Câu Chuyện Truyền Kỳ Của Một Vị Đạo Trưởng Hồ đồng tu Nam Đầu, Formosa kể Thường trú Tây Hồ, Formosa ghi chép, Bản tin từ 41 đến 44 Lên Thiên Đàng Sau khi thọ Tâm Ấn, đạo trưởng về trên núi, tinh tấn tu hành theo pháp môn Sư Phụ đã truyền. Có một lần trong lúc thiền định, thấy hóa thân Sư Phụ nói với ông rằng sẽ đem người chồng của một vị sư tỷ cùng làng vừa vãng sanh lên thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đạo trưởng hỏi: “Có phải đích thân Sư Phụ sẽ đến nhà bà ấy không?” Sư Phụ vẫy tay tỏ ý không phải. Đạo trưởng thắc mắc hỏi: “Vậy phải độ ông ta bằng cách nào?” Sư Phụ trả lời: “Ngươi chỉ cần chuyển lại lời của Ta là được.” Đạo trưởng bèn đem những lời chỉ dạy của Sư Phụ báo cho vị sư tỷ đó biết. Trên đường về, ông còn đặc biệt quay lại dặn dò con gái và con rể của vị sư tỷ đó: “Đêm nay quý vị hãy để ý xem có hào quang hay kim quang xuất hiện hay không, Sư Phụ tôi nói sẽ dẫn cha của quý vị lên thế giới Tây Phương Cực Lạc.” Tuy nhiên kết quả lại nằm ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Sư Phụ đã để cho đứa cháu nội bốn tuổi trông thấy Ngài. Mọi người thấy em bé nhìn lên trời vẫy tay mãi, bèn hỏi: “Con làm gì thế?” Em trả lời: “Con đang chào tạm biệt ông nội.” “Ông nội con đang nằm trong quan tài, sao con lại nói đang chào tạm biệt ông nội?” Em chỉ vào một tấm hình Sư Phụ và nói một cách ngây thơ: “Người này cầm tay ông nội và dẫn ông bay lên trời.” Ngày hôm sau vị đồng tu gặp lại đạo trưởng, kể lại câu chuyện thần kỳ về đứa cháu trông thấy Sư Phụ đưa chồng bà thăng thiên. Đạo trưởng bèn mở quan tài ra xem, và sửng sốt khi thấy nét mặt của người quá cố trong đó. Đạo trưởng còn nhớ lúc mới vãng sanh, mặt chồng bà vừa đen vừa khó coi. Bây giờ đã hoàn toàn khác hẳn. Không chỉ có nụ cười trên môi, sắc mặt đã trở nên hồng hào, điềm tĩnh như người sống đang ngủ. Quả thật là bất khả tư nghị! Một bằng chứng rõ rệt về những gì Sư Phụ đã nói: Sau khi thọ Tâm Ấn, ít nhất tổ tiên năm đời của các đệ tử sẽ được siêu sanh. Linh Hồn Đến Cung Diêu Trì Sau khi thọ Tâm Ấn được nửa năm, đạo trưởng theo Sư Phụ xuất gia. Nhưng vài tháng sau, vì vợ bệnh nặng hôn mê bất tỉnh, đạo trưởng đành phải về săn sóc. Ông đưa vợ đi rất nhiều bác sĩ khám bệnh, đến rất nhiều bệnh viện, nhưng họ đều tìm không ra nguyên nhân căn bệnh. Bà nằm liệt trên giường bệnh mười mấy ngày không ăn không uống, giống như một đống củi bất động. Đạo trưởng trong lòng xốn xan. Trong lúc tọa thiền, ông lên thiên đàng, xuống địa ngục mấy lần, nhưng tìm không thấy linh hồn của vợ. Ngày thường người ta nhờ kiếm người, hay chữa trị những cơn bệnh lạ phức tạp, đạo trưởng đều có thể hóa giải được. Tại sao khi vợ mình có chuyện, lại bó tay vô phương cứu chữa? Ông rất buồn rầu. Một số bạn bè thân hữu hay bác sĩ đều khuyên ông hãy xem bà như đã chết, chôn cất cho rồi. Nhưng đạo trưởng là người trọng tình nghĩa, suốt đời hai vợ chồng bên nhau, rất thương nhau. Thêm vào đó, ông không mê tín dị đoan, không chịu thua. Làm sao ông có thể bỏ mặc vợ mình như vậy được? Cho nên ông cứ một mực ngồi thiền, cầu Sư Phụ giúp đỡ. Một hôm, bỗng nhiên vợ ông tỉnh lại. Ông mừng rỡ vô cùng, liền hỏi: “Mấy hôm nay bà đi đâu vậy? Tôi kiếm hoài không thấy?” Vợ ông trả lời rằng: “Đến một nơi rất thích thú, rất vui. Tôi sung sướng quá không muốn về. Sau đó hóa thân Sư Phụ ‘của ông’ xuất hiện bảo tôi về. Ngài nói: ‘Đây không phải là chỗ ngươi nên lui tới. Ngươi lên trên kia mới đúng.’ Trong lòng tôi không chịu, chưa nói ra miệng, Ngài đã nắm lấy tay tôi kéo về. Sư Phụ vóc người nhỏ nhắn, sao Ngài mạnh thế! Tôi cố giãy giụa không được, sau đó thì tỉnh lại.” Đạo trưởng mừng rỡ, rốt cuộc Sư Phụ đã đem vợ ông về. (Vợ ông thọ pháp sau ông) Vài tháng sau, vợ ông bắt đầu nhắn với ông những lời kỳ cục như: “Sau này nếu tôi có chết, ông hãy hỏa táng thi hài tôi, đừng chôn cất.” Nghe vậy, trong lòng đạo trưởng cũng đoán được sẽ có chuyện, nhưng ông vẫn cố làm ra vẻ nghiêm trang, nói rằng: “Nếu bà chết, tôi sẽ chôn cất bà.” Nghe ông nói vậy, vợ ông giận không thèm nói chuyện với ông nữa. Tuy nhiên ít lâu sau, bà lại nói với ông những lời kỳ quặc như: “Ông phải đem tro hỏa táng của tôi đến tháp chứa cốt gần đây để cất giữ, số xx.” Vì những câu nói lạ lùng này, đạo trưởng để ý xem xét từng cử chỉ của vợ mình. Một buổi sáng, vợ ông đứng ở ngoài cửa như mọi khi. Ông thấy không có chuyện gì, bèn đi vào phòng, mấy phút sau trở ra, đã không thấy bóng dáng của vợ ở đâu. Ông lo lắng quá, liền chạy qua nhà hàng xóm tìm kiếm, nhưng vẫn không thấy tăm tích bà. Ông bèn gọi các con và cả hàng xóm phụ tìm bà. Nhưng bà dường như biến mất. Ông dùng thần thông, nhờ sơn thần, thổ địa giúp đỡ, nhưng vẫn biệt vô tăm tích. Sau khi vợ ông mất tích vài ngày, ông báo với cảnh sát địa phương. Ngày thường khi cảnh sát gặp trường hợp có người leo núi mất tích, kiếm không ra, thường hay nhờ ông giúp đỡ. Lần nào ông cũng giúp họ. Cho nên viên trưởng ty cảnh sát mới thấy lạ, nói với ông rằng: “Tại sao chuyện của người khác ông có thể giúp được, chỉ có vợ ông mà ông kiếm không ra?” Đạo trưởng cũng suy nghĩ mãi không biết tại sao, mỗi ngày ông phải sống trong sự lo lắng bồn chồn. Ông nghĩ chắc Sư Phụ chưa đón vợ mình đi, cho nên mới quyết định xuống âm phủ điều tra. Tuy Thành Hoàng giữ cửa tại âm phủ nói với đạo trưởng: “Vợ ông không có ở đây,” nhưng đạo trưởng nhất định phải vào trong tìm kiếm. Lần thứ hai ông lại thăm địa ngục. Lần này Địa Tạng Vương Bồ Tát xuất hiện cho ông biết rằng: “Vợ ông đã thọ Tâm Ấn với một vị Minh Sư, làm sao mà còn có ở đây!” Nhưng đạo trưởng một lòng chỉ muốn tìm lại người vợ thương yêu, cho nên không nghe. Tuy nhiên, sau khi dò xét xong, ông vẫn thất bại trở về. Khi đạo trưởng xuống âm phủ lần thứ ba, Địa Tạng Vương Bồ Tát mặt mày nhăn nhó. Tuy nhiên, thấy đạo trưởng tìm vợ tìm đến phát điên, cũng không nỡ làm khó dễ, vẫn cho ông đi vào bên trong, nhưng rốt cuộc cũng không có kết quả gì. Thật ra, trước khi vãng sanh, vợ ông đã dặn một người hàng xóm rằng: “Nếu một ngày nào đó tôi mất tích, hãy nói với đạo trưởng đừng mất công tìm kiếm. Ông kiếm không ra đâu!” Có một phụ nữ khác, nguyên là người địa phương cho biết, khi vợ đạo trưởng mất tích, vừa lúc đó cô đang đi qua trước cửa đạo cung, thấy một đóa hoa sen rất lớn bay lên bầu trời. Cô tưởng đâu mình hoa mắt. Sau mấy tháng tìm kiếm, vẫn không thấy tăm hơi người vợ. Rồi một hôm, trong lúc tịnh tọa, đạo trưởng thấy hóa thân Sư Phụ nói với ông rằng: “Vợ nhà ngươi hiện ở Cung Diêu Trì.” Linh thể của đạo trưởng liền lên đến đó. Vừa mới tới nơi, đã thấy vợ mình đang ngồi xếp bằng trong cung. Thấy đạo trưởng tới, bà mỉm cười không nói gì. Lúc bấy giờ, đạo trưởng vừa mừng vừa giận, mừng vì đã kiếm được vợ, giận là vì vợ mình lên đây mà không nói với ông một tiếng, để ông bôn ba khắp nơi tìm bà ròng rã mấy tháng trời. Ông trách móc bà: “Bà đến đây mà không nói năng gì cả, khiến tôi phải tìm kiếm khắp nơi. Địa ngục cũng xuống tìm mấy lần. Tại sao bà lại làm như vậy?” “Tôi cũng đâu biết ông ngu đến nỗi xuống địa ngục tìm kiếm, người ta làm sao mà ở dưới đó được!” Đạo trưởng lại hỏi: “Quái lạ! Bà trốn bằng cách nào, tại sao tôi kiếm không ra?” Vợ ông trêu ông: “Ông không phải có rất nhiều thần thông hay sao? Sao lại kiếm không được? Thật ra cuốn ‘Kỳ Môn Độn Giáp’ để trong nhà, tôi đã học trộm hết cả rồi. Tôi đã dùng phép tàng hình. Nếu không phải Sư Phụ giúp ông, ông không cách nào tìm ra tôi.” Lúc bấy giờ đạo trưởng mới thấu hiểu mọi việc. Ông hỏi thi hài của vợ hiện giờ ở đâu? Bà trả lời: “Tôi sợ ông đem chôn, cho nên bây giờ không thể tiết lộ được. Đợi đến khi da thịt đã rữa, ông tự nhiên sẽ thấy.” Quả thật, sau khi mất tích mấy tháng, một ngày nọ trưởng ty cảnh sát đến nói cho ông biết có một học sinh leo lên núi đã khám phá ra một xác chết gần chỗ ở của đạo trưởng, mời ông đi xác nhận. Khi đến nơi, ông thấy một thi thể ngồi xếp bằng, da thịt toàn thân đều đã khô queo, nhưng điều kỳ lạ là tại cổ tay có đeo một tràng hạt nhỏ. Đó là tràng hạt lúc sanh tiền Sư Phụ tặng (Sư Phụ tặng bà xâu chuỗi này trước khi bà thọ pháp). Còn có một sợi dây chuyền có hình pháp tướng của Sư Phụ, bà cũng cột ở cổ tay. Chỉ chỗ đó da thịt vẫn còn tươi tốt, thật là một điều kỳ lạ. Sau đó nhân viên công tác trong tháp chứa hài cốt đã đến. Ông cũng cho biết rằng ông đã làm việc tại tháp chứa hài cốt mấy chục năm, đã nhìn thấy vô số xác chết, nhưng đây là lần đầu tiên ông trông thấy một kỳ tích như vậy. Ông đề nghị đạo trưởng đừng hỏa táng, nên tráng thành kim thân để người ta lễ bái. Nhưng đạo trưởng nói rằng vợ ông đã đặt biệt nhắn nhủ nhất định phải hỏa táng, ông tôn trọng sự quyết định của bà. Sau khi hỏa táng, tro cốt được gởi trong tháp chứa cốt, con số thứ tự quả đúng là con số mà vợ ông đã cho biết trước. Còn về chỗ tìm ra thi thể, đạo trưởng và con trai đã từng đến đó tìm kiếm, còn nghỉ ngơi dưới thân cây lớn ngay bên cạnh, mà vẫn không thấy được. Cho dù không để ý, không nhìn thấy, mùi thối rữa của xác chết nhất định phải ngửi thấy chứ. Ở đời này, chuyện lạ gì cũng có thể có! “Cung Minh Hồ” giản dị và xơ xác của đạo trưởng nằm trên núi Mù Xã ở Đài Trung. Đây là một nơi phong cảnh hữu tình, non xanh nước biếc. Đàng trước đạo cung là “Minh Hồ”. Trong khoảng thời gian đạo trưởng trú ngụ, trên núi đã xảy ra nhiều chuyện ly kỳ. Ma Nước Hiện Hình Mấy chục năm về trước, Mù Xã vẫn còn là một khu núi cấm. Trước khi thọ Tâm Ấn, đạo trưởng và một số dân làng thường hay bắt cá trong hồ để làm sinh kế. Có một buổi tối, ông đi bắt cá như thường lệ, gặp một viên cảnh sát đến phạt ông. Đạo trưởng bèn nói với cảnh sát: “Ông đừng xuống đây! Vùng này nguy hiểm lắm, thường có ma nước xuất hiện và hại người.” Nghe ông nói vậy, viên cảnh sát không làm sao tin được, bèn trả lời: “Ông tưởng tôi là con nít dễ lừa gạt lắm sao? Trừ trường hợp chính mắt tôi trông thấy, nếu không dù có đánh chết tôi, tôi cũng không tin!” Đạo trưởng trả lời: “Tôi không gạt ông đâu! Nếu ông không tin, tối mai sẽ bắt một con ma nước lên cho ông xem.” Thế là hai người bèn ước hẹn với nhau. Tối hôm sau, hai người đến bờ hồ như đã hẹn trước. Đạo trưởng chuẩn bị sẵn lưới bắt cá, tay chậm rãi chèo thuyền, miệng niệm chú, thả ra một cái “lưới bát quái.” (Ghi chú: Đây là dấu hiệu của đạo sĩ). Một lát sau, quả nhiên đã bắt được một con “ma nước”. Đạo trưởng mới giao hẹn trước với viên cảnh sát rằng: “Ông đừng làm hại đến nó nghe!" Nói xong ông từ từ kéo con ma lên bờ. Khi thấy mặt ma nước, viên cảnh sát ngạc nhiên vô cùng! Ông tưởng đâu “ma nước” cũng là một thứ hồn ma không thể trông thấy được, ngờ đâu nó lại giống y như một người! Chỉ có thân hình hơi thấp, cao từ một đến hai bộ (feet). Mắt nó đỏ, cứ chớp hoài không ngừng, miệng phát ra tiếng kêu “chư chứ”, toàn thân bao phủ bởi một lớp lông ngắn. Đạo trưởng nói với ma nước: “Ngươi đừng ở đây nữa, người ta trông thấy sẽ sợ. Hơn nữa nếu chẳng may bị người ta bắt được sẽ rất nguy hiểm. Tốt nhất là ngươi nên lánh xa nơi đây một chút!” Nói xong đạo trưởng thả nó ra, và tiếp tục bắt cá. Hôm đó, đạo trưởng rất hên, lưới được rất nhiều cá. Thì ra con ma nước trong hồ đã giúp xua cá vào lưới của ông, nên ông mới bắt được nhiều như vậy. Tiền Sát Sanh Không Hưởng Thụ Được Vì luôn luôn bắt được rất nhiều cá, thâu nhập rất tốt, cho nên đạo trưởng bấy lâu nay đã lấy nghề chài lưới làm nghề phụ. Cho đến buổi trưa một ngày nọ, khi ông đang nghỉ ngơi trong nhà, Văn Thù Bồ Tát bỗng xuất hiện, nói với ông rằng: “Thời gian đã đến, ngươi không được bắt cá nữa.” Lúc bấy giờ, đạo trưởng bắt cá kiếm được từ một đến hai ngàn đồng mỗi ngày, rất phong phú, nên dĩ nhiên là không muốn bỏ. Ông bèn hỏi: “Bắt cá đâu phải là chuyện xấu, tại sao bắt tôi phải ngưng?” Văn Thù Bồ Tát trả lời: “Nay thời giờ của ngươi đã đến, không thể đánh cá nữa. Nếu không nghe lời trung ngôn của ta, cứ tiếp tục chài lưới, mắt ngươi sẽ bị mù. Ngươi hãy tự quyết định, muốn đánh cá, hay là làm một người mù.” Đạo trưởng không tin: “Làm sao có chuyện như vậy được! Mắt tôi rất tốt, làm sao có thể mù được?” Văn Thù Bồ Tát thấy ông không nghe, bèn biến mất. Ai ngờ đến ngày hôm sau, bỗng có một luồng khí đen xông tới trước mặt ông, không biết là gì. Ông tránh không kịp, đôi mắt đau nhói như bị người ta ném cát, nước mắt cứ trào ra mãi. Ngày hôm sau đạo trưởng nói với vợ: “Mắt tôi sắp hỏng, không nhìn thấy gì nữa.” Ông mới đem câu chuyện Văn Thù Bồ Tát kể lại với vợ. Vợ ông liền dẫn ông đi khám bác sĩ nhãn khoa, nhưng hai vị bác sĩ nhãn khoa đều nói rằng mắt của ông rất bình thường, họ khám không thấy gì cả. Đạo trưởng mới hiểu ra đó là bệnh nghiệp chướng, bèn về nhà cầu thần Phật trong đạo thất: “Xin các Ngài hãy khôi phục lại đôi mắt cho con, việc bỏ nghề đánh cá con sẽ suy nghĩ lại.” Tối hôm sau, Văn Thù Bồ Tát lại xuất hiện nói với ông rằng: “Ta là Văn Thù Bồ Tát. Ta có duyên thầy trò với ngươi. Bắt đầu từ ngày hôm nay, ngươi không được đánh cá tạo sát nghiệp nữa. Ngươi phải đem hết tài năng đã học trong đời đi cứu nhân độ thế.” Đạo trưởng hỏi lại: “Mỗi ngày đánh cá tôi có thể kiếm được một, hai ngàn đồng, bây giờ bỏ nghề chài lưới, tôi lấy gì sinh sống?” Văn Thù Bồ Tát trả lời: “Ngươi đừng lo, tự nhiên sẽ kiếm được cách sinh sống.” (Lúc đó đạo thất của ông mở cửa, với những người đến xin giúp đỡ, ông thường không lấy tiền. Có khi gặp người khốn khó, ông còn tự động giúp đỡ tiền bạc cho họ nữa.) Lúc bấy giờ, đạo trưởng bèn hứa với Văn Thù Bồ Tát là sẽ chấm dứt việc chài lưới, và xin Ngài cho đôi mắt ông được trở lại bình thường, để ngày hôm sau ông có thể đi dọn dẹp đồ nghề: chiếc thuyền và lưới cá. Văn Thù Bồ Tát liền thảy vào miệng ông một viên thuốc màu vàng, bảo ông nuốt và về nhà nằm nghỉ. Ngày hôm sau tỉnh lại, quả nhiên đôi mắt ông đã trở lại bình thường. Đạo trưởng mừng rỡ đến bờ hồ, kéo chiếc thuyền và dụng cụ chài lưới lên đốt đi, chấm dứt cuộc sống đánh cá. Đạo trưởng hồi tưởng lại rằng: “Tiền kiếm được từ nghiệp sát không hưởng được!” Ông nói thế, bởi tiền ông đánh cá, hầu hết đều chi vào tiền bệnh viện lúc vợ ông đau. Còn chi phí sinh sống ngày của ông, thật ra, là từ tiền kiếm được qua việc bán bông ly ly phơi khô hay đào măng. Đạo trưởng nói rằng, tiền kiếm được từ sự sát sanh sẽ không có kết quả tốt. May thay, Văn Thù Bồ Tát hiện linh độ ông, nếu không, không biết ông còn tạo thêm bao nhiêu nghiệp chướng nữa! Bảo Vệ Kinh Sách Một Cách Dũng Cảm Sau khi thọ Tâm Ấn không lâu, có một lần ông cùng vợ xuống núi làm việc. Trên đường về đi qua một ngôi chùa, thấy nhiều người đem rất nhiều sách để trước cửa chùa. Đạo trưởng hiếu kỳ, bèn nói với tài xế ngừng xe để ông xuống xem những quyển sách đó có phải là sách Đạo tùy hỷ hay không, ông muốn lấy về đọc cho biết. Khi đến gần xem kỹ, thì hóa ra là sách biếu của Sư Phụ! Đạo trưởng cảm thấy có điều không ổn, tại sao sách lại vất đống dưới đất như vậy? Ông bèn hỏi những người dọn sách: “Những quyển sách này quý vị lấy ở đâu vậy? Tại sao chồng chất sách ở đây?” Người dọn sách trả lời: “Đây là những cuốn sách mà đệ tử của Thanh Hải Vô Thượng Sư phát. Chúng tôi thu gom lại không để người ta đọc. Chúng tôi sửa soạn đốt hết những cuốn sách này.” Nghe nói như vậy, đạo trưởng giận quá, liền hỏi: “Đây là sách của Sư Phụ tôi, tại sao quý vị lại đem đốt? Không được đốt sách của Sư Phụ tôi!” Rồi ông kêu vợ và viên tài xế lại, chuẩn bị đem sách lên xe mang về nhà. Lúc bấy giờ, một thanh niên la lên rằng: “Quý vị làm gì thế!” Đạo trưởng một lòng hộ pháp, không chịu được nữa, nên mới trả lời anh: “Chú la hét gì vậy? Đây là sách của Sư Phụ tôi, tại sao chú lại đem đốt đi?” Người thanh niên kia trả lời: “Sư Phụ ông là ma.” Nghe vậy, đạo trưởng càng giận thêm: “Sư Phụ tôi dạy người ta giữ năm giới, mỗi ngày ngồi thiền tịnh hóa thân khẩu ý, chưa bao giờ dạy người ta làm chuyện xấu, truyền pháp không lấy tiền, không phê bình người khác bậy bạ, làm sao là ma cho được! Chú đốt sách, phê bình người khác như vậy mới là hành vi của ma quỷ. Thầy nào dạy chú như vậy? Một vị thầy mà dạy dỗ đệ tử như vậy mới thật sự là ma!” Nói xong ông bắt đầu dọn sách lên xe. Người thanh niên giận quá định đánh đạo trưởng. May thay lúc đó có nhiều người ở bên cạnh giữ anh lại, tuy nhiên anh vẫn tiếp tục chửi bới. Đạo trưởng mới chỉ vào mặt anh nói rằng: “Chú có gan thì kêu sư phụ của chú ra đây. Nếu cũng hung dữ như chú thì tôi sẽ vẽ bùa đem đốt trước mặt “Công Bá Tánh” (miếu cô hồn). Nếu muốn lấy mạng sư phụ chú thì chỉ ba ngày là đủ, còn chú thì một ngày là xong!” Anh thanh niên nghe nói vậy, lửa hờn càng thêm sôi sục, nhưng lúc đó bên cạnh có một cụ già địa phương, đến gần nói với anh rằng: “Này chú, chú đừng nên xem thường, người này là chủ trì của Cung Minh Hồ. Những lời ông nói đều là thật. Ông có khả năng làm được những điều đó. Chú đừng đụng đến ông là tốt nhất. Những cuốn sách đó hãy để ông ta mang về.” Sau khi nghe những lời của cụ già, anh thanh niên đó như trái banh xì hơi, không dám mở miệng nữa. Đạo trưởng và vợ đem mấy ngàn cuons sách biếu này về đạo thất, phân phát cho những người hữu duyên, để họ có cơ hội biết đến Chân Lý mà Sư Phụ đang truyền bá. Đạo trưởng xúc động nói rằng: “Thật ra những người đó ganh với Sư Phụ. Thấy Sư Phụ càng ngày càng nổi tiếng, đệ tử càng ngày càng đông, bèn đi phỉ báng khắp nơi. Người tu hành nên đối xử ôn hòa với nhau, bao dung lẫn nhau, tu hành càng lâu tâm càng khai mở, càng độ lượng mới đúng. Vì không có pháp môn đúng đắn, không có minh sư tốt dạy dỗ, cho nên mới có những người cực đoan trong tôn giáo không dung nạp được người khác như vậy. Tuy nhiên vàng thật không sợ lửa. Nếu Sư Phụ không phải là một vị Cổ Phật đại minh sư chân chánh hạ sanh độ thế, nếu chỉ là một phụ nữ ở Formosa, lại không có bạn bè thân thuộc, không có kinh tài hậu thuẫn, làm sao có thể đứng vững giữa những đả kích phỉ báng? Càng bị tấn công Ngài càng dũng mảnh. Không những Sư Phụ nổi tiếng vang lừng tại Formosa, mà còn lan rộng khắp nơi trên thế giới. Nếu đệ tử của Ngài không thật sự đạt được lợi ích và thể nghiệm tốt từ pháp môn Ngài dạy, thì khi nghe thấy những lời phỉ báng như vậy đã hoảng sợ bỏ chạy mất hết từ lâu rồi, đâu còn hỗ trợ và tin theo Sư Phụ như vậy!”
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |