BMD Buddish stories lotus root-Gathering 2015 Những ai biết quý trọng niềm vui của sự xã bỏ sẽ quay lưng trước những lạc thú trần gian; tránh xa như thể những thứ này sẽ hạ nhục hoặc làm hại họ. Có lần một vị bồ tát, nghĩa là tiền kiếp của Đức Phật, được sinh ra trong một gia đình Bà La Môn nổi tiếng đức hạnh và không trụy lạc. Và vị này có sáu người em trai tính nết đều tương tự như người anh. Ông cũng có một người em gái. Các em ai cũng noi theo người anh về mọi mặt vì thương yêu, kính trọng anh. Người anh học kinh Vệ Đà. Vệ Đà là cuốn kinh Hồi giáo, sách cổ xưa. Và thông thạo các kiến thức về y học, võ thuật, âm nhạc và thủ công nghệ, được mọi người vô cùng tôn kính. Ngài là một người con tận tình đối với cha mẹ, kính trọng cha mẹ như Thượng Đế. Đối với các em thì Ngài như một người thầy tâm linh hay một người cha dạy dổ các em đủ các khóa học. Ngài xuất sắc về những vấn để thế gian cũng như nỗi bật về sự kỷ luật và lối sống hoàn mỹ của Ngài. Thời gian trôi qua, cha mẹ Ngài qua đời, sự ra đi của họ làm Ngài rung động. Sau khi mai táng, sau vài ngày để tang, ông tập hợp các em lại và nói như sau: “Dù chúng ta có muốn bên nhau mãi mãi, cái chết bao giờ cũng ngăn cách ta ra khỏi người thân yêu. Đời là thế. Thế giới này là cội nguồn của mọi phiền muộn khổ đau. Cho nên ta muốn từ bỏ đời sống gia đình để ta không phải chết trong lúc vẫn còn quyến luyến cuộc sống trần gian. Ta muốn xa nhà theo con đường giác ngộ. Với quyết định đó, ta muốn khuyên các em vài điều trước khi chia tay. Gia đình mình làm ăn liêm chính kiếm được nhiều tiền của. Với của cãi này, các em có thể sinh nhai một cách dễ dàng. Vậy các em hãy ở lại nhà, sống đàng hoàng, chánh trực, thương yêu, tôn trọng lẫn nhau, tuân theo luân thường đạo lý, giữ gìn đức độ. Học hỏi kinh kệ và luôn luôn sẵn sàng làm hài lòng bạn, khách khứa cũng như thân quyến. Tóm lại áp dụng Đạo pháp, ý nói giáo lý chính trực của các minh sư thời xưa, từ chư Phật hoặc là từ Vệ Đà. Luôn luôn hành động có kỷ luật và hòa thuận với nhau. Lấy học tập và bố thí làm niềm vui. Hãy để sự chừng mực điểm tô đời sống với tư cách người tại gia. Thanh danh của các em sẽ càng vẻ vang, cùng với đạo đức và phú quý, mang hạnh phúc đến cho kiếp này cũng như các kiếp sau.“ Nhưng buổi nói chuyện nầy đời sống tại gia và sự chia tay đã khiến các em của Ngài vô cùng buồn bã. Buồn quá, không những họ không màng tới của cải, họ kính cẩn cúi đầu lạy và thưa với người anh cả rằng: “Cha chết chưa được bao lâu. Xin đừng giáng thêm nỗi buồn khác cho chúng em. Chúng em hãy còn mang nặng niềm đau mất phụ mẫu, quyết định của anh giống như muốn xát vào vết thương còn mới. Nếu anh thật tình nhận thấy quyến luyến đời sống tại gia là điều thiếu trí huệ, và đời sống trong rừng là con đường duy nhứt dẫn đến chân hạnh phúc, thì tại sao anh lại muốn đi một mình, bỏ chúng em lại không người bảo bọc? Đời sống anh chọn cũng sẽ là đời sống của chúng em. Chúng em cũng vậy, sẽ từ bỏ thế gian này với anh.” Người anh đáp: “Những kẻ không quen buông bỏ, họ không khỏi mù quáng chạy theo những ham muốn trần gian. Họ không thấy sự khác nhau giữa buông bỏ thế gian và nhảy xuống vực. Biết vậy nên ta không khuyến khích các em đi theo. Nhưng nếu các em thật sự vui lòng và quyết định đó thì chúng ta hãy cùng nhau rời nhà. Thế là cả bảy anh em trai cùng một em gái bỏ nhà cửa ruộng vườn và hưởng thụ sang giàu. Bạn bè thân nhân khóc lóc giã từ. Họ trở thành những kẻ không nhà, tu khổ hạnh, vào rừng cùng với một người bạn và hai đầy tớ, rủ lòng thương cũng theo. Một người đàn ông và một người đàn bà cùng theo. Họ phát hiện một cái hồ lớn trong rừng, nước hồ xanh trong vắt. Ban ngày, cảnh hồ rực sáng mỹ miều. Từng đám sen nở nhụy bồng bềnh trên mặt nước long lanh, và đàn ong vò vẻ trên gợn nước. Về đêm, huệ nước trổ bông. Trên bờ, họ xây những am thất bằng lá cỏ, cách nhau khoảng cách nào đó, mỗi am thất đứng riêng rẻ, khép mình sau những tàng cây. Mỗi 5 ngày thì họ gặp vị bồ tát một lần để cùng nghe những lời giảng dạy. Thường thường vị bổ tát nói về lợi ích của việc tọa thiển và tác hại của dục vọng. Hoặc Ngài giải thích về sự mãn túc của tâm buông bỏ, căn dặn đừng nên đạo đức giả, tán gẫu, biếng nhác, v.v. Bằng cách này, ngài đã gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe. Bây giờ nữ tỳ, đầy lòng kính trọng và thương yêu, đã tiếp tục theo phục vụ họ dù là trong rừng. Mỗi ngày, cô nhổ cũ sen ăn được từ dưới hồ, rồi chia đều trên những chiếc lá sen to. Khi thức ăn đã được chuẩn bị đàng hoàng rồi, cạnh bờ hồ, cô gõ hai miếng gỗ vào nhau, để họ biết bữa ăn đã sẵn sàng. Sau khi gõ, cô lùi ra. Rồi các anh em sau khi cầu nguyện và nghi lễ như thường lệ, họ sẽ đi về phía bờ hồ từng người một, tùy theo tuổi tác. Họ lấy phần của mình và thưởng thức bữa ăn. Thời giờ còn lại họ tọa thiền. Tu hành cách này, họ không phải gặp nhau bất cứ giờ nào, ngoại trừ lúc nghe người anh cả thuyết giảng. Tình thương không ràng buộc đã khiến họ nổi tiếng. Không những Ngài nổi tiếng, cả vua trời Đế Thích, cũng nghe danh gia đình thánh thiện này. Ông bèn tới chỗ ngụ của họ với mục đích đặc biệt là khảo họ. Trời Để Thích thấy khuynh hướng thiện hành của họ, tâm thoát khỏi những thói quen xấu, không ham muốn và sự trầm tĩnh đặc biệt của họ. Ông càng nể phục. Khiến ông càng muốn khảo họ. Những ai thoát khỏi ham muốn, những ai sống trong rừng sâu, bình tâm tu hành, họ luôn luôn gợi được sự tôn kính trong tâm những người đạo đức. Tàng hình, Đế Thích quan sát trong khi tỳ nữ thu nhặt những cũ sen trắng như ngà của chú voi con. Rồi cô rửa sạch sẽ chia đều, đặt lên những chiếc lá sen màu lục bào, trang hoàng mỗi lá bằng cánh hoa và phấn hoa. Ông quan sát, trong lúc cô gọi các vị khổ hạnh thánh thiện bằng cách gõ hai miếng gỗ vào nhau, ông quan sát cô rút lui. Ngay lúc đó, Để Thích hóa phép làm phần thức ăn đầu tiên trên lá sen biến mất. Vì ông nghĩ khi khó khăn xảy ra, sự thỏa mãn biến mất, mới đo lường được lòng kiên định của người đức độ. Khi vị bồ tát thấy cũ sen không có trên tấm lá của mình những cánh sen và phấn sen trang trí đã bị xáo trộn. Ngài thầm nghĩ: “Có người đã lấy phần thức ăn của ta.” Nhưng không hề thấy giận dữ hay xao động, Ngài trở về am thất như thường lệ và bắt đầu tọa thiền. Ngài cảm thấy không cần báo cho những người kia biết. Không muốn làm họ lo lắng. Dĩ nhiên họ tưởng Ngài đã dùng phần của Ngài rồi, họ lấy phần của họ như thường lệ và ăn một mình trong am thất. Sau đó họ trở vào thiền định. Cũng cách đó, Đế Thích lại giấu phần thức ăn của vị bồ tát và ngày thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm. Nhưng kết quả luôn luôn như nhau. Vị đại nhân vẫn bình tĩnh và hoàn toàn không băn khoăn lo lắng. Thật vậy, đối với người đạo đức, tình trạng lo âu bối rối của đầu óc, mà không phải sự kết liễu đời sống, đó mới là cái chết thật sự. Cho nên vị đức hạnh vẫn mải mãi binh tĩnh dù tình trạng nguy ngập đến tính mạng. Trưa ngày thứ năm, các vị tu khổ hạnh như thường lệ tới am thất của vị bồ tát để nghe giảng dạy. Nhưng khi trông thấy Ngài, họ kinh ngạc. Thân thể Ngài gầy guộc, hai má hóp lại, đôi mắt sâu hoắm. Nét rạng rỡ trên gương mặt đã tan biến. Giọng nói không còn hơi sức. Tuy vậy, dù có yếu thế nào, Ngài vẫn đáng yêu như vầng trăng khuyết vì đạo đức, trí huệ, tánh trung kiên và an nhiên của Ngài vẫn không thoái giảm. Sau khi tỏ lòng tôn kính vị bồ tát như thường lệ, cả gia đình nóng lòng muốn biết nguyên nhân đã gây nên tình trạng của Ngài. Vị Bồ Tát kể việc thức ăn bị mất. Họ hết sức lo lắng trước sự khổ sở của người anh. Nhưng với sự ngăn chặn của Đế Thích, họ không đoán được nguyên nhân của sự biến mất kỳ lạ đó. Rồi người em trai kế, bài tỏ sự kinh ngạc và vô tội của mình qua lời cam đoan đặt biệt như sau: “Cầu cho người nào lấy cũ sen của biểu Huynh sẽ được căn nhà giàu sang phú quý, một bà vợ đúng như ý muốn và con cháu đầy đàn.” Người em thứ hai sợ người khác nghĩ mình ăn trộm nên mới phải nói như vậy. Rồi người em thù ba cũng nói để chứng minh mình vô tội: “Cầu cho người nào lấy cũ sen của hiền Huynh sẽ làm gia chủ giàu sang, có một đại gia đình, hưởng hạnh phúc gia đình mà không bao giờ nghĩ tới ngày phải từ giã cõi đời.” Rồi người em thứ tư nói: “Cầu cho người tham lam lấy cũ sen của hiền Huynh sẻ cai trị cả Địa Cầu. Được các hoàng tử tôn thờ khúm núm như những nô lệ cúi đầu run rẩy lạy họ vậy.” Người em thứ năm: “Cầu cho người nào đã lấy cũ sen của hiền Huynh sẽ làm tu sĩ chức vụ cao trong triều.” Người em thứ sáu nói: “Cầu cho người mà ham có củ sen hơn là phẩm tính của hiền huynh sẽ trở thành một vị thầy nổi tiếng thông thạo kinh Vệ Đà, được nhiều người tôn sùng và xem như một đại sư khổ hạnh.” ‘ Người bạn nói: “Cầu cho người không kiềm được lòng tham muốn ăn cũ sen của Huynh được vua ban cho ngôi làng đẹp, có dân làng phát đạt, có kho dự trữ nhiều. Cầu cho người đó tới khi chết không kiềm được lòng ham muốn.” Người hầu nam nói: “Cầu cho người nào đã hủy hoại lợi ích của mình chỉ vì cũ sen sẽ làm thôn trưởng, có bạn bè đông đảo và được nhiều phụ nữ giúp vui giải trí.” Bây giờ tới phiên người em gái nói: “Cầu cho người nào đó lấy cũ sen của hiền Huynh trở thành người phụ nữ, nhan sắc tuyệt trần, tướng mạo trên đời không ai sánh kịp. Cầu cho vua cưới nàng làm vợ và đưa lên làm chánh hậu trong số 1 ngàn cung nữ.” Người hầu gái nói: “Cầu cho kẻ nào để tâm lấy những cũ sen đó, thay vì nhận lãnh đạo pháp, sẽ được sung sướng ăn đồ ngọt một mình trong bóng tối. Kẻ đó sẽ tảng lờ tất cả những gì đạo đức mà sung sướng hưởng thụ mỗi lần được món ngon.” Rồi bây giờ ba sinh vật trong rừng cũng tới gần nghe đàm phán: một con quỷ dạ xoa, một con voi và một con khỉ. Nghe qua cuộc đàm luận, họ sợ hãi, hoang mang. Dạ xoa xác nhận mình vô tội, nghiêm túc quả quyết như sau: “Kẻ nào thất lỗi với Ngài vì cũ sen sẽ làm trưởng một tu viện lớn, sẽ chịu trách nhiệm cho mọi sửa chữa trong thành phố Kakangala, và phải xây cất mỗi ngày một cửa sổ.” Và con voi cũng vô tội, nói: “Kính bạch Mâu Ni, cầu cho kẻ lấy cũ sen của Ngài sẽ bị lôi ra khỏi khu rừng đẹp đẻ này và phải sống với con người. Cầu cho kẻ đó bị cùm bằng 600 sợi xích sắt cứng. Và đau đớn trước gậy nhọn của người cưỡi nó.” Con khỉ cũng nói: “Cầu cho ai mà động lòng tham lấy cũ sen của Ngài sẽ đeo vòng hoa rẻ tiền và vòng thiếc buộc chặt ở cổ. và bắt phải nhảy múa trước mặt con rắn. Cầu cho kẻ đó phải ở trong nhà con người.” Rồi với những lời nhẹ nhàng vị bồ tát cho thấy chiều sâu của tánh bình tĩnh, thản nhiên của Ngài. Nên Ngài nói: “Cầu cho ai mà nói dối là mấy cũ sen đã biến mất, mặt dù họ có mấy cũ sen đó, sẽ đạt được mỗi lạc thú trần gian mà người đó ao ước và qua đời là một người tại gia. Và số phận đó cũng xảy ra cho bất cứ ai mà nghi ngờ người khác có hành động lấy trộm đó.” Những phản kháng đặc biệt như thế chứng tỏ họ ghê tởm tất cả lạc thú trần gian. Vô cùng ngạc nhiên, Đế Thích hiện ra với hình dáng sáng ngời, Tiến tới gần những người tu khổ hạnh, và nói: “Ông không nên nói với thái độ như thế. Mọi người trên thế gian ước ao hạnh phúc, một số cố tìm hạnh phúc một cách mãnh liệt khiến họ không bao giờ ngủ được. Chỉ vì hạnh phúc mà con người chịu muôn vàn hối tiếc và khổ cực. Thế mà Ngài lại phỉ báng những thú vui nầy. Làm sao Ngài gọi là lạc thú trần gian. Làm sao mà Ngài phán đoán như thế? Bấy giờ vị bồ tát đáp: “Những thú vui nhục dục mang theo đau khổ triền miên, thưa ngài. Nghe đây, tôi sẽ nói với Ngài đích xác tại sao các Mâu Ni tránh xa ham muốn. Con người sẽ chịu đựng ngục tù của cái chết, sầu khổ, mệt mỏi, nguy hiểm và vô số tai họa, chỉ để đạt được dục vọng của họ. Các vua chúa sẵn sàng đàn áp đạo đức rồi rơi vào hết địa ngục này, tới địa ngục khác sau khi qua đời. Khi tình bằng hữu đột nhiên đổ vỡ. Khi du hành trên những con đường sai lầm và dơ bẩn, chỉ vì thủ lợi, nghĩa là thuận tiện, khi danh tiếng không còn và đau khổ trỗi dậy, thì không phải luôn là hậu quả của ham muốn hay sao? Lạc thú trần gian có khuynh hướng hủy hoại mọi người, người địa vị cao nhứt, trung bình, và thấp hèn nhất. Cả trên thế gian nầy lẫn kiếp sau. Do đó, hỡi ôi, Đế Thích, để tạo lợi ích cho chính họ, nhưng tu sĩ tránh xa ham muốn như thế tránh con rắn độc giận dữ.” Bấy giờ Để Thích cuối cùng có lẽ bị thuyết phục và ấn tượng bởi những lời lẽ của vị Bồ Tát. Và ông bên đáp lại: “Nói rất hay, bởi vậy Đế Thích thú nhận rằng chính ông là người lấy trộm cũ sen. Nên ông nói: Đạo đức cao chỉ có thể khảo bằng thử thách, do đó tôi đã giấu cũ sen. Thế giới may mắn biết bao khi vinh quang được chứng minh bằng hành động như thế! Đây, xin nhận những cũ sen này từ tôi là chứng minh cho hành vi kiên định và thánh thiện của Ngài.” Sau đó ông trao cho vị bồ tát những cũ sen. Nhưng đấng vĩ đại với đức hạnh chân chính không hề có ngã mạn, mắng Để Thich vì hành vi không thích đáng và cản trở này của ông: Chúng tôi không họ hàng gì với ông, Chúng tôi thậm chí không phải bạn của ông. Chúng tôi cũng không phải những diễn viên hoặc mấy tay hề. Vậy lý do gì mà ông tới đây, hởi giáo chủ của các Thiên Đế, để đùa cợt với các tu sĩ kiểu này?” Cho nên Đế Thích nhanh chóng bỏ xuống tướng mạo thiêng liêng, đôi bông tai, vương miện và sấm sét. Cúi đầu chào một cách kính cẩn, ông nói những lời này với vị Bồ Tát: “Hỡi đấng vĩ đại, Ngài hoàn toàn vị tha, xin hãy dung thứ cho những hành động thiếu suy nghĩ của tôi, như một người cha hay thầy. Không có gì là bất thường khi những ai mất trí huệ vẫn còn dám đi ra xúc phạm người khác. Xin tha lỗi cho tôi xúc phạm của tôi và cầu xin Ngài rộng mở đối với tôi.” Nên sau khi năn nỉ xin khoan dung với vị Bồ Tát, Đế Thích lập tức biến mất. Từ câu chuyện, có thể thấy rằng, những ai học trân quý hạnh phúc và sự sống đơn độc, thì không thích những lạc thú trần gian. Họ sẽ tránh chúng như là một người tránh nhục nhã hay tai hại. Truyện tiền kiếp này được giải thích bởi Đức Thế Tôn (Đức Phật). Đức Phật nói: “Ta là người anh trưởng vào lúc đó, Xá Lợi Phất, Mục kiền Liên, Ma Ha ca Diếp, Phú Lâu na, A Na Luật và Anan là những người em trai, Liên Hoa Sắc là có em gái, Kubgottara là người hầu nữ, Kitra , người tại gia là người hầu nam, Satagiri là Dạ Xoa, và Pariliya là voi, Madhudatar là khỉ. Kalodayin đã là Đế Thích lúc đó.” Tất cả những vị này giờ là đệ tử của Đức Phật.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |