Do Anan kể Buddhist Stories The Nun Wonderful, Sep. 04, 2015 Tôi có nghe, có một lần kia Đức Phật ở nước Xá Vệ, tại tịnh xá Kỳ Hoàn. Sau khi vua của vương quốc đó qua đời. Thái tử có tên là Lưu Lý lên ngôi và cai trị vương quốc. Nhưng người này rất xấu xa, rất tệ so với vua cha. Ông hết sức tham lam bạo ngược. Nhiều lần ông vua này thả voi ra ngoài thành và đạp chết dân chúng nhiều vô kể. Bây giờ, nhiều tiểu thư thuộc các gia đình quý phái giàu có, họ cảm thấy vô cùng chán nản, ngán ngẩm với kiểu đối xử của nhà vua. Nên nhiều người trong số họ rủ nhau đến gặp Đức Phật và trở thành tỳ kheo ni với nhau. Dân chúng thời đó thấy rất nhiều tiểu thư từ những gia đình quý phái, giàu có đã trở thành ni cô. Nhiều cô trong số họ được dân chúng thương và tôn kính nên họ cúng dường rất nhiều. Một hôm các tiểu thư nói chuyện với nhau như thế này: “Chúng ta tuy được xuất gia và mang danh là Tỳ Kheo Ni song đối với Phật pháp chúng ta thật sự chưa hiểu biết nhiều. Vì vậy chúng ta chưa được uống cam lồ của Phật. Nghĩa là giáo lý tối cao. Do đó nhiều nghiệp của chúng ta chưa được tiêu trừ. Chỉ có tâm Ấn mới có thể tiêu trừ nghiệp quá khứ.” Vậy nên họ nghỉ: “Chúng ta cần phải đi đến gặp bà Thấu Lan Nan Đa, (Sthulanda), đây là ni cô hiền mẫu bề trên, cao đằng, để chúng ta có thể học hỏi với bà giáo lý tốt hơn. Ví dụ như Bát Kính Pháp.” Họ đến gặp bà và thỉnh cầu nói: “Kính thưa mẹ tôn kính những đứa trẻ chúng con không biết có công đức gì trong đời quá khứ, mà đời này chúng còn được may mắn biết về Đức Phật và rồi còn được xuất gia và còn trở thành ni cô, Tỳ kheo ni cô đẳng cấp cao. Nhưng dù chúng con đã trở thành ni cô có đằng cấp cao chúng con thật sự không hiểu nhiều về giáo lý của Đức Phật. Nên hôm nay tất cả chúng con 500 tỳ kheo ni trẻ, non nớt đến đây cầu xin mẹ từ bi ban cho chút giáo lý để chúng con có thể đạt thêm công đức và nhận được sự gia trì từ chư Phật và từ mẹ.” Thấu Lan Nan Đa, (Sthulanda) nói với họ: “Các cô sinh trưởng trong những gia đình gia giáo, phú quý. Hầu hết các cô đều đến từ dòng dỏi phú quý. Các cô chưa bao giờ thiếu thứ gì trong đời. Đương độ tuổi thanh xuân, kheo sắc như thế, mà các cô lại muốn xuất gia học đạo. Sao các cô lại làm vậy? Thôi khỏi đi. Đừng làm vậy nữa. Đừng lãng phí tuổi xuân của mình. Vô ích mà thôi. Thôi đem y bát cho tôi rồi về nhà lấy chồng, vui hưởng cuộc đời êm ấm xa hoa. Tôi chỉ làm ni cô ở nơi hẻo lánh, không có ai để nói chuyện, lại còn sống cô đơn. Giống như các cô chôn vùi bản thân dưới đống tro tàn lạnh lẽo.” Sau khi các cô gái nghe tỳ kheo ni đẳng cấp cao này nói như vậy, họ cảm thấy rất bối rối, lòng dạ hoang mang buồn phiền. Họ khóc, lễ tạ bà rồi lùi ra. Sau khi ra ngoài các cô gái bàn với nhau. Họ nói: “Chúng ta là những người muốn thoát khỏi những ràng buộc thế gian, hôn nhân, tình ái, cuộc sống gia đình, và thoát khỏi vô minh, để giải thoát khỏi đủ loại lo lắng, phiền phức trong cuộc đời này. Nay chúng ta tới đây, bà đã không khuyên bảo hay dạy dỗ gì mà còn nói những lời như vậy! Lại muốn kéo chúng ta trở lại chốn bùn lầy nơi chúng ta không muốn ở. Tôi nghĩ điều này không tốt. Tôi nghĩ chúng ta nên gặp tỳ kheo ni khác. Tên bà là Vi Diệu và chúng ta sẽ cầu xin bà giúp cứu độ.” Rồi họ đi đến đó. Họ cúi đầu đảnh lễ sát đất, rất mực tôn kính và thưa rằng: Kính thưa ni sư, ở nhà chúng con không biết tu tập gì. Chúng con thật sự u mê. Chúng con làm nhiều việc không thật sự đạo hạnh, mặc dù bây giờ chúng con đã từ bỏ đời sống thế tục nhưng trong lòng chúng con vẫn còn đầy tham ái. Và nhiều lần duc vọng vẫn còn rất mạnh. Xin bà khuyên đôi lời để chúng con có thể chế ngự được nó để chúng con có thể giải thoát khỏi tất cả những ràng buộc ham muốn thể xác này.” Nên Tỳ kheo ni Vi Diệu đáp rằng: “Có ba khoảng đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Các cô muốn hỏi về đời nào?” “Kính thưa Ni sư, đời quá khứ và đời vị lai quá xa. Chúng con không dám hỏi. Chúng con chỉ xin hỏi về đời hiện tại mà thôi. Như nghiệp ràng buộc chúng con trong ham muốn thể xác này từ khao khát thân thể muốn khoái lạc mà hành hạ chúng con trong đời này mà chúng con không thể chế ngự và chúng con không biết nó từ đâu đến. Và nó chỉ gây áp lực đè nặng chúng con. Xin sư bà cho chúng con biết nó tốt hay xấu? Nó có lợi ích hay có hại cho chúng con? Những hậu quả nó sẽ mang lại là gì?” Thế nên tỳ kheo ni Vi Diệu nói với họ: “Nếu các cô muốn biết thì hãy lắng nghe cho kỹ. Các cô nên biết, vạn vật hiện hữu, dù trên Thiên Đàng hoặc dưới Địa Cầu đều có hình sắc, và sinh mạng đều được sinh ra từ ham muốn và khoái lạc thể xác. Ham muốn thể xác có thể ví như ngọn lửa luôn cháy dữ dội bên trong chúng sinh. Và ngọn lửa này rất mãnh liệt nó có thể thiêu rụi những cánh rừng cây cỏ, ngay cả đá cho đến vũ trụ bao la. Những ham muốn nhục dục này thì cũng như có giặc trong nhà vậy. Chúng phiền hà, hủy hoại cuộc đời quý vị. Và người này, nếu nuông chiều và theo đuổi ham muốn đó, chắc chắn sẽ không được sinh ra mà sẽ bị lưu đày vào ba đường ác. Không biết bao giờ họ thoát ra được. Không có thời điểm mà họ thoát ra được. Đây là tam ác đạo, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Bản thân tôi bây giờ sinh ra trong một gia đình Bà La Môn. Cha tôi là người được tôn kính nhứt cả nước. Lúc đó khi còn trẻ có một gia đình quyền quý và giàu có cùng đằng cấp Bà La Môn có một cậu con tuấn tú và cũng rất thông minh vì họ biết tôi cũng rất xinh đẹp, nên họ đến cầu hôn cho con trai họ. Sau khi kết hôn, vợ chồng ăn ở với nhau được một cậu con trai. Vì lâu ngày xa cách cha mẹ, nên tôi rất nhớ họ. Vì vậy tôi đã xin phép về để thăm cha mẹ. Lúc đó bà vẫn đang mang thai. Chồng tôi ưng thuận cho về nhà thăm. Người chồng cùng đi với cô ấy. Nên sau khi sanh em bé thứ hai, hai vợ chồng lấy hành lý và ẵm con lên đường. Khi đi được nữa đường thì trời sẩm tối. Và cả hai nằm ngủ qua đêm dưới gốc cây. Nhưng bỗng nhiên lúc nửa đêm, bà đau bụng ra màu. Nhiều con rắn độc, và nhiều côn trùng độc ngửi mùi máu nên tới cắn chồng bà chết lúc ông đang ngủ. Tôi cứ gọi ông, mà ông không trả lời, cho nên sáng dậy, tôi cầm tay chồng để kéo ông dậy thì tôi thấy tay ông lạnh ngắt, và toàn thân cứng đờ như khúc gỗ. Sau đó tôi xem kỹ thi biết rằng chồng tôi đã bị rắn cắn chết. Tôi chỉ còn biết than khóc và ngất đi rất lâu. Con tôi cứ khóc gọi tôi. Và dần dần tôi tỉnh lại. Sau đó tôi phải bế đứa con trai và dắt một đứa để đi tiếp. Khi tôi tới một con đường hoang vắng thì có một con sông lớn nhưng nước không quá sâu. Không có thuyền. Nên tôi ẵm một đứa qua sông trước. Sau đó bà ấy sẽ trở lại để mang nốt đứa thứ hai sang. Nhưng bất hạnh thay, đứa bé nầy ngã xuống sông chết đuối. Và rồi, tôi không thể tìm được con tôi. Và khi tôi trở lại với đứa con kia, thì rủi thay nó đã bị cọp tha đi mất. Tôi thấy những giọt máu còn lại trên mặt đất. Thật là bất hạnh khủng khiếp. Nhưng điều đó có thể xảy ra cho bất cứ ai. Tôi đau khổ quá mức, nên ngất đi một hồi lâu trên mặt đất. Sau đó tôi tỉnh dậy. Tôi hoàn toàn đơn độc. Tôi thẩn thờ bước đi như người không hồn. Bước đi mà không biết tôi đang đi đâu. Sau vài dậm, tôi gặp một người bạn của cha tôi. Và ông hỏi tôi: “Con đã ở đâu vậy? Sao trông con nhem nhuốc, tiều tụy như vậy?” Nên tôi kể cho ông nghe hết mọi sự tình, câu chuyện về sự bất hạnh của tôi. Tôi nói rằng hôm qua, tôi và chồng tôi muốn về thăm cha mẹ tôi. Và rồi chồng tôi bị rắn cắn chết. Rồi sáng nay, tôi mất cả hai đứa con. Một đứa bị chết đuối dưới sông, đứa khác đã bị hổ ăn thịt. Con không có cách nào để nói với bác nỗi đau đớn của con.” “Ô, thật sao? Trời ơi! Người bạn thân của cha cô thốt lên như vậy. Còn có biết không, ngày hôm qua nhà con bị cháy. Cả gia đình con, cha mẹ, anh chị em, họ bị chết cháy hết rồi. Không gì có thể đau khổ hơn đối với con nữa. Tôi nghe xong, như sét đánh bên tai. Tôi ngất đi lần nữa. Và rồi tôi hết khóc lại than. Ông cảm thấy thương xót cho tôi. Ông đưa tôi về nhà và chăm sóc cho tôi. Sau một thời gian, tôi dần dần nguôi ngoai cơn đau. Trong vùng lân cận đó, có một người cũng từ gia đình Bà La Môn. Ông thấy tôi xinh đẹp nên nhờ một người đến cầu hôn tôi. Thôi được, tôi cũng cô đơn và nghĩ người đàn ông này cũng rất tốt từ một gia đình gia giáo và tử tế. Vậy được, tôi đồng ý kết hôn. Tôi liều nhắm mắt mặc cho số phận quyết định. Và rồi tôi mang thai. Vào lúc trở dạ, tôi đang đau bụng. Vào giữa đêm, tôi sinh con. Lúc đó, chồng tôi đi ăn uống bên ngoài. Sau khi ăn uống trở về nhà, ông gõ cửa gọi. Vì lúc đó, tôi đã trở dạ, đang sinh con và đau đớn. Tôi không thể đi ra mở cửa kịp thời. Ông rất tức giận, phá cửa đi vào và đánh đập tôi không ngừng. Tôi cầu xin kêu van chồng tôi và nói: “Thưa anh, anh yêu quý, em đang đau bụng sinh con. Em muốn sinh con. Chứ không phải em lười hay không tôn trọng anh. Xin tha cho em.” Bà nghỉ: “Cuộc đời tôi sao mà thật bất hạnh để tôi phải gặp loài người hung bạo, vô đạo đức và độc ác như thế này?” Nên sáng hôm sau tôi bỏ nhà đi. Tôi đi đến nước được gọi là Ba La Nại (Varanasi). Tôi ngồi bên ngoài tường thành và ở đó có một người đàn ông, một trong những con trai của ông trưởng giả, vợ ông mới chết. Hàng ngày ông ra viếng mộ vợ ông. Ông thấy tôi khóc, nên đến và hỏi tôi: “Cô ở đâu tới? Tại sao cô ngồi một mình ở đây và buồn vậy?” Thế là tôi kể cho ông ấy hết mọi sự tình về cuộc đời tôi. Và rồi ông mời tôi vào quán. Và rồi sau khi chúng tôi chuyện trò vui vẻ, tương hợp với nhau, ông hỏi tôi: “Nếu bây giờ có người muốn kết hôn với cô, cô đồng ý không?” Thế tôi nói với ông ấy: “Thưa anh, em quá mệt mỏi, em chán lắm rồi. Không thật sự là đời sống hôn nhân. Không có nhiều hạnh phúc. Hạnh phúc không bao lâu và sau đó chỉ là đau khổ triền miên. Rất khó tìm được một người đàn ông nhận từ. Và rồi nếu em lại gặp một người ác độc, thì còn đau khổ hơn nữa.” Nên ông hỏi tôi: “Thế bây giờ cô muốn sống một mình cả đời như vậy sao?” Tôi nói: “Không em thật sự không muốn sống một mình. Nhưng nếu tìm được một hiền nhân, một người quân tử, thì có lẽ em đồng ý kết hôn với người ấy.” Thế là ông nói: “Được rồi, được rồi, thưa cô. Tôi không nói vòng vo nữa, tôi là con trai ông trưởng giả thành nầy. Gần đây vợ tôi vừa mới chết. Tôi thấy cô là người phụ nữ tốt, rất hiền đức. Tôi muốn làm bạn trăm năm với cô. Cô nghĩ sao?” Tôi thấy ông ấy hiền hòa, có vẻ là người rất tốt. Nên tôi đồng ý kết hôn với ông. Nhưng lại bất hạnh thay, sau ba năm, ông mắc bệnh rồi qua đời. Thời đó ở vương quốc này, nếu chồng mất vợ, vợ chết, thì chồng có thể tái hôn. Nhưng nếu vợ mất chồng do chồng chết thì vợ cũng phải chết theo chồng. Nghĩa là chôn chung trong cùng một ngôi mộ. Chôn sống! Vì vậy tôi cũng bị chôn cùng với chồng tôi. Những lúc đó tôi chưa chết hẳn. Và rồi đêm đó, có bọn cướp đến đào quan tài lên để lấy nữ trang. Và rồi tên cướp thấy tôi xinh đẹp bèn bắt tôi về làm vợ. Không lâu sau đó, tên tướng cướp này bị triều đình bắt và bị xử trảm. Và dĩ nhiên bộ hạ của băng cướp bắt bà và cùng chôn theo với người chồng tướng cướp. Ba ngày sau, nhiều con hổ đến đào mồ lên và định ăn thịt họ. Nhưng rồi bỗng nhiên trời đã sáng và nhiều người đi ngang qua để đi chợ. Mấy con hổ thấy nhiều người nên sợ bỏ chạy. Chính vì thế, tôi cố đào đất và thoát ra ngoài. Tôi ngồi ngay đó vả lại than khóc: “Không biết kiếp trước tôi đã làm tội gì mà kiếp này tôi phải gặp quá nhiều điều bất hạnh, đau đớn, buồn bã và khổ sở như thế này.” Tôi gần như chết đi sống lại bao nhiêu lần. Và tôi thấy có lẽ hàng trăm, hàng ngàn hoặc hàng triệu những người phụ nữ khác như tôi cũng kết hôn thì cũng giống như đeo gông vậy. Chỉ là nô lệ, làm cho đời mình ngày càng u mê và đau khổ vì chúng ta không biết đời sống nào tốt hơn. Chúng ta không nhận ra lời sống nào cao thượng hơn. Tìm chánh đạo để giải thoát. Đó là sự vô minh, và đủ loại ham muốn xác thịt, khiến chúng ta thành nô lệ. Và khi quý vị nhận ra sự thật khủng khiếp này của đời người, sống đời nỗi trôi thì đã muộn màng. Và như thế chúng ta lôi kéo lần này đến lần khác vào các loại bẫy, ham nhục dục tham lam, danh lợi, hạnh phúc hão huyền, ảo tưởng. Do đó chúng ta đã và sẽ luôn luôn bị luân hồi sinh tử và đau khổ mãi mãi. Bây giờ tôi bỗng nhiên nhớ lại: Lần nọ có một người từ gia tộc Thích Ca Ngài đã xuất gia từ bỏ thế gian để tu hành chánh pháp và hiện nay Ngài đã đắt được quả vị Phật. Tôi nghĩ bây giờ tôi nên đi đến quy y với Ngài để tôi có thể thoát khổ. Nên tôi đứng dậy cứ đi dù thân thể rất đau đớn và bụng cũng vô cùng đói khát. Đường đến nơi Đức Phật ngụ thì xa, xa lắm và rất hiểm trở cho một phụ nữ đơn độc đói khát. Nhưng tôi không màng. Tôi quyết tâm đi tìm Đức Phật để giải thoát và để giúp mình. Vừa đi vừa hỏi đường cho đến khi tôi thấy mình ở trong rừng Kỳ Hoàn (Jetavana). Lúc đó trời đã tối, nhưng từ xa tôi đã thấy Đức Phật. Tôi đã thấy Ngài sáng rực như quả núi vàng, oai phong lẫm liệt, nhưng đầy vẻ từ bi và nhân từ. Thật sự là một Đấng phi thường. Ngài không phải từ thế giới này. Ngài chắc chắn có thể giải thoát thiên nhân, cũng như con người. Cho nên lúc đó tôi sung sướng quá. Và tôi quỳ xuống bên đường nhìn về phía Ngài, và cầu nguyện được giải thoát. Và rồi Đức Phật đi tới chỗ tôi. Lúc đó, tôi đang ngồi dưới đất. Thân tôi không có gì để che, tôi cảm thấy rất xấu hổ. Tôi phải cố gắng dùng tay để che mình lại. Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan đem cho tôi tấm vải để che thân. Và sau đó tôi đi tới trước Đức Phật và cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài. Và rồi kể cho Ngài nghe mọi chuyện về cuộc đời tôi cho đến bây giờ và xin Ngài cho tôi trở thành nữ đệ tử xuất gia của Ngài. Và sau đó Đức Phật bảo ngày A Nan giao tôi cho ni cô Đại A Đào, đó là danh hiệu của vị ni sư, để dạy tôi. Và rồi tôi được bà cho thọ giới tỳ kheo ni, thọ giới ni cô. Và sau đó bà ấy dạy tôi Tứ Diệu, làm sao thoát khỏi đau khổ. Là ni cô, tôi rất siêng năng tu hành và giữ giới luật. Chẳng bao lâu tôi thật sự đã hiểu cuộc đời thật sự là bể khổ, và giáo lý của các vị thánh khai ngộ thật sự là con đường giải thoát. Sau đó tôi thậm chí hiểu được những kiếp trước của mình. Tôi cũng thấy cả đời vị lai. Và tôi có thể thấy những việc xấu, những việc ác mà tôi đã gây ra trong những đời quá khứ, nên đời này, tôi phải chịu quả báo. Cho nên một tỳ kheo ni mới nhập môn hỏi tỳ kheo ni Vi Diệu: “Thưa mẹ tôn kính, trong đời quá khứ mẹ đã phạm tội gì mà trong đời nầy đau khổ nhiều như vậy? Xin mẹ kể cho chúng con nghe để chúng con học được điều gì đó?” Bà nói: “Được tôi sẽ kể cho các cô nghe: Cách đây đã lâu lắm rồi, vô số kiếp về trước, thuở đó, có một ông trưởng giả không có con với người vợ cả. Nên ông lấy vợ lẽ, người vợ thứ hai. Và người vợ lẽ này rất xinh đẹp, nên ông rất yêu mến cô. Và cả hai đều yêu nhau say đắm. Và chẳng bao lâu, cô vợ lẽ còn sinh được một cậu con trai. Nên cô ấy còn được yêu mến hơn nữa. Người vợ cả thầm nghĩ: Kể từ khi ta lấy chồng, cả hai vợ chồng đồng cam cộng khổ làm ăn chắt bóp để được giàu sang như ngày nay. Nhưng bây giờ và trong tương lai ta chắc chắn chỉ mình cô vợ lẽ sẽ hưởng tất cả. Thật là uống công vô ích của ta, ta sẽ không có gì hết, lãng phí thời gian và tuổi xuân của mình. Làm việc để rồi kẻ khác được hưởng. Chi bằng ta giết quách đứa con vợ lẽ là xong. Người vợ cả nghĩ như vậy. Nên cô vợ cả dùng một cái kim rất dài. Chờ đến khi mọi người đã ngủ, cô vợ cả đến và giết đứa bé. Và tất nhiên người vợ lẽ khóc suốt ngày đêm. Sau đó, cô vợ lẽ nghĩ: “Con ta không ốm đau, chẳng có gì bất thường với nó. Bỗng dưng nó chết như thế. Ta nghĩ chắc chị cả giết nó đấy.” Và rồi cô vợ lẽ đến đối mặt với người vợ cả và hỏi: “Con tôi không làm điều gì hại đến chị. Nó tội tình gì, mà chị nở giết nó như vậy?” Và tất nhiên, người vợ cả nói:” Có nói gì kỳ vậy? Tại sao cô nói điên như vậy? Tôi thề nếu tôi giết con cô, thì đời đời chồng tôi sẽ bị rắn cắn chết. Và nếu tôi có con thì chúng sẽ bị chết đuối hoặc bị hổ ăn thịt. Hoặc sói sẽ ăn thịt. Còn tôi sẽ bị chôn sống. Và cả gia đình tôi sẽ bị chết cháy.” Mọi chuyện đã xảy ra. Vậy các cô nên biết người vợ cả của ông trưởng giả thuở đó chính là tôi. Vì tôi đã không biết về nghiệp quả. Do đó tôi ác tâm giết đứa bé trai và tôi lại thề như thể không có gì xảy ra. VÌ vậy trong kiếp này tôi phải chịu khổ nhiều như thế đúng y những gì tôi đã muốn. Nên 500 tỷ kheo mới nhập môn hỏi bà: “Kính thưa mẹ nhưng bà từ công đức gì trong kiếp trước, mà trong kiếp này, bà may mắn được gặp Phật, và còn đạt được đẵng cấp giải thoát của tâm thức? Xin bà cho chúng con được biết?” Nên bà nói: “Được hay lắng nghe. Đời quá khứ rất lâu về trước, tại vương quốc tên là Ba la Nại (Varanasi) có một quả núi gọi là Tiên Sơn. Trong núi rừng đó có nhiều vị Bích Chi Phật, và nhiều Thánh Văn và nhiều bậc thánh thiện khác tu hành ở đó. Có vị Duyên Giác Phật vào thành khuất thực. Và có bà trưởng giả hoan hỷ cúng dường vị Duyên Giác Phật nầy. Vì bà trưởng giả thành tâm cúng dường Ngài, nên Ngài cho thấy thân phận thật của Ngài. Ngài bay lên không trung và hiện ra 18 phép thần thông cho bà trưởng giả thấy. Vi thế, bà rất kinh ngạc quỳ xuống đất và hướng lên Ngài mà cầu nguyện rằng: Kính lạy đức tôn giả xin giúp con đời sau cũng đạt được đẳng cấp tâm linh như Ngài bây giờ. Các cô nên biết bà trưởng giả thuở đó chính là tiền thân của tôi. Do đó, tôi có cơ hội gặp được Phật và đắc quả A La Hán. Tuy bây giờ, tôi đã đắc quả vị thánh, nhưng thân tôi vẫn rất thường xuyên bị đau và nhức nhối. Từ đầu đến chân như thể có một cái kim đâm vào đầu tôi. Đâm thấu vào xương tôi. Các cô thấy không? Tội lỗi cho dù lâu đến đâu, mình vẫn phải gánh chịu nợ. Ngay cả khi tôi đã là A La Hán. Công đức thì được hưởng, nhưng tội lỗi vẫn phải trả. 500 tỳ kheo ni trẻ nghe như vậy ai nấy đều run sợ. Và sau đó họ tự quán xét cội nguồn ham muốn tình dục và lạc thú xác thịt và tham lam khao khát những lạc thú thế gian như thể đám lửa cháy hừng hực! Và rồi bỗng nhiên tất cả ham muốn lạc thú nhục dục và thành quả trần gian tiêu hết, mất hết. Và sau đó họ xem tất cả những lạc thú hoặc đau khổ trần gian như thế ngục tù. Do đó nghiệp của họ cũng tiêu hết. `Và sau đó tâm trí họ sáng tỏ. Và họ hiểu được chân lý bên trong. Và họ đã trở thành A La Hán ngay lập tức ở đó. Sau khi xuất định họ nói với Ni Cô Vi Diệu: “Thưa mẹ tôn kính, tất cả chúng con cho đến nay đã bị ràng buộc và hành hạ bởi ham muốn lạc thú nhục dục nầy, cho đến nay chúng con chưa bao giờ giũ bỏ được. Hôm nay nhờ phước lành và ân điển của mẹ chúng con đã được giải thoát. Chúng con không biết nói gì để cảm ơn mẹ.” Sau khi biết điều đó Đức Phật rất vui mừng. Ngài nói: “Tốt lắm, quý hóa, Ni Cô Vi Diệu thuyết pháp lợi cho mình, cho người. Bà thật sự là đệ tử của tam thế chư Phật. Tất cả 500 ni cô mới nhập môn này cũng như toàn pháp hội tạ lễ và lùi ra.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |