Vị cư sĩ dâng tịnh xá cúng dường Phật 20150815 -Layperson-offer-ashram-to-Buddha-700k Lúc đó Đức Phật đang ở thành Vương Xá tại vườn trúc. Khi đó ở nước Xá Vệ có một vị quan lớn, tên ông là Tư Đạt. Ông là người rất giàu có, lại có lòng từ bi, chia sẽ tiền bạc của mình với những người khác. Ông sinh được bảy người con trai, và đã cưới vợ cho sáu cậu. Cậu thứ bảy cũng là một người rất đạo đức, và xuất chúng, đẹp trai, nên có vẻ ông thương cậu út hơn. Một hôm có một người dòng Bà La Môn đến chơi. Quan đại thần nói với người bạn: “Tôi có bảy cháu trai, sáu đứa đã lập gia đình chỉ còn cháu thứ bẩy thì chưa. Tôi muốn nhờ bác tìm một nơi con nhà tử tế đàng hoàng, môn đăng hộ đối, ngoan ngoãn, có đức hạnh rồi bác xem họ có muốn gả cho con trai tôi không?” Rồi người bạn Bà La Môn nói: “Vâng để đó cho tôi lo, tôi biết rất nhiều người, tôi sẽ để ý giùm ông, không khó.” Hôm ấy vị Bà La Môn này sang thành Vương Xá vào nhà một vị quan lớn để khất thực. Vị quan đại thần này tên là Hộ Di. Lúc đó cô con gái của ông đem thức ăn ra cúng dường cho vị tu sĩ này. Rồi vị tu sỉ Bà La Môn quan sát thấy cô gái này thật đoan trang, nết na dịu dàng và xinh dep, nên ông hỏi: “Này tiểu thư, xin lỗi, tôi có thể hỏi cô một việc chăng?” -Dạ xin ông cứ hỏi cháu. Ông nói: “Nếu tôi hỏi câu này có làm phật lòng cô chăng, xin đừng buồn nhé.” -Cháu không dám đâu. Rồi ông nói: “Cô đã lập gia đình chưa?” -Thưa ông cháu còn độc thân. Đương sống với song thân a. -Đã có ai dạm hỏi chưa? -Chưa, thưa ông -Quan đại thần, hôm nay có ở nhà không? -Thưa ông hôm nay cha cháu có ở nhà. -Nhờ cô bẩm với quan lớn, tôi muốn vào thăm, và thưa chuyện quan trọng. Cô vào thưa cha: “Bên ngoài có người Bà La Môn muốn gặp cha thưa chuyện quan trọng.” Ông đáp: “Được con mời vào.” Và rồi hai người trò chuyện vui vẻ. Người Bà La Môn nói: “Ngài có biết, Tư Đạt làm quan đại thẩn ở nước Xá Vệ không?” -Chưa tôi chưa từng gặp ông lần nào, nhưng tôi có nghe danh tiếng của ông. -Ô! Ông Tư Đạt này là người giàu nhất ở nước Xá Vệ. Ông có người con trai út, thông minh, tuấn tú, sau này có thể làm lớn. Tôi có nhận lời ông ấy đi kén vợ cho cậu ta. Nhưng tôi đã đi nhiều nơi song chưa tìm được người hợp ý. Tình cờ hôm này vào đây, thấy con gái của ngài đoan trang hơn người. Vậy tôi xin lam mai cho con trai quan đại thần, thì ngài có vui lòng không? -Dạ, được lắm. Tưởng nhà ai chứ quan đại thần Tư Đạt thì tôi bằng lòng ngay.’ Vì vậy ông về nhà và viết một bức thư gởi cho quân đại thần Tư Đạt. Khi Tư Đạt nhận được thư, ông vào thưa với vua rằng: “Tau bệ hạ! Hạ thần có chút việc bên nước Xá Vệ, xin cho thần đi ít ngày được không? -Khanh có việc chi bên đó? -Tau bệ hạ con út của hạ thẩn sang sắp cưới vợ bên đó. -Cưới tiểu thư nhà nào? -Quan phụ tễ tướng Hộ Di -Nhà vua nói được lắm. Trẫm mừng cho khanh. Rồi ông sắm đủ các lễ vật. Mang theo rất nhiều vàng bạc châu báu. Nhưng trên đường đi, nếu có gặp ai nghèo đói ông đều cấp tế cho họ. Khi tới nơi, Quan phủ tướng Hộ Di ra tiếp đón một cách vui vẻ. Hôm ấy ông Tư Đạt thấy nhà ông Hộ Di có nhiều người tấp nập sửa sang nhà cửa, trang hoàng đẹp đẽ, nấu nhiều món ngon vật lạ. Thấy vậy ông hỏi: “Thưa phủ tướng, ngày mai ngài có mời, vua quan khách quý, hay có việc chi mà làm nhiều cổ bàn như vậy?” Ông Hộ Vì đáp: “Thưa không phải, ngày mai vì muốn cầu phước nên tôi mời Phật và chư tăng đến nhà cúng dường bữa ăn.” Ông Tư Đạt nghe danh hiệu Phật và chư tăng thì rất lấy làm ngạc nhiên. Nhưng ông thấy rất vui trong lòng. Ông hỏi: “Thưa phủ tướng Phật là ai? Phật là thế nào?” Ô! Hộ Di ông sui tương lai hỏi: “Ngài không biết ư? Phật là hoàng tử con vua Tính Phan. Tên là Tất Đạt Đa. Lúc ra đời có 32 văn thần và thiên nhân xuống chào đón và ca tụng Ngài. Mới sinh ra, Ngài đã bước bẩy bước, vung tay bốn phương nói. Rồi sau cùng Ngài để một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất nói: Thiên thượng địa hạ duy ngã độc tôn! Và Ngài có thân sắc vàng, có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Nếu Ngài ở tại gia thì Ngài làm Kim Luân Vương, cai trị bốn cõi thiên hạ. Vì thấy chúng sinh có bốn nỗi khổ sinh lão bệnh tử nên Ngài xuất gia, tu khổ hạnh trong sáu năm. Sau này cuối cùng Ngài thành Phật, hằng phục được 18 trăm triệu thiên ma chúng sinh tà và lực phủ định. Ngại có thập lục, Tứ vô úy, thập bát công pháp. Hào quang Ngài sáng chói muôn Phương, soi suốt ba cõi. Cho nên Ngài được gọi là Phật.” -Thế nào gọi là Tăng? -Quan phủ tướng nói: “Khi Ngài thành Phật vua cõi trời Phạm Thiên xuống cầu thỉnh Ngài thuyết pháp cho mọi chúng sinh. Sau khi Phật nhận lời mời của ông Ngài đến nước Ba La Nại tại vườn Lộc Uyển và lưu lại đó và Ngài thuyết pháp về tứ diệu đế để độ chính mình và chúng sinh khỏi khổ đau. Thì lúc đó có năm người đắc quả A La Hán, Có nhiều lời tán thán về quả vị A La Hán như là có sáu thần thông, bát chánh đạo. Rồi họ đi đâu trên hư không cũng có tám vạn người ở cõi trời đắc quả Tư Đà Hoàn. Và vô lượng người phát tâm bồ để tỉnh ngộ muốn tu hành. Sau đó Phật độ cho anh em ông Uất Đề Ca Diếp, nhóm đó 1000 người cũng đắc quả A La Hán. Thứ ba Ngài độ Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên và tất cả đệ tử của họ tất cả 500 người đều đắc quả giải thoát. Những người này cũng có đủ công đức, đủ lực lượng có thể giải thoát cho những chúng sinh khác. Nên họ được gọi là tăng đoàn.” Quan đại thần Tư Đạt nghe nói xong ông cảm thấy tin cát tường. Quá đổi vui mừng. Ông chắp tay lại, mong chờ trời sáng để được yết kiến Phật và chư tăng. Vì lòng thành kính mong mỏi, nên mặc dù đương nửa đêm trời đã tối đến rồi mà ông thấy ánh sáng trên trời tỏ soi khắp mặt đất như ban ngày vậy. Cho nên ông càng hoan hỷ khôn xiết. Ông không chờ đến sáng, mà đi thẳng sang nước La Duyệt Kỳ để tìm Phật. Vừa ra khỏi thành, ông gặp ngôi đền bên đường. Họ thờ thiên nhân nào đó. Ông bước vào đảnh lễ bức tượng. Rồi bỗng nhiên ông quên mất là mình muốn gặp Phật. Rồi bỗng nhiên mặt đất tối sầm trở lại rồi ông thầy sợ mảnh thú hoặc ác quỷ giết mình, nên ông không dám tiếp tục đi và định trở về thành cho tới sáng hôm sau. Cũng may là ông có một người bạn thân, đã chết và ở trên thiên đàng. Người bạn nhìn xuống thấy ông hối hận, liền bay xuống, hiện ra trước mặt ông bảo rằng: “Này cư sĩ chớ hối hận! Nếu đi yết kiến Phật ông sẽ được vô lượng công đức, ví như nay được một trăm cổ xe chở đầy châu báu. Cho dù cất một bước chân đi yết kiến Phật phước báu còn hơn như vậy nữa. Nếu đi yết kiến Đức Thế Tôn ông còn được phước báu nhiều hơn. Này cư sĩ, cứ đi, đi yết kiến Phật, chớ lùi bước. Ví như kiếp này ông được 100 con voi chở châu báu, cũng không sánh bằng cất một bước chân đi yết kiến Phật. Cư sĩ ông nên đi ngay đi. Cho dù kiếp này ông có được vàng bạc châu báu thật nhiều cũng không sánh bằng.” Tư Đạt nghe nói thế thì vui vẻ, lòng tôn kính và thương yêu trở lại thì bỗng nhiên Ánh Sáng lại tỏa soi trở lại nên ông có thể thấy khắp nơi. Đức Phật biết ông có căn lành, có công đức tu nhiều kiếp trước nên Ngài đi ra ngoài để ông gặp ông. Rồi quan đại thần đằng xa nhìn thấy Phật đang đi tới oai nghi lẫm liệt. Rồi ông tới và hỏi: “Thưa Ngài, Đức Thế Tôn ở nơi nào? Xin làm ơn chỉ hộ?” Phật nói: “Ông hãy ngồi tạm đây chờ.” Khi ấy vì thần từ tịnh cư thiên nhìn xuống thấy quan đại thần Tư Đạt gặp Phật rồi mà không biết đảnh lễ nên cảm thấy không đúng nên ông bèn xuống trần hóa ra bốn người đi tới trước Phật cúi đầu đảnh lễ rồi đi vòng Phật ba vòng rồi lui về một bên. Quan đại thần Tư Đạt thấy thế mới bắt chước đảnh lễ như mấy người kia. Khi đó Phật giảng Pháp tứ diệu đế. Quan đại thần Tư Đạt nghe xong rất vui mừng như người đói được ăn. Đoạn ông quỳ trước mặt Phật thưa rằng: “Kính lạy Đức Thể Tôn, trong thành Xá Vệ những người nghe pháp chóng giác ngộ như con có được nhiều không? Cúi xin Ngài chỉ giáo cho?” Phật dạy: “Trong thành Xá Vệ không có một người thứ hai khai ngộ được như con bây giờ. Phần nhiều là những kẻ có tà kiến, tin theo tà giáo. Cho nên khó có người tin theo chánh giáo. Tư Đạt thưa rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn! Con xin thỉnh Ngài sang nước Xá Vệ thuyết pháp để khiến cho dân chúng biết bỏ tà kiến mà quy chánh theo Ngài.” Phật nói: “Làm người xuất gia thì không thề sống lẫn với người tại gia. Nếu có một nơi như là tịnh xá thì sẽ tiện hơn.” Tư Đạt thưa: “Kính lạy Đức Thế Tôn! Con xin về làm tịnh xá. Cúi xin Ngài cho phép?” Phật dạy: “Vì lợi ích cho chúng sinh và cũng để tạo phúc cho chính mình, ông có thể làm vậy. Công đức sẽ vô lượng!” Ông lạy tạ Đức Phật rồi về nhà lo việc cưới vợ cho cậu con út. Xong đâu đấy ông lại sang nước La Duyệt Kỳ bạch Phật rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn, con muốn lập một tịnh xá tại bản quốc để cúng dường cho Đức Thế Tôn và chư tăng nhưng không biết làm thế nào? Cách thức ra làm sao? Kính xin Ngài cho một vị tăng đi theo con để chỉ bảo cách thức sao cho đúng?” Đức Phật thầm nghĩ: “Nước xá Vệ đầy những người Bà La Môn tin theo tà giáo, ai là người hàng phục nơi đây! Ta nghĩ chỉ có Xá Lợi Phất vì trước kia ông là người Bà La Môn, cũng có chút đỉnh thông minh, và chút đỉnh thần thông. Ta nghĩ ông đi có lẽ được.” Phật gọi Xá Lợi Phất bảo rằng: “Xá Lợi Phất, Tư Đạt muốn làm đạo tràng truyền bá Phật Pháp dẫn dắt chúng sinh ở đó cải tà quy chánh nên ông định lập tịnh xá tại nước Xá Vệ để mời ta về thuyết pháp. Nhưng ông không biết cách thức. Vậy ông sang đó góp sức với ông ấy xây cất tịnh xá.” Xá Lợi Phất nói: “Lạy Đức Thế Tôn con sẽ đi.” Ông Tư Đạt hỏi Ngài Xá Lợi Phất rằng: “Kính thưa tôn giả: Phật đi bộ mỗi ngày được mấy dậm?” Xá Lợi Phất đáp: “Đức Thế Tôn có thể đi mỗi ngày nữa dậm.” Rồi ông về nhà, bắt đầu từ thành vuong xá của ông sang tới chỗ Phật hiện đang cư ngụ. Cứ cách 20 cây số ông làm một nhà nghỉ chân cho tới tận nước Xá Vệ. Khi về tới nhà hai người nghỉ vài ngày. Rồi họ đi ra ngoài tìm đất. Hai người họ đi khắp nơi nhưng không tìm được nơi nào thích hợp. Chỉ có khu vườn của thái tử Kỳ Đà, bằng phẳng rộng rãi, mát mẻ, nhiều cây cối có bóng mát. Xá Lợi Phất nói Ngài cảm thấy khu này rất tốt nhưng nó thuộc về Thái Tử của nước đó. Ngài Xa Lợi Phất bảo quan đại thần Tư Đạt rằng: “Khu vườn này tốt lắm, vì có nhiều cây cối, nhiều bóng mát, không xa thành thị, mà không ồn ào, yên tĩnh để thiến.“ Nên quan đại thần đến nói với thái tử: “Thưa thái tử, vườn đất nhà tôi rất nhiều, nhưng không dùng được khu nào để làm tịnh xá đề mời Phật về nước ta thuyết pháp, để dân chúng được lợi ích. Chúng tôi đã đi khắp nơi chỉ thấy vườn của thái tử là nơi rộng rãi tốt nhất có nhiều cây cối nên tôi muốn mua lại khu vườn này của thái tử để làm tịnh xá cúng dường Phật. Thái tử có sẵn lòng chăng?” Thái tử cười nói: “Ta có thiếu gì mà phải bán. Ngài biết rồi đó. Vườn này là để lúc thư giản tránh cảnh huyên náo thị thành. Ta không bán đâu.” Quan đại thần nói đến hai bà lần năn nỉ hết sức. Bất đắc dĩ thái tử không biết làm sao mới ra một giá rất đắt. Nghĩ rằng để ông ta đi luôn cho yên chuyện nên thái tử nói với quan đại thần: “Được, nếu đại thần muốn mua vườn của tôi thì phải đem vàng lát khắp mặt đất không được hở một phân nào thì ta bán cho.” Ô! Thái tử lấy từng ấy thôi? Thế thì tôi xin trả ngay, cảm ơn ngài nhiều lắm. Ngài đã hứa thì không được rút lời.” Thái từ nói: “Ta nói đùa vậy thôi, chứ không muốn bán đâu.” Tư Đạt nói: “Ngài là thái tử của cả một quốc gia ngài không được nói hai lời. Ngài đã hứa thì nên giữ lời. Nếu không sau này ngài trị dân làm sao? Ai sẽ tin ngài?” Ô! Nghe xong thái tử lặng thinh. Đồng ý. Tư Đạt rất vui mừng khôn xiết và về nhà lập tức sai gia nhân đưa voi chở rất nhiều vàng đến tới rồi về, tới rồi về. Lát cả khu vườn. Rồi có lẽ sau 80 phút toàn khu vườn đã được lát bằng vàng ròng. Riêng còn một chỗ, chỗ gốc cây là chưa lát xong. Tư Đạt thầm nghĩ ta ráng làm cho xong. Còn thái tử Kỳ Đà nghĩ như vầy: “Đức Phật là người thế nào nhỉ? Ngài hẳn phải là đặc biệt lắm, cho nên ông đại thần này mới coi nhẹ vàng như vậy. Có lẽ cúng dường Ngài được phúc đức lớn vậy chắc ta cũng nên cầu phước.” Nghĩ xong thái tử đến nói với Tư Đạt rằng: “Thôi dừng lại đi. Ông không cần phải mang vàng đến nửa. Toàn bộ khu vườn này là của ông. Riêng đám cây này ta dâng Phật làm tịnh xá.” Tư Đạt thấy thái tử đã phát tâm cúng dường công đức lên Phật, ông rất vui lòng. Ông về nhà bắt đầu xây dựng đạo tràng. Lúc này, bọn lục sự trong vùng, rất giỏi phép thần thông. Khi nghe ông Tư Đạt, quan đại thần xây cất tịnh xá để thỉnh Phật về thuyết pháp. Sáu người đó lên bẩm báo với vua rằng: “Tâu bệ hạ! Trưởng giả Tư Đạt mua rừng Kỳ Hoàn của thái tử làm tính xá, muốn thỉnh Cổ Đàm tới đây. Xin bệ hạ cho chúng tôi đấu phép trước. Nếu Tư Đạt thằng thì chúng ta để ông ta làm. Hiện nay Cổ Đàm và chư tăng của ông ấy ở thành Xá Vệ còn chúng ta ở lại đây.” Nhà vua triệu quan đại thần Tư Đạt vào cung hỏi: “Lục sự nói khanh mua rừng Kỳ Hoàn làm tịnh xá để thỉnh sư Cỗ Đàm về giảng đạo. Có Phải vậy không?” Quan đại thần đáp: “Dạ tâu bệ hạ! Việc đó có thật xin bệ hạ thứ lỗi.” Nhà vua đáp: “Lục sự muốn đấu phép với Phật, trước. Nếu thắng được họ thì cho xây. Nếu thua thì không được làm.” -Tâu bệ hạ, việc đấu phép xin cho hạ thần về hỏi lại Đức Thế Tôn. Hay hỏi đệ tử xuất gia của Ngài. Xem họ có sẵn lòng không. Rồi hạ thân xin trở lại tâu với bệ hạ.” Mua khu vườn đó đã khổ lắm rồi bây giờ lại không được làm. Quan đại thần buồn bã. Sáng hôm sau, Xá Lợi Phất thấy quan đại thần rất buồn bã, mới hỏi rằng: “Sao hôm nay ông buồn thế? Hay việc làm tịnh xá bị cản trở chăng?” Ông đáp: “Thưa tôn giả, việc làm tịnh xá không biết có thành công không? Vì thế nên tôi buồn.” Xá Lợi Phất nói: “Có việc chi mà ông sợ không thành?” Ông kể lại đầu đuôi câu chuyện: “Bọn lục sự trong vùng muốn đấu phép với Phật, hoặc đệ tử của Phật. Nếu thắng họ sẽ để chúng ta tự do xây. Nếu không thì sẽ không có cơ hội. Tôi không biết ai trong các tôn giả các ngài có thể thắng không vì tôi biết bọn họ có thần thông rất cao cường. Cho nên tôi vừa lo vừa buồn.” Xá Lợi Phất nói: “Đừng lo chúng ta sẽ thắng. Dầu cho bọn họ có đông như cỏ khắp mặt đất cũng không thể động nỗi cái lông chân của ta.” Quan đại thần quá đỗi vui mừng. Ông tắm rửa sạch sẽ và lên tâu với vua: “Tâu bệ hạ hạ thần đã hỏi đệ tử của Phật, họ vui lòng đấu với lục sự. Xin bệ hạ thông cáo.” Nhà vua gọi cho ban lục sự biết là trong vòng một tuần nữa sẽ đấu. Bọn lục sự xin vua dán thông cáo người dân cả xứ có thể tới xem. Lúc bấy giờ nước Xá Vệ có 18 triệu người. Họ dùng trống để truyền tin. Nếu người dân nghe tiếng trống đồng thì sẽ có 12 triệu người tới dự. Nếu họ nghe tiếng trống bạc, thì 14 triệu người phải vào thành hợp. Nhưng lúc đó, họ đánh trống vàng cho toàn dân tới. Nhà vua ra lệnh cho dân chúng chuẩn bị đấu trường, đương nhiên là rất đẹp, có biểu ngữ có lộng che. Vua quan, dân chúng đi ra. Vua ngồi trên cao. Các quan ngồi chung quanh, dưới là dân chúng. Bọn lục sự có hai triệu người theo họ. Tư Đạt cũng bài một tòa cao đẹp dành cho ngài Xá Lợi Phất. Giữa lúc đó Xá Lợi Phất đang ngồi thiền dưới gốc cây. Rồi Ngài thầm nghĩ: “Những người có thần thông này theo tà đạo, tự cao tự đại. Ta biết lấy đức gì để hóa phục họ? Ngài vẫn đang nghĩ cách giúp họ.” Nghĩ thế rồi, Ngài xuất định đứng lên dùng tất cả công đức thề nguyện rằng: “Nếu tôi trong vô số kiếp đã là người tốt, hiếu đạo với cha mẹ, kính trọng sa môn, tăng chúng, kính trọng các tu sĩ Bà La Môn, xin cho tôi dự hội đấu phép. Và khi tôi tới, tất cả đại chúng sẽ đều đứng dậy đảnh lễ, nếu tôi là người tốt như vậy.” Khi đó lục sự thấy mọi người đã đến đông đủ mà Xá Lợi Phất chưa đến họ bèn tâu lên vua rằng: “Tâu bệ hạ, đệ tử của Cổ Đàm biết không đủ tài đánh bại chúng tôi nên có lẽ hắn đang trốn nơi nào, bỏ chạy rồi.” Vua gọi quan đại thần Tư Đạt hỏi rằng: “Tư Đạt, đệ tử của thầy khanh nhận lời hứa đấu phép, tại sao bây giờ vẫn chưa tới?” Tư Đạt đáp: “Tâu bệ hạ, để hạ thần đi xem thử. Tư Đạt về thấy Ngài Xá Lợi Phất đang tọa thiền nên bạch rằng: “Kính bạch Đức Tôn Giả, vua quan dân chúng và lục sự đã tới đông đủ xin ngài ra hội.” Ngài Xá Lợi Phất lấy áo mặc chỉnh tề bước đi ung dung uy nghi ra. Khi ngài tới nơi, tất cả vua quan dân chúng, thậm chí lục sự nhìn thấy ngài oai phong phi thường. Họ cảm thấy kinh sợ. Đột nhiên toàn thể đứng lên đảnh lễ ngài, kể cả bọn lục sự. Thì ra lời nguyền của ngài là đúng. Một lục sự có tên là Lao Độ Sai, là người giỏi nhứt. Trước mặt đại chúng, ông hóa ra một cây vô cùng to lớn che rợp cả đại hội. Cành lá sum suê, hoa quả tươi tốt. Mọi người đều vỗ tay reo vang. Ngài Xá Lợi Phất, hóa thành một cơn gió dữ dội làm bật rễ cây ấy, ném xuống và đánh vỡ tan tành. Đại chúng vỗ tay reo hò: “Hoan hô! Hoan hô!” Sau đó tên Lao Độ Sai hóa ra một cái ao lớn, bốn bề đều bằng thất bảo. Bên trong thành ao lát bằng bảy loại đá quý. Trong ao có rất nhiều hoa. Đại chúng vỗ tay hoan hô. Ngài Xá Lợi Phất hóa ra một con bạch tượng to lớn có sáu ngà. Mỗi ngả có một ao sen Trên mỗi hoa sen có bảy ngọc nữ. Bạch tượng từ từ đi đến cái ao của Lao Độ Sai thả vòi hút hết nước. Đại chúng vỗ tay hoan hô. Lao Độ Sai lại hóa ra một quả núi hùng vĩ cũng bằng thất bảo, bên trong có suối thác nước cây cối sum suê um tùm, đủ loại cây ăn trái, kỷ hoa dị thảo. Đại chúng lại vỗ tay hoan hô. Ngài Xá Lợi Phất hóa ra rất nhiều vị kim cương lực sĩ. Họ cầm gậy chỉ về phía núi. Thì núi ấy tan tành. Đại chúng vỗ tay reo vang: “Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất.” Lao Độ Sai hóa ra một con rồng vô cùng to lớn có 10 đầu bay trên không trung mưa xuống cả thứ châu báu và làm sấm chớp dữ dội. Đại chúng rất sợ nhưng vẫn hoan hô. Sau đó Xá Lợi Phất hóa ra một con chim đại bàng to lớn, móng vuốt cứng như sắt. Đại bàng bay tới lấy chân quặp con rồng xé nát rồi nuốt chửng. Đại chúng vỗ tay hoan hô. Nhưng Lao độ Sai vẫn chưa chịu thua, ông hóa ra một con trâu vô cùng to lớn chân to móng sắt. Con trâu đi ra quỳ dưới đất kêu rống rất chói tai rồi đột nhiên nhảy chồm lên tới trước Xa Lời Phất. Xa Lợi Phất.hóa ra một con sư tử lớn hơn, bước tới lấy chân quặp chặt cổ con trâu và ăn thịt con trâu ngay tại chỗ. Đại chúng lại vỗ tay reo hò. Và cho là Xá Lợi Phất thắng. Lao độ Sai vẫn chưa chịu thua, bây giờ tự biến thân thành một con quỷ dạ xoa cao lớn. Trên đầu lửa cháy dữ dội, mặt đỏ như huyết, bốn răng nanh dài, mọc chĩa ra ngoài, miệng phun ra lửa. Nhảy chồm lên rất ghê sợ. Xá Lợi Phất tự hóa thân làm một Thiên Vương cao cường hơn quỷ dạ xoa nầy. Thấy Thiên Vương, quỷ dạ xoa bỏ chạy. Chạy tới đâu cũng bị lửa cháy vây quanh. Hắn hết lối tẩu thoát. Chỉ nơi Xá Lợi Phất ngồi là mát mẻ, không có gì xảy ra. Đến đây, Lao Độ Sai chịu thua, tới phủ phục trước mặt Ngài Xá Lợi Phất, cầu xin tha mạng. Thì ngọn lửa liền tắt. Lúc đó Xá Lợi Phất muốn cho toàn thể vua quan, dân chúng cải tà quy chánh. Ngài hiện ra thần thông nữa. Ngài bay lên trời, ngồi trên hư không, đi trên hư không, bay trên đó. Phần trên mình phun ra nước. Phần dưới mình phun ra lửa. Đại chúng nhìn theo. Ngài ẩn bên đông hiện bên tây, thoắt ẩn thoắt hiện. Có khi hiện thân to lớn, chật kín cả hư không. Có khi thu hình dáng nhỏ lại. Có khi biến thành trăm ngàn, muôn ức hóa thân. Có khi hợp nhất thành một thân. Đương trên không, đột nhiên người ta thấy Ngài ở dưới đất rồi bay lên trời, đi trên mặt nước dễ dàng. Biến hiện rất nhiều phép thần thông tại đó. Rồi Ngài trở lại ngồi chỗ cũ. Tất cả đại chúng, từ vua đến thần dân nhìn thấy phép thần vô ngại, ai nấy đều vô cùng kính phục, và phát tâm tin tưởng Phật pháp. Sau khi Xá Lợi Phất thầy vua và thân dân phát tâm chuyển hướng theo chánh đạo rồi, Ngài bắt đầu giảng về nghiệp báo ứng, chánh đạo v.v… Nghe xong nhiều người trong đại chúng đắc sơ quả, nhị quả. Còn ba triệu đồ chúng của lục sự quay đầu lại theo ngài Xá Lợi Phất làm đệ tử xuất gia. Tất cả đều xuất gia. Cách mấy hôm sau, Xá Lợi Phất và quan đại thần Tư Đạt đến khu vườn của thái tử Kỳ Đà đo đạc. Mỗi người cầm một đầu đây để đo. Thấy Xá Lợi Phất mỉm cười, quan đại thần hỏi: “Tôn giả cười gì thế?” Xá Lợi Phất đáp: “Tôi và ông, mỗi người cầm một đầu dây đo như vầy, chỉ cầm dây thì cung điện trên sáu cõi trời đã được làm xong, vì thế mà tôi cười.” -Nhưng vì lý do gì mà Tôn giả cười? -Vì tôi mừng cho ông, vì ông quá thành tâm muốn làm tịnh xá cúng dường Phật và tăng đoàn, nên tất cả thành trì, tất cả cung điện cõi trời hóa hiện ra rất nhanh. Tôi có thể cho ông mượn huệ nhãn nhìn xem cõi trời.” Ôi ông mượn huệ nhãn nhìn lên. Chao ôi, cung điện huy hoàng tráng lệ, quang cảnh tuyệt đẹp để dành cho ông, quan đại thần Tư Đạt. Khi ông vãng sanh, tất cả là của ông. Ông thưa với Xá Lợi Phất: “Thưa tôn giả, trong sáu cõi nầy cõi nào là tốt nhất?” Ngài đáp: “Ba cõi dưới hầu như thiên về sắc dục nhiều gần giống như ở đây. Đến cõi thứ tư thì đỡ hơn, những người ở đó biết đủ rồi, không tham lam, không trụy lạc nhiều. Thường có chư bồ tát tới thuyết pháp trên đó. Và hai cõi trời cao hơn, Chúng sinh ở đó kiêu mạn, không quan tâm tới đạo đức và công đức.” -Kính thưa tôn giả đời sau con nguyện sinh lên cõi trời thứ tư. Sau khi ông nguyện xong các cung điện và cõi trời kia đều biến mất, chỉ còn lại cõi thứ tư. Thấy không tất cả đều dành cho ông. An nhiên bất động. Rồi họ bắt đầu đo đạt, coi bao xa bao lớn, xay chỗ nào. Ông nhìn thấy Xá Lợi Phất có hơi buồn, bèn hỏi: “Tôn giả tại sao ngài có vẻ buồn?” Xá Lợi Phất chỉ tay về phía đàn kiến lớn đang bò trên mặt đất. Ngày nói: “Đại Thần có thấy đàn kiến này không?” -Vâng tôi thấy. Ngài nói: “Quan đại thần ông nên biết vì chưa có huệ nhãn nên ông không thấy không biết nguyên thủy của đàn kiến này. Nhiều đời quá khứ cũng ở khu vườn nầy, ông đã từng làm tịnh xá cúng dường Đức Phật Tỳ Ba Thi, thì đàn kiến này cũng ở đây. Đến thời Đức Phật Thi khi xuất hiện ở thế gian ông cũng làm tịnh xá ở khu đất này cúng dường Phật. Đàn kiến này cũng sinh ở đây tiếp tục truyền thống, đời sống của họ ở đây. Đến đời Đức Phật Tỳ Xa Phù xuất hiện thế gian, ông cũng làm tịnh xá cúng dường Phật, đàn kiến này cũng sinh ở đây. Đến thời Đức Phật Câu Lưu Tôn xuất hiện ở thế gian, ông cũng làm tịnh xá ở khu này cúng dường Phật. Rồi đến đời Phật Cầu Na Hàm Mâu Ni xuất hiện ở thế gian, ông cũng làm tịnh xá ngay chỗ này thì đàn kiến này cũng xin phép tiếp tục sinh sống ở đây. Tới thời Đức Phật Ca Diếp Ba ông cũng làm tịnh xá ngay đây, khu đất này cúng dường Phật, đàn kiến này vẫn tiếp tục kiếp sống ở đây. Cho đến nay đã 91 niên kỷ vẫn phải làm thân kiến. Ông nên biết sinh tử đọa lạc lâu dài như thế. Bây giờ Phật Thích Ca tới rồi mà chúng vẫn còn đấy. Nhưng có mấy ai biết sợ, thực tình mà cầu chân lý để giải thoát. Cho nên con người có trí phải biết bỏ bớt. Tư Đạt nghe xong rơi lệ chứa chan. Cảm thấy thương mình, và thương chúng sinh quá vô minh, đọa đày trong luân hồi, mê đường lạc nẻo, khổ đau như vậy. Vì tham chức danh lợi mà kiếp này sang kiếp khác, không bao giờ thoát khỏi vòng sanh tử. Mà tất cả danh lợi này cũng chỉ là sở hữu thế gian nhơ bẩn, và rất tạm bợ vô thường. Vì vậy mà họ liều thân rồi bỏ mạng, rồi lại tái sanh, đau khổ vô cùng, thậm chí sanh làm loài vật. Ông rơi lệ, thương cảm vô cùng. Sau khi đo đạt xong, họ bắt đầu xây cất tịnh xá. Làm riêng một lẩu gác đặc biệt bằng gỗ đàn hương, có mùi thơm và cũng để tránh sâu bọ cắn. Chỗ đó dành để cúng dường Phật. Nơi đặc biệt cúng dường tăng, xa hơn một chút, làm 20 khu. Vì có 1. 500 tăng chúng, cho nên có chỗ ở riêng cho tất cả họ. Làm xong ông thầm nghĩ rằng: “Dẫu sao mình cũng là một hạ thần của nhà vua. Nếu cứ tự tiện đi mời Phật, sợ có chướng ngại hoặc vua không hài lòng, vậy tốt hơn ta nên tâu với vua trước.” Nên ông vào tâu với vua rằng: “Tâu bệ hạ! Hạ thần đã làm xong tịnh xá để mời Đức Phật về nước nhà, giảng dạy trí huệ và chân lý tối thượng ban phước cho đất nước và thần dân để họ khiêm nhường hơn, đạo đức hơn, như vậy sẽ tốt hơn cho họ. Rồi mọi người có thể tu theo chánh đạo, giáo lý tốt. Hơn nữa quốc gia sẽ được phước, an lạc và thái bình. Cúi xin bệ hạ, cho sứ thần đi mời Đức Phật. Hạ thần xin đội ơn bệ hạ mãi mãi.” Nhà vua nghe nói rất hợp ý mình, như thể quan đại thần làm việc chánh đáng, rất lễ độ, nên nhà vua mừng rỡ, liền sai người sang thành Vương Xá mời Đức Phật và chư tăng. Tuân lệnh, sứ thần sang Vuong Xả vào yết kiến Đức Phật cúi đầu đảnh lễ và thưa rằng: “Kính lạy Đức Thế Tôn, chúa công tôi, tôi và những người khác tới đây thỉnh cầu Thế Tôn hạ cố quang lâm sang nước Xá Vệ. Chúng tôi đã xây sẵn một tịnh xá để Ngài thuyết giảng chánh pháp cho đất nước được phước lành, và dân chúng tràn ngập hồng ân của Ngài. Cúi xin Ngài từ bi hoan hỷ.” Đức Phật nói: “Quý hóa! Tốt lắm. Quốc vương của anh, những người khác và các quan tới đây vì muốn cho quốc dân được an vui hơn, tiến bộ về mọi phương diện, kiếp sau lại được sinh vào cõi trời vui hưởng phúc lạc. Cho nên dĩ nhiên ta rất vui lòng nhận lời mời của đức vua và của anh. Được rồi Ngài nói: Không bao lâu ta sẽ đến, nhưng Ngài không nói khi nào.” Vì Phật muốn, sau khi nhận lời mời của nhà vua Đức Thế Tôn phóng Đại Quang Minh làm chấn động cả nước khắp nước Xá Vệ, để tâm trí người dân nơi đó thức tĩnh phần nào trước, để mọi người cảm nhận lực gia trì của Ngài. Khi đi sang nước Xá Vệ, dĩ nhiên có rất nhiều đệ tử đi cùng Ngài. Tới mỗi khách xá, Ngài cùng mọi người đều dừng chân vào nghĩ ngơi. Trên đường đi từ đó tôi nước Xá Vệ, Ngài cũng cứu nhiều linh hồn, ban phước cho họ, và giáo hoá được rất nhiều người. Dần dần Đức Phật và mọi người cũng tới nước Xá Vệ. Quốc vương, quần thần, dân chúng tất cả đều mang hương hoa ra nghênh đón Đức Phật. Người đông như hội. Ai nấy thấy Đức Phật đều đảnh lễ sát đất, như một làn gió lớn thổi trên dám cỏ. Mọi người vô cùng vui vẽ ngựa xe chật đường, người đi như nước chảy. Quang cảnh vô cùng rộn rịp. Nối tiếp Ngài là một khu đất cao, rất thanh tịnh, đẹp đẻ mát mẻ. Họ treo cờ, dùng biểu ngữ, phướng lộng rợp trời, Rất tôn nghiêm. Đức Phật tới nơi ngồi trên bảo tọa, phóng đại quang minh, chiếu khắp 3000 đại thiên thế giới. Ngón chân Ngài ấn xuống đất làm rung chuyển toàn cầu. Âm nhạc tự nhiên trỗi lên từ muôn hướng. Như thể một dàn nhạc đang trỗi lên. Ai nấy đều sung sướng và đều được lợi ích. Kẽ điếc được nghe rõ, kẻ mù được sáng mắt, kẻ câm ngọng được nói năng. Kẻ còng lưng được thẳng lại. Nhiều người hết bệnh tật khổ đau. Toàn quốc đều vui mừng hớn hở. Khi đó Đức Phật tùy theo người căn cơ, duyên phận mà thuyết pháp cho họ nghe. Nhiều người được lợi ích, thăng hoa lên các đẳng cấp tâm thức khác nhau. Một số người còn chứng quả A La Hán. Cũng có người gieo nhân Bích Chi Phật ngay tại chỗ. Cũng có người phát tâm cầu đạo vô thượng bổ đề. Khi đó Phật bảo tôi (A nan) khu vườn nầy thuộc về ông Cáp Cô Độc, người chuyên giúp chúng sinh bơ vơ khốn khổ. Và tất cả cây cối đều thuộc về Thái tử Kỳ Đà. Hai người đồng lòng chung sức chuyên tâm làm tịnh xá. Vậy tôi nghĩ nên để rằng: “Cây của Thái tử Kỳ Đà, còn vườn của ông Cáp Cô Độc, viên đại thần cao thượng, để lưu truyền cho hậu thế.” A Nan nói: “Dạ Đức Thế Tôn dạy thế con xin phụng mệnh. Rồi mọi người đều cúi đầu đảnh lễ Phật lùi ra và đi về.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |