khác cho rõ hư thực? Lẽ dĩ nhiên câu trả lời là thật như vậy. Lúc đó, ông mới an tâm đến ghi danh. (Theo lời đạo trưởng trong suốt cuộc đời ông đã bái sư hơn hai mươi lần, chỉ có tổ sư Con Lôn Tiên Lưu Bội Trọng và Sư Phụ Thanh Hải truyền pháp cho đệ tử là không nhận bao lì xì (phục vụ miễn phí). Thấy Thiên Cơ Khóc Cho Thầy Ngày thọ Tâm Ấn, các đệ tử đến cầu pháp đều ngồi chờ Sư Phụ tại nơi truyền pháp. Lúc đó đạo trưởng cũng nhắm mắt tọa thiền ngồi chờ với mọi người. Đột nhiên ông thấy một cảnh giới kiến ông đau lòng rơi nước mắt. Ông nhìn thấy Sư Phụ vì truyền Tâm Ấn, gánh vác nghiệp chướng cho đệ tử, khiến những oan gia nợ chủ của những người đến thọ pháp này xuất hiện đánh đập hóa thân của Sư Phụ bầm tím, chết đi, sống lại. Đạo trưởng nhìn thấy, không cầm lòng được liền muốn ra tay giúp đõ, nhưng Sư Phụ cản ông mà nói rằng: "Đây là điều Ta phải làm cho đệ tử, ngươi đừng xen vào." Đạo trưởng chỉ còn biết ngồi đó nhìn Sư Phụ bị đánh đập. Đạo trưởng nói rằng trong suốt cuộc đời, ông rất ít khi khóc. Ngay cả lúc cha ông qua đời, ông cũng không nhỏ một giot lệ. Nhưng lần này trong lúc thiền, ông đã khóc hơn một tiếng đồng hồ. Cho đến khi Sư Phụ đến hội trường, mọi người vỗ tay đón tiếp Sư Phụ, ông vẫn không biết, nước mắt ông vẫn tiếp tục rơi. Đến khi Sư Phụ đi ngang qua bên cạch ông, vỗ vai ông nói: "Sao ngươi khóc thê thảm như thế? Đừng khóc nữa." Lúc đó ông mới giật mình ngừng khóc. Sau khi truyền pháp xong, Sư Phụ tung quà gia trì cho đồng tu. Mấy trăm người lúc ấy đều lo chụp lấy những phần quà gia trì của Sư Phụ. Lúc đó đạo trưởng nhìn thấy nhiều người giành giựt gói quà gia trì, ông không sao hiểu nổi. Ông nghĩ không biết quà gia trì là gì, cũng không biết tại sao những hạt bắp trong túi chẳng ngọt ngào và cũng chẳng có mùi vị gì, lại quý như thế? Ông cảm thấy tò mò nên mới nhắm mắt "xem xét" thử. Khi vừa mới nhắm mắt, ông liền thấy Văn Thù Bồ Tát đang ngồi trên bửu tọa của Ngài, dùng tay phát hào quang gia trì nơi phát bắp. Những hạt bắp được gia trì đều phát ra những tia hào quang màu trắng. Lúc đó ông mới hiểu rõ "quà gia trì" là gì và cũng hiểu tại sao đồng tu lại quý và giành nhau lấy gói bắp rang như những kho tàng như vậy. Rồi không để lỡ cơ hội này, ông cũng nhào vô chụp lấy những gói bắp gia trì đang bay trên không. Có lẽ thần thông ông quảng đại, hoặc là do "lòng tham lam" bất khả tư nghị của ông nổi dậy, nếu không làm sao một ông già hơn sáu mươi tuổi, chưa bao giờ có kinh nghiệm giành quà gia trì, cuối cùng lại nhẹ nhàng chụp được hai gói?! Từ khi đạo trưởng thọ Tâm Ấn, ông tu hành rất chăm chỉ. Đồng thời ông cũng thường tỏ ra hết sức kính trọng những lời dạy dỗ của tổ sư Lưu Bội Trọng. Nếu không có tổ sư nói trước thiên cơ, an bài cho ông lên núi tu hành, ngày nay làm sao gặp được Sư Phụ Thanh Hải, lại còn nhận được Pháp môn Quán Âm vô thượng?! Ông cho biết hai vị Sư Phụ mà ông được gặp này là thật sự có bản lãnh, và cũng thật lòng dạy dỗ đệ tử vô điều kiện. (Xem tiếp phần 2)
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |