BMD ngày 26 tháng 9 năm 2015 Buddhist stories Husband-honorer Bởi vì chồng cô vẫn còn trên Thiên Đàng, nhưng cô ta đã đầu thai xuống hạ giới. Tên cô này là Khưu Ma Ly. Câu chuyện bắt đầu ở cõi trời thứ 33 (cõi trời Đao Lợi). Ở cảnh giới Atula có 33 Thiên Đàng Hợp lại, và có 33 Thiên Đế cai quản 33 Thiên Đàng này. Có một Thiên Đế tên là Đế Thích, là giáo chủ của 33 Thiên Đế. Câu chuyện là như thế này: vị Thiên Đế tên là Trăng Hoa, 1 trong 33 vị Thiên Đế tên ông là Malabhaari bước vào Lạc Viên trên cõi trời 33 cùng 1.000 tiên nữ tuyệt đẹp tháp tùng. Năm trăm tiên nữ bay lượn lên cây hái hoa rồi ném xuống. Năm trăm tiên nữ còn lại thì thu nhặt hoa rơi xuống rồi tô điểm cho vị Thiên Đế. Một trong các tiên nữ, khi ngồi trên một cành cây, đã qua đời trong trạng thái đó. Và thân thể của nàng biến mất như một ngọn đèn dầu vụt tắt, rồi tái sinh tại thành Xá Vệ trong một gia đình có địa vị cao sang. Sinh ra đời, nhưng cô vẫn nhớ được quá khứ về tiền kiếp, và nhớ rằng cô đã từng là vợ, một trong 1.000 bà vợ. Và đã từng là vợ của Thiên Đế. Nên khi lớn lên, cô cúng dường hương hoa, thành khẩn ước nguyện được tái sinh về lại với người chồng cũ, vị Trăng Hoa, trên Thiên Đàng. Vậy mà bây giờ ông Thiên Đế này có tới 1.000 bà vợ. Rồi một trong các thê thiếp đó vẫn muốn tái sinh để trở lại với ông. Nhưng bởi vì cô này nhớ quá khứ, nên cô luôn luôn cúng dường hương hoa cho bất cứ vị nào mà cô tin vào lúc đó. Có lẽ các vị thần, mấy vị thần thổ địa mà người Ấn Độ tôn kính thờphượng. Không phải để giải thoát khỏi mọi kiếp sống, mà đề tái sinh lần nữa vào cõi trời 33 để tái hợp với chồng cô, với 999 tiên nữ khác cùng một chồng. Bây giờ, cô này 16 tuổi, cô được gã vào gia đình khác. Đây là truyền thống, có thể cô không muốn. Nhưng bên Ấn Độ là vậy. Họ gã con khi còn rất trẻ. Rồi cô làm dâu vào một gia đình khác. Nhưng bất cứ khi nào cô phát phiếu ăn cho các tỳ kheo, hay là thức ăn mỗi ngày rằm, ba mươi, hoặc thức ăn cho mùa mưa, cô thường nói: “Xin sự cúng dường này giúp con được tái sinh về với chồng cũ của con.” Một phụ nữ rất chung thủy. Đây là một đức hạnh đáng khen. Nên vị tỳ kheo nói với cô: “Người phụ nữ này, dù tích cực bận rộn đến đâu đi nữa, vẫn luôn mong ước chồng cô.” Bởi vì vấn đề là thiên nhân có công đức giới hạn. Vì vậy họ không ở lại lâu mãi trên Thiên Đàng. Cho nên cô gái này, sau khi hết công đức phải đầu thai thành người thường. Điều này đã là may mắn lắm rồi, là cô còn có thể nhớ lại Thiên Đàng, dù là Thiên Đàng thấp. Và còn được đầu thai làm người. Một số Thiên nhân không may mắn như vậy. Có thể đầu thai làm thú hoặc còn tệ hơn nữa. Cho nên ao ước ân điển hoặc công đức Thiên Đàng không phải lúc nào cũng tốt. Cũng vì vậy mà họ gọi cô là Người Tôn Thờ Chồng. Cô thường xuyên chăm lo đại điện của tăng đoàn. Lo nước uống, lo ghế ngồi cho chư tăng. Cô làm rất nhiều việc cho chư tăng. Loại công đức này sẽ mang lại cho cô vô số phước báu đặc biệt. Cho nên khi nào có người muốn tặng nhiều thức ăn hay là thức ăn cho ngày rằm, ba mươi hàng tháng thì họ mang đến đưa cho cô và nói: “Thưa cô, xin hãy dâng những cái này cho các chư tăng.” Bằng cách phụng sự kiểu này, cô ta đạt được cùng một lúc 56 thiên pháp. Đó là rất nhiều phẩm chất tốt. Có mang thai và sau chín tháng mười ngày, cô hạ sinh một bé trai. Khi bé trai biết đi, cô sinh thêm một bé trai nữa, rồi tiếp tục. Cuối cùng có bốn cậu con trai. Một ngày nọ, cô cúng đường cho chư tăng, lễ kính chư tăng, nghe pháp và thọ giới luật. Cô còn làm vậy. Rồi cuối ngày hôm đó cô qua đời vì cơn bệnh đột ngột. Và tái sinh về với chồng cũ của mình. Trong suốt thời gian đó, những tiên nữ khác đang tô điểm cho vị Thiên Đế với hoa tươi. Cô đã sống một kiếp người, có chồng 4 đứa con thế mà họ vẫn chưa tô điểm xong cho Thiên Đế. Vì thời gian trên Thiên Đảng và ở đây khác nhau. Do đó khi vị Trăng Hoa thấy cô, Ông nói: “Từ sáng tới giờ không thấy nàng, nàng đi đâu vậy?” Chồng kiểu gì mà ngay cả vợ mình biến mất cũng không biết. Nên cô trả lời: “Thưa phu quân, thiếp qua đời từ thuợng giới này.” “Nàng nói gì vậy?” Thiếp nói chính xác là như vậy đó.” Ông ngạc nhiên lắm. “Nàng tái sinh ở đâu?” Ông quá bận rộn hưởng thụ nên không biết gì cả. Nên cô ta đáp: “Thiếp sinh vào một gia đình có địa vị tại thành xá vệ.” Rồi ông chồng hỏi nữa: “Nàng ở đó bao lâu?” “Sau chín tháng 10 ngày thiếp được đưa ra từ bào thai của mẹ. Rồi 16 năm trôi qua. Thiếp được gã vào một gia đình khác rồi thiếp hạ sinh bốn cậu con trai. Thiếp cúng dường và vinh danh chư tăng, tha thiết ao ước được trở lại tái sinh về với phu quân. Phu quân yêu quý của thiếp.” “Đời sống con người dài bao lâu vậy?” Quá vui hưởng Thiên Đàng nên Thiên Đế này không biết gì cả. Bà vợ trả lời: “Khoảng 100 năm” “sao ngắn ngủi vậy?” Cô nói: “Dạ, đúng vậy” Vị Thiên Đế hỏi nữa: “Cuộc sống loài người ngắn ngủi vậy thì họ dành thời giờ để ngủ hay là để tu hành để đạt khai ngộ.” Cô vợ trả lời: “Phu quân nói gì vậy? Loài người không quan tâm. Họ nghĩ có vô số năm để sống như thể không bao giờ già và chết.” Ngay cả đồng tu chúng ta cũng lãng phí thời giờ cho đủ thứ việc. Mặc dù chúng ta biết là không thể sống lâu quá 100 năm. Bởi vậy chúng ta chỉ nhờ vào lực lượng của Minh Sư mới giải thoát được. Tất cả những lập trình trên thế gian này đã lấy hết thời giờ của mình: Sinh nhụt bạn bè, con cái, xem phim, truyền hình, tin tức, thể thao, nấu ăn cho ngon đủ thứ chuyện hết Vị Thiên Đế vô cùng khó chịu, nên ông nói: “Hiền thê, nếu như nàng nói loài người tái sinh mà chỉ có 100 năm để sống mà họ chỉ biết sống say chết ngủ thì đến bao giờ họ mới thoát khỏi khổ đau?” 100 năm của chúng ta tương đương bằng một ngày đêm trên cõi trời 33. 30 ngày đêm trở thành một tháng. Họ có thể sống 1000 năm theo như con người tính toán thì là 36 triệu năm. Một ngàn năm ở đó bằng 36 triệu năm ở đây. Do đó đối với vị Thiên Đế đó chưa có một ngày nào đã trôi qua. Ngày hôm sau, khi chư tăng đi vào làng, nghĩa là ngôi làng có thiên nữ vừa qua đời và trở về với chồng cô. Chư tăng vào làng và thấy đại điện không có người chăm sóc. Bởi vì cô này thường chăm lo cho đại điện của tăng đoàn. Cho nên họ hỏi bởi vì không có nước và không có ghế ngồi. Nên họ hỏi: “Người Tôn Thờ Chồng đâu rồi?” Có người trả lời: “Thưa quý chư tăng, sao các ngài còn mong gặp cô ấy? Sau khi quý tăng ăn xong rồi đi, thì cô ta đã chết vào tối hôm đó rồi.” Do đó, các tỳ kheo nào chưa chứng được sơ quả, nhớ tới sự phục vụ tử tế của cô đối với họ, thì không thể cầm được nước mắt. Họ nhớ cô. Nhưng theo chuyện này, thì những người này chưa đạt được đẳng cấp tâm linh cao. Trong khi những tỳ kheo đã đắc quả A La Hán thì thấm thía pháp vị. Sau khi ăn sáng xong, họ đi đến tịnh xá. Nhưng nói quý vị hay không liên quan gì đến đẳng cấp tâm linh đâu. Dĩ nhiên, người ta cũng khóc bởi vì tình cảm ủy mị, bởi vì hiểu biết tâm linh thấp. Trong nhiều trường hợp, điều đó cũng xảy ra. Nhưng không liên quan gì đến thành quả tâm linh đâu. Bởi vì Đức Phật cũng khóc khi Ngài thấy đống xương đen của những người phụ nữ đã chết. Ngài xót xa cho phụ nữ phải chịu khổ mỗi tháng vì mất máu kinh nguyệt. Lúc còn sống phải làm việc cực nhọc, Bị gia đình kiểm soát hơn, bị chồng kiểm soát. Rồi khi sinh con cái nữa. Do đó khi qua đời xương của họ bị đen. So sánh với xương trắng của đàn ông. Nên Đức Phật khóc trước đống xương. Thành ra khóc cũng khác nhau. Khóc vì tình cảm hay khóc vì từ bi. Hai loại khác nhau. Sau khi ăn sáng xong, họ đến tịnh xá, và hỏi Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, cô gái Tôn Thờ Chồng, tích cực bận rộn làm đủ mọi công việc phước báu, nhưng chỉ ao ước về với chồng. Bây giờ cô đã chết. Thì cô tài sinh về đầu?” Rồi Đức Phật nói: “Này chư tăng, ca ta đã tái sinh về với chồng cô rồi.” Nhưng các tỳ kheo tranh luận: “Nhưng thưa Ngài, cô ta không ở cùng với chồng cô. Cho nên Đức Phật phải nói lại: “Này chư tăng, cô ta không mong mỏi anh chồng đó, mà chồng cô là Thiên Đế Trăng Hoa trên cõi trời 33. Cô ta qua đời từ cõi đó khi đang tô điểm hoa cho chồng. Bây giờ cô ta trở về nơi cô sống trước đây, và tái sinh sum hợp với chồng.” Rồi các tỳ kheo hỏi nữa: “Thưa Ngại có thật vậy không? Đức Phật nói: “Đúng vậy, ta nói sự thật.” Tỳ kheo than vãn: “Thưa Ngài, đời sống chúng sinh trên cõi đời nầy sao quá ngắn ngủi. Mới sáng sớm, cô ta còn phục vụ thức ăn cho chúng con, mà tôi dến đã ngã bệnh qua đời.” Phật trả lời: “Đúng vậy, chư tăng. Thật sự như thế. Đời sống chúng sinh trên cõi ta bà này thật sự ngắn ngủi. Do đó, trong khi chúng sinh còn ham muốn những thứ trên Địa Cầu chưa được thoả mãn các thú vui thể xác, thì cái chết đã đến áp đảo và kéo họ đi trong tiếng khóc than.” Nói rồi, Ngài đọc bài kệ sau đây: Người mải mê hái hoa dục lạc. Chưa thỏa lòng thèm khát ước mong. Đã trông thấy kìa ông Thần Chết. Nắm cổ lôi đi hết một đời.” Ý nói về người phụ nữ hái hoa. Nhưng nghĩa hầu như mỉa mai. Cô còn bám vào mối quan hệ của cô vào thói quen ở cùng cõi chồng. Cho nên Đức Phật nói không phải đến đó chỉ để hái hoa. Không phải vậy mà chỉ vì cô ta bám lấy chồng, bởi vì cảm thấy vui sướng với chồng. Cảm thấy thuộc về nơi đó. Ý của Đức Phật là vậy. Cho nên, đầu óc bị ràng buộc chỉ vì một người đàn ông như thế thôi. Những loài người này sẽ bị thần chết chế ngự. Tức là Ma Vương, Diêm Vương kiểm soát sinh tử.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |