Một giòng sông để đổi lấy nhân mạng A Nan (thị giả của Phật Thích Ca Mâu Ni) hỏi Phật, 'Bẩm Thế Tôn, Ngài có thể kể cho chúng con biết Ngài đã làm gì trong tiền kiếp để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh không?' Ðể trả lời, Ðức Phật kể cho A Nan câu chuyện sau đây: A tăng kỳ kiếp trước, trên địa cầu có bốn giòng sông và hai vị đại vương. Một vị vua mang tên Brahmadeva, có nghĩa là Phạm Thiên (lực lượng sáng tạo tối cao), có ba giòng sông trên lãnh thổ của ngài. Quốc gia và dân tộc của ngài rất giàu có, tuy nhiên lại yếu về mặt quân sự. Lãnh thổ của vị vua kia, tên là Vajradati, chỉ có một giòng sông và ít dân hơn, nhưng dân chúng rất giỏi về quân sự. Vua Vajradati nghĩ, 'Quân lính của ta rất hùng mạnh, nhưng trong nước chỉ có một giòng sông, không đủ sức cung cấp nước. Quân đội của vua Brahmadeva thì yếu hơn, nhưng lãnh thổ của ông có ba giòng sông. Chúng ta nên đòi ông một giòng sông. Nếu ông đồng ý, chúng ta sẽ làm bạn và giao hảo tốt đẹp với ông. Nhưng nếu ông từ chối, ta sẽ xâm lăng nước ông. Nếu ông tặng ta một giòng sông, ta sẽ chia sẻ tất cả với ông và đến cứu dân ông nếu có thiên tai. Bằng không ta sẽ tấn công!' Nên vua Vajradati triệu tập bá quan để bàn luận, rồi thảo một lá thư cho vua Brahmadeva. Khi vua Brahmadeva nhận lá thư, ông do dự không muốn đầu hàng và tự nhủ, 'Chà! Tổ tiên đã trao lại giang sơn đất nước này cho ta. Ta đâu có chiếm đoạt từ vua Vajradati. Ông có quyền gì đòi hỏi như vậy?' Cho nên ông nói với sứ giả, 'Ta không lập ra giang sơn này. Nó được vua cha và tổ tiên truyền lại. Nhà vua của ông thật vô lý khi đòi hỏi ta phải nhượng đất! Nếu ông muốn chiến tranh, chúng tôi cũng không nhã nhặn.' Sứ giả trở về nước báo cáo tình hình cho vua Vajradati. Không bao lâu Vajradati gửi đại hùng binh đến xâm lăng nước của vua Brahmadeva. Và quân đội của vua Brahmadeva hoàn toàn thảm bại. Kế tiếp, vua Vajradati tiến vào kinh thành, vây hãm hoàng cung, khiến cho vua Brahmadeva quá khiếp sợ, không dám chống cự. Thấy tình trạng nguy hiểm, bá quan khuyên nhà vua, 'Bẩm hoàng thượng, lính của họ rất can đảm và hùng mạnh, quân của ta thì yếu nhược. Tại sao hoàng thượng lại lưu luyến một giòng sông để cho dân phải lâm cảnh hiểm nghèo? Nếu ngài tiếp tục như vậy, chúng ta thậm chí có thể mất cả giang sơn. Xin ngài nghĩ lại và hiến giòng sông cho vua Vajradati.' Vua Brahmadeva ưng thuận và bá quan đến gặp vua Vajradati nói rằng, 'Quốc vương của chúng tôi đã chấp nhận đòi hỏi của hoàng thượng. Nhà vua cũng cống hiến cho hoàng thượng một nàng công chúa. Kể từ nay hai quốc gia chúng ta giữ mối giao hảo tốt đẹp, chia sẻ lẫn nhau, bảo vệ và giúp đỡ lẫn nhau khi hiểm nghèo.' Rồi hai vị vua làm hòa, mỗi người trở về quốc gia của mình và vua Vajradati đem công chúa về làm vợ. Một Người Đạo Đức Làm Lợi Ích cho Tất Cả Sau một thời gian, công chúa mang thai và trong thời gian này, một chiếc lọng quý xuất hiện phía trên đầu nàng. Bất kể công chúa làm chuyện gì, đi đứng nằm ngồi, lọng quý luôn luôn theo nàng. Khi thời gian đến, nàng sinh một bé trai, với thân thể chiếu sáng như vàng, tóc thật đẹp. Sau khi được sinh ra, chiếc lọng bắt đầu đi theo bé trai thay vì người mẹ, bởi vì lọng quý đến là vì bé trai. Nhiều thầy tướng số đến nhìn em bé và chỉ biết khen ngợi, 'Bẩm hoàng thượng! Hài nhi này thật khác thường! Hình dáng và vẻ mặt biểu lộ rằng hoàng tử là người đạo cao đức trọng, thế gian vô địch. Không ai sánh bằng!' Nhà vua và hoàng hậu rất vui mừng và theo phong tục hài nhi được đặt tên theo hai điều: Thứ nhất, hiện tượng lạ xảy ra; và thứ hai, tử vi theo ngày sinh của em bé (vị trí các vì sao và hành tinh khi hài nhi được sinh ra). Các thầy tướng số tâu, 'Bẩm hoàng thượng, có hiện tượng lạ gì xảy ra trong thời gian hoàng hậu mang thai không?' Nhà vua trả lời, 'Khi hoàng hậu mang thai, có một chiếc lọng thất bảo* thường che trên đầu và theo bà khắp mọi nơi.' Vì vậy hoàng tử được đặt tên là Bảo Cái (Lọng Quý). Khi hoàng tử đến tuổi trưởng thành, vua Vajradati băng hà và hoàng tử lên ngôi kế vị. Vua Bảo Cái thường rời hoàng cung để đi quan sát dân tình. Trong một ngày hè nóng nực, Ngài đi ra ngoài, thấy vài nông dân đang cày cấy ngoài đồng, không áo che thân dưới ánh nắng gay gắt. Ngài cũng nhìn thấy những chú trâu cày ruộng cực nhọc, lê bước qua bùn lầy kéo theo lưỡi cày nặng nề và để ý thấy rằng cả người và vật đều kiệt sức từ công việc gian khổ. Nhà vua hỏi tùy tùng vì sao các nông dân phải làm việc cực nhọc như vậy. Một vị quan tùy tùng trả lời, 'Quốc gia chúng ta lệ thuộc vào canh nông và hầu hết nhân dân đều là nông gia. Nếu họ không làm việc cực nhọc, chúng ta sẽ không đủ sống và dân chúng sẽ bị đói. Và nếu dân chúng sống trong đói khổ, quốc gia sẽ nguy khốn.' Nghe lời này, nhà vua liền lập nguyện, 'Nếu tôi thật sự là vị vua có nhiều ân điển, dân chúng tôi sẽ không phải làm việc cày cấy cực nhọc, nhưng sẽ có đủ gạo và các vụ mùa khác để thỏa mãn nhu cầu của tất cả mọi người.' Sau khi vua Bảo Cái lập nguyện cho tất cả mọi gia đình trong quốc gia, thì đủ loại gạo và sản phẩm tự nhiên sinh sản đầy đủ cho tất cả. Bất cứ loại gạo hay rau trái nào mà người dân ao ước đều hiện ra trong nhà. Một thời gian sau, nhà vua đi ra ngoài thăm dân tình, lần này Ngài thấy nhiều người đốn củi, khiêng nước và giã gạo. Họ đổ mồ hôi ràn rụa và trông như kiệt lực cho nên Ngài hỏi bá quan, 'Tại sao dân chúng của ta làm việc cực nhọc như vậy?' Và bá quan trả lời, 'Thưa hoàng thượng, nhờ ơn đức của Ngài, dân chúng giờ đã có đủ gạo và rau trái để ăn và không cần phải làm việc trong ruộng đồng. Tuy nhiên, họ vẫn phải giã gạo và đốn củi để đốt lửa nấu gạo. Cho nên họ vẫn phải làm việc cực nhọc.' Nghe lời này, nhà vua lại phát nguyện, 'Nếu tôi thật sự có đạo đức và quyền lực thiêng liêng để làm vua cõi đất này, thì xin cho bất cứ thức ăn nấu sẵn nào dân tôi muốn sẽ tự động hiện ra trong nhà họ. Vậy họ sẽ không phải bỏ nhiều công sức để nấu nướng.' Và cũng như trước, lời ước của nhà vua thành sự thật. Từ đó thức ăn tự động hiện ra cho dân chúng mà không cần phải nấu nướng. Sau một thời gian, nhà vua ra ngoài chơi, và trong dịp này, Ngài thấy một số người làm việc hùng hục quay tơ và dệt vải. Một lần nữa, ông hỏi bá quan về hoàn cảnh này và họ báo cáo, 'Nếu người dân không dệt vải, họ sẽ không có y phục để mặc và sẽ chịu khổ vì lạnh, cho nên họ vẫn phải làm việc.' Một lần nữa, nhà vua lập nguyện, 'Nếu tôi thật sự có ân sủng và đạo đức để làm vua nước này, xin cho dân chúng tôi có bất cứ y phục nào họ muốn và không phải làm việc cực nhọc để quay tơ dệt vải.' Và thật vậy, kể từ hôm đó, người dân có đủ loại y phục họ ao ước. Thay vì ra lá, cây cối trổ ra y phục. Người ta chỉ việc chọn những thứ họ thích và đem về nhà. Quả thật kỳ diệu! Sau đó, nhà vua lại ra ngoài chơi và thấy nhiều người làm những dụng cụ âm nhạc, cho nên Ngài hỏi, 'Những người này đang làm gì vậy? Tại sao họ phải làm việc cực khổ như vậy?' Và các quan tùy tùng trả lời, 'Hiện tại người dân đã có đủ ăn, đủ mặc và đủ y phục, cho nên họ muốn nghe nhạc. Họ muốn đánh các loại nhạc khí để giải trí.' Ô! Rồi một lần nữa, nhà vua lập nguyện, 'Nếu tôi có đủ công đức và phẩm chất cao thượng của một quốc vương, xin cho âm nhạc tự phát ra từ cây cối trong nước tôi và giải trí cho dân chúng bằng đủ loại nhạc khí họ mong được nghe.' Và điều này được thành tựu! Ðủ loại nhạc khí mọc ra từ cây cối cho dân chúng. Và nếu họ không muốn tự mình đánh nhạc, âm nhạc sẽ tự động phát ra từ các nhạc khí. Rồi sau một thời gian, bá quan đến gặp nhà vua, và vì đang là giờ ăn nên nhà vua mời họ dùng bữa với Ngài. Sau khi dùng bữa, các quan thấy rằng bữa ăn thật ngon miệng, thức ăn là những món ngon nhất họ chưa từng thưởng thức qua. Họ cảm thấy mạnh khỏe, hăng hái và hạnh phúc, cho nên họ tâu, 'Bẩm hoàng thượng, chúng thần chưa bao giờ được hưởng những thức ăn như vậy. Thật thơm ngon và bổ dưỡng khiến chúng thần cảm thấy thân tâm phúc lạc!' Nhà vua trả lời, 'Nếu các khanh ước được có những thức ăn này, các khanh phải ăn cùng lúc với trẫm. Rồi các khanh chắc chắn sẽ có được những thức ăn thơm ngon tại nhà.' Cho nên nhà vua ra thông cáo khắp nước rằng tất cả dân chúng nên ăn cùng giờ với nhà vua. Và kể từ đó, khi nhà vua dùng bữa, trống được trỗi lên để cho dân chúng biết đã đến giờ ăn. Khi họ ăn cùng một giờ, họ được thưởng thức cùng những thức ăn thơm ngon của nhà vua, khiến họ phấn chấn cả thân thể và tinh thần. Vua Brahmadeva Đòi Lại Giòng Sông Trong khi đó vua Brahmadeva gửi sứ giả đến chào và mang thông điệp đến cho vua Bảo Cái, 'Khi vua cha ngài còn sống, chúng tôi đã nhượng một giòng sông trong nước cho vương quốc Ngài. Giờ vua cha ngài đã băng hà, xin ngài vui lòng trả lại giòng sông cho chúng tôi.' Và vua Bảo Cái trả lời, 'Tôi không lấy sông của ngài để xây dựng nước tôi. Giờ đã là quốc vương, tôi sẽ không để cho dân chúng phải đau khổ. Ðây là chuyện nhỏ. Xin hãy kiên nhẫn. Tôi sẽ hội kiến với vua của các anh để bàn luận những vấn đề quan trọng hơn cho hai quốc gia chúng ta.' Sứ giả chuyển thông điệp từ vua Bảo Cái đến cho vua Brahmadeva, sau đó đã đồng ý gặp gỡ, và hai vị vua đồng ý ngày giờ hội kiến. Rồi hai vị vua, cùng với binh mã, đến bên bờ sông hiện đang chia cách hai quốc gia. Họ gặp nhau trên chiếc tàu ở giữa sông để bàn luận chuyện quốc gia đại sự. Khi gặp vua Bảo Cái, vua Brahmadeva vô cùng hâm mộ hình dáng uy nghi của ngài chiếu sáng như ngọn núi vàng, tóc ngài sáng như pha lê, mắt lấp lánh như sao, miệng đẹp như bông hoa, mũi cao và thẳng, mặt chữ điền oai nghiêm, lỗ tai dài đầy uy quyền. Ồ! Càng quan sát vua Bảo Cái, nhà vua càng thán phục. Ông nghĩ có lẽ vua Bảo Cái là hiện thân của Ðại Phạm Thiên vì trông Ngài không giống người thường! Hai vị vua nói chuyện về thời tiết và khí hậu tốt. Vua Bảo Cái nói, 'Dân chúng trong quốc gia tôi có đủ thức ăn và đồ dùng, tất cả đều tự nhiên đến không cần gắng sức. Họ không cần phải cống hiến tôi bất cứ gì. Chúng tôi không bắt đóng thuế hay tiền phạt, không cần phải thi hành luật lệ. Vì những lý do này, tôi không thể trả giòng sông lại để họ phải làm việc cực khổ cho ngài. Trong quốc gia tôi, dân chúng không cần phải làm gì cho nhà vua. Tất cả những gì họ muốn ăn, uống hoặc sử dụng đều đến một cách tự nhiên. Thậm chí y phục và âm nhạc cũng hiện ra tự nhiên. Họ có tất cả mọi thứ nên không cần phải làm bất cứ gì để phụng sự nhà vua.' Những lời này làm vua Brahmadeva kinh hoảng, nhà vua càng hoảng sợ hơn khi quân lính vua Bảo Cái bắt đầu đánh trống để ra tín hiệu ăn trưa. Vua Brahmadeva bắt đầu sợ hãi, nghĩ rằng quân lính sẽ bắt giết ngài, cho nên đứng dậy xin lỗi, chân tay ngài run rẩy. Vua Bảo Cái cũng đứng lên khuyên giải và yêu cầu ngài ngồi xuống, nhà vua nói, 'Ngài không cần phải lo. Ðã đến giờ ăn trưa nên quân lính tôi đánh trống để nhắc nhở dân chúng, vì nếu họ ăn cùng giờ với tôi, họ sẽ được những thức ăn ngon lành tuyệt diệu. Ðây là phong tục của nước tôi.' Nghe những lời này, vua Brahmadeva chắp tay nói, 'Hoàng thượng, xin ban rải tình thương của Ngài đến cho dân chúng tôi. Xin cho thức ăn tự nhiên hiện ra như là trong quốc gia của Ngài. Chúng tôi sẽ trở thành thần dân của ngài. Hôm nay chúng tôi sẽ đầu hàng!' Triều Đại Tuyệt Diệu của Thánh Vương Vua Bảo Cái đồng ý lời yêu cầu của vua Brahmadeva và từ đó trị vì cả hai nước. Sau đó, tất cả bá quan văn võ của nhà vua ngày đêm đến yiết kiến trong triều đình trang nghiêm, siêng năng trị quốc. Một buổi sáng, một chiếc xe quý có bánh xe bằng vàng bay đến vương quốc từ phương trời Đông. Chiếc xe trông vô cùng xinh đẹp, huy hoàng, chiếu sáng mặt đất bên dưới. Chứng kiến cảnh này, vua Bảo Cái bước xuống ngai vàng, quỳ xuống bái Thiên Ðịa, 'Nếu tôi có đủ ân điển và công đức để trở thành Chuyển Luân Thánh Vương (Chakravartin**), xin hãy cho chiếc xe kỳ diệu này ở lại!' Khi nhà vua vừa nói xong, chiếc xe ngưng lại giữa trời trước cung điện, rồi nhiều báu vật xứng đáng cho bậc thánh vương cũng bay đến, bao gồm voi quý, phụ nữ, ngọc báu và quân lính bằng điện, có lẽ là người máy. Có đủ thứ vật lạ. Chiếc xe được gửi đến cho vị thánh vương có thể là dĩa bay của thời xưa, bởi vì dĩa bay thậm chí đã có từ thời đó! Nó đến từ một hành tinh khác và rất tuyệt diệu! Có rất nhiều dụng cụ xứng đáng cho vị thánh vương! Kể từ đó, vua Bảo Cái trở thành Chuyển Luân Thánh Vương, sở hữu nhiều của báu và cai trị bốn đại lục. Ân điển và công đức của ngài đem đến hòa bình và hạnh phúc cho tất cả mọi chúng sinh và thỏa mãn mọi nhu cầu của họ. Trong triều đại của ngài, dân chúng đều giữ 10 thiện giới như sau: 1. Không sát sanh; 2. Không trộm cắp; 3. Không tà dâm; 4. Không nói dối; 5. Không gieo hạt giống bất hòa, có nghĩa là không ngồi lê đôi mách gây chuyện giữa hai nhóm bằng cách nói xấu nhóm này với nhóm kia; 6. Không nói lời hiểm độc; 7. Không phóng đại, thí dụ, về những điều thật sự xảy ra trong một hoàn cảnh, không chế thêm làm hoang mang người khác; 8. Không tham lam; 9. Không phẫn nộ; và 10. Không mê đắm. Tất cả mọi người trên lãnh thổ đều giữ 10 giới luật và được lên thiên đàng sau khi vãng sinh. Nguyên nhân bắt đầu từ a tăng kỳ kiếp. Khi đó, Ðức Phật nói, 'A Nan, anh phải biết rằng vua Bảo Cái thật ra là ta, trong một tiền kiếp! Và vua Vajradati hiện tại là cha ta và hoàng hậu của ngài là mẹ ta.' Ðức Phật tiếp tục kể, 'Lúc đó, ta rất từ bi và yêu thương chúng sinh như con cái của mình. Ta chia sẻ của cải và giáo lý để dẫn đạo họ. Vì lý do này, ngày nay ta đã thành Phật tối cao trong Tam Giới và không chúng sinh nào sánh bằng. Cũng vì lý do này và nhờ duyên nghiệp, những người theo ta thời đó được học hỏi cách tu hành tâm linh, phát triển lòng từ bi làm lợi ích cho người khác và cùng thiền định với nhau.' A Nan hỏi Ðức Phật, 'Bẩm Thế Tôn, con xin hỏi nhân duyên nào đã khiến vua Bảo Cái trở thành Chuyển Luân Thánh Vương và được chiếc lọng quý bảo vệ ngay cả trước khi sinh ra đời?' Ðức Phật trả lời, 'A Nan, thời xa xưa, hằng a tăng kỳ kiếp trước trên trái đất, trên một linh sơn có một vị Ðộc Giác Phật sống trên đó bị bệnh trúng phong. Y sĩ bảo ông phải dùng sữa trong hoàn cảnh này. Cho nên vị Ðộc Giác Phật đi gặp một người lái buôn tên Seng-you, kể cho ông về căn bệnh của Ngài và xin chút sữa. Người lái buôn vui vẻ cúng dường sữa cho Ngài. Và sau khi uống sữa trong ba tháng, vị Ðộc Giác Phật khỏi bệnh. Cảm tạ người lái buôn, Ngài ước rằng Seng-you sẽ nhận được ân điển và công đức vô lượng. Cho nên Ngài bay lên không gian hiện thân A La Hán. Có lẽ Ngài hiện thân thật lớn như bầu trời, rồi thu nhỏ lại như sợi tóc. Bằng cách này, Ngài thay hình đổi dạng cả thảy 13 lần và Seng-you thật vui mừng khi chứng kiến cảnh này. Cuối cùng vị Ðộc Giác Phật hạ xuống từ bầu trời và chấp nhận quà cúng dường. Một thời gian sau, vị Ðộc Giác Phật nhập niết bàn. Seng-you rất nhớ Ngài, cho nên sau khi vị Phật được hỏa táng, Seng-you giữ lại xá lợi của Ngài, bỏ vào một bình đựng tro bằng vàng. Kế tiếp ông xây một bảo tháp để giữ bình tro vàng và xây chiếc lọng quý để che trên ngôi chùa. Sau đó ông cúng dường cho ngôi chùa trong suốt đời ông, cung cấp hương hoa, trái cây và âm nhạc; không thiếu thứ gì.' Rồi Ðức Phật bảo A Nan, 'Anh phải biết công đức cúng dường Ðộc Giác Phật đã tạo nên vô lượng công đức cho Seng-you, vì vậy cả trên hai cõi Trời và Ðất ông luôn được hưởng địa vị vinh quang và sống trong mãn nguyện. Mỗi lần ông ở trong bào thai, ông đều được bảo vệ bởi một lọng quý phía trên đầu. Anh cũng nên biết rằng Seng-you thời đó thật ra là ta. Vì vậy tất cả mọi người, tại gia và xuất gia, nên tu phước, rồi từ kiếp này sang kiếp khác họ sẽ hưởng công đức vô lượng.' Nghe xong bài pháp, tất cả mọi người vô cùng vui mừng và phát tâm cúng dường. Truyện đến đây kết thúc! Sự Cúng Dường Tuyệt Đối Bất cứ gì chúng ta có, chúng ta đều tự mình làm nên. Không có gì vĩ đại về việc này! Không ai cho chúng ta điều gì. Tất cả đều do chúng ta tạo ra, dù là giàu có hay nghèo khổ! Quý vị thấy chứ, người dân của quốc gia đó không thể tận hưởng hòa bình an lạc mà không có công đức của vị lãnh đạo. Cho nên chúng ta không thể đơn giản trở thành một nhà lãnh đạo hay một Minh Sư khai ngộ chỉ vì chúng ta muốn như vậy. Chúng ta phải có đủ phước báu để chia sẻ với đệ tử, với thần dân và thuộc hạ của mình. Vì vậy, từ thời xưa, người ta rất vui mừng được gặp một vị minh quân, nói rằng họ nhờ vào ân sủng của nhà vua và tuyên dương ngài là 'Thánh Vương' hay 'Thánh Thượng'. Theo Thánh Kinh, khi vua David phạm một số lỗi lầm, Thượng Ðế đã phạt dân tộc của ông với ba ngày bệnh dịch (Chronicles 1:21). Cũng có câu chuyện trong lịch sử Trung Hoa nói rằng, nếu một vị vua có quyền lực thiêng liêng tuyệt đối, lời nguyện của ông có thể dời thiên chuyển địa. Nhưng nếu ông là người thiếu anh minh hay độc đoán, lời cầu nguyện của ông sẽ vô dụng, ông không thể giữ mạng sống cho chính mình, vương quốc của ông sẽ sụp đổ và nhiều người bị mất mạng. Câu chuyện lịch sử này cho thấy vì sao chúng ta cần phải tu hành. Hiện tại chúng ta đã có Pháp Môn Quán Âm, vậy tại sao chúng ta còn phải tu hành? Tại sao chúng ta cần phải khiến cho ân điển, công đức và những phẩm chất đạo đức của mình càng cao cả hơn? Tu hành pháp Quán Âm và được giải thoát đã đủ rồi, tại sao chúng ta cần phải đạo đức và lương thiện? Minh Sư đã bảo đảm sự giải thoát cho chúng ta, vậy tại sao chúng ta phải tu hành đạo đức? Câu trả lời là, điều này vẫn cần thiết để chúng ta có thể ảnh hưởng người khác, trong trường hợp Thượng Ðế muốn chúng ta trở thành vua hay đại quan trong tương lai, dẫn đạo dân chúng hoặc trở thành Minh Sư khai ngộ. Nếu chúng ta có được sự chấp thuận tuyệt đối của Thượng Ðế, tất cả môn đồ hay thuộc hạ sẽ được lợi ích từ ân điển của chúng ta và tận hưởng sự mãn túc và chân phúc. Cho nên chúng ta không nên hấp tấp trở thành một vị thầy tâm linh, hoàng đế, tổng thống hay đại quan. Nếu định mệnh an bài, thì cuối cùng nó sẽ thuộc về chúng ta. Chúng ta không thể từ chối cho dù không muốn; nó là thiên mệnh của chúng ta. Nếu không phải là thiên mệnh nhưng chúng ta cố tình dùng sức cưỡng ép, kết quả sẽ không tốt và những cản trở nghiệp chướng sẽ gia tăng. Trong địa ngục, có rất nhiều những người gọi là minh sư giả, hoàng đế và những người gọi là thánh và thầy tu! Vì vậy chúng ta không nên tham danh tiếng hay địa vị hão huyền mà thay vào đó cần phải tuân theo sự an bài của Thượng Ðế. Khi được yêu cầu làm điều gì, chúng ta phải làm hết sức mình. Nếu không ai yêu cầu, chúng ta chỉ đơn giản ăn và ngủ. Vua Bảo Cái không làm chuyện gì vĩ đại trong tiền kiếp để có được công đức nhiều như vậy. Ông chỉ cúng dường một vị Phật. Tuy nhiên, ông rất tự nhiên trong việc cúng dường, và đó là điều hay. Ðó là 'bố thí viên mãn' cả người nhận lẫn người cho cần phải tinh khiết trong thân khẩu ý và không có ý tham sân si. Vua Bảo Cái chỉ vui vẻ cúng dường và không nghĩ đến việc kiếm công đức và Ðức Phật hoan hỷ nhận cúng dường. Cả hai bên đều không cảm thấy mang ơn hay phải trả ơn bên kia. Chỉ trong trường hợp đó mới là cúng dường viên mãn khiến cả hai đều lợi ích. Ðó là lý do tại sao vị này chắc chắn được lợi ích từ hành động của mình. Công Đức Bất Khả Tư Nghì của Một Vị Phật Sống Từ câu chuyện này, chúng ta nhận thấy rằng một người thành Phật hay một người đại tu hành có thể giúp đỡ vô số người khác! Ngài (Ðộc Giác Phật) làm lợi ích cho người lái buôn cúng dường Ngài; và sau khi người lái buôn trở thành Chuyển Luân Thánh Vương, ông cũng làm lợi ích cho hàng tỷ người. Quý vị có thể tưởng tượng không? Không phải là lợi ích trực tiếp mà là lợi ích gián tiếp. Ðiều này có nghĩa là lực lượng bắt nguồn từ hằng a tăng kỳ kiếp về trước vẫn còn tồn tại! Quý vị có thể tưởng tượng được công đức không thể nghĩ bàn không? Cho nên, đối với một người tu hành tâm linh, một Minh Sư khai ngộ hay Minh Sư tại thế đến thế giới này, bất cứ Ngài làm gì, dù là ăn uống, cười đùa, tất cả mọi việc đều vì lợi ích của người khác! Thêm vào đó, sự lợi ích này không kéo dài chỉ trong vài kiếp; nó tiếp tục hằng vô lượng a tăng kỳ kiếp! Quả là công đức dễ sợ! Vì vậy, sau khi quý vị tu hành thành tựu rồi cũng trở nên dễ sợ. Bất cứ ai cúng dường cho quý vị sẽ trở nên dễ sợ; công đức quá dễ sợ! Ðó là lý do tại sao chúng ta phải khiến cho công đức của mình trở nên cao thượng hơn và không chỉ nghĩ đến riêng mình. Lợi ích này quá lớn lao, không thể nghĩ bàn và không thể đo lường. Tuy nhiên, chúng ta không thể đạt được phần thưởng gia trì chỉ qua cách bố thí cho người khác. Chúng ta không thể nhận lãnh ân sủng của Thượng Ðế chỉ qua cách ép buộc người khác phải nhận sự cúng dường bừa bãi của mình. Không! Không! Không! Ðiều này chỉ là ngược đãi họ. Thí dụ, vị Ðộc Giác Phật thật sự gặp khó khăn lúc đó. Ngài không có tiền; Ngài già yếu và không làm việc được. Ngài trong tình trạng khẩn cấp và mang bệnh. Cho nên vào lúc đó, bất cứ ai sẵn sàng cúng dường cho Ngài là làm đúng lúc, đúng hoàn cảnh! Chúng ta không nên bố thí bừa bãi chỉ vì muốn được gia trì, hoặc ép người khác phải nhận đồ vật của chúng ta, chỉ vì chúng ta có quá nhiều của cải; bởi vì như vậy là chúng ta cưỡng ép họ phải chấp nhận món đồ, cho dù họ không muốn. Ðiều này giống như là muốn vứt bỏ thứ gì nhưng không muốn bỏ vào thùng rác cho nên chúng ta vứt lên người khác. Ðiều này cũng không tốt. Chúng ta không nên đòi hỏi công đức. Bố thí hay cúng dường cho người tu hành đem đến phần thưởng lớn lao, nhưng chúng ta không nên lạm dụng tinh thần họ. Chúng ta chỉ nên tặng khi họ cần. Nếu họ không cần, chúng ta không nên cúng dường. Từ trường hợp của Thích Ca Mâu Ni Phật, chúng ta có thể thấy rằng công đức cúng dường cho những người tu hành vĩ đại thật không thể nghĩ bàn! Ðó là lý do tại sao người ta nói, 'Gặp Phật rất hiếm.' Quả thật rất khó gặp được Minh Sư khai ngộ! Bất cứ gì Ngài làm chỉ là để đem lợi ích đến cho quý vị. Ngài chỉ cho, cho và cho. Nếu so ra, những gì quý vị cúng dường Ngài chỉ là rác rến; không là gì cả! Chỉ là cái cớ để cho quý vị cảm thấy thoải mái. Cho nên quý vị thấy đó, cúng dường một người tu hành được nhiều lợi ích hơn là bố thí cho hàng tỷ người. Chúng ta không bao giờ nghe trong các chuyện cổ Phật Giáo, rằng bố thí cho vô số người thường sẽ được công đức vô lượng. Không! Chúng ta chỉ nghe rằng người nào cúng dường một vị đại tu hành sẽ được công đức lớn lao, kéo dài hàng triệu a tăng tỳ kiếp! Trước đây tôi có nói với quý vị rằng một vị Minh Sư ăn hay uống bất cứ gì ở đây là chỉ để giúp đỡ cho thế giới. Khi Ngài đến một quốc gia nào, đó là để gia trì cho quốc gia này. Nếu Ngài tiếp nhận bất cứ gì, cũng là để gia trì cho người dân của quốc gia đó. Thật ra Ngài không cần gì cả. Giờ quý vị đã biết tại sao chúng ta phải làm cho phước báu và công đức của mình cao cả hơn không? Trong trường hợp Thượng Ðế cần chúng ta vì lý do nào đó trong tương lai, những người theo hay tin tưởng chúng ta cũng sẽ nhận được ân điển và phần thưởng tuyệt đối. Tu Thân Trước Khi Trị Quốc Phật Thích Ca Mâu Ni đề cập đến ân sủng của quốc gia và ân sủng của các quốc vương, bốn loại ân sủng. Nếu vị lãnh đạo tốt và tình trạng chính trị cũng tốt, người dân sẽ hưởng hòa bình và hạnh phúc, tùy theo quyền lực thiêng liêng của nhà vua. Nếu tình trạng kinh tế ổn định và có tự do chính trị, và người dân sống trong thanh bình và hòa thuận, họ phải cảm tạ ân điển của quốc gia và các nhà lãnh đạo. Nhưng chúng ta làm cách nào để biểu lộ lòng biết ơn? Bằng cách trở nên cao thượng hơn để công đức của quốc gia càng tăng trưởng! Giả sử chúng ta đã có đủ tài sản và sự thoải mái vật chất, bắt đầu cảm thấy thỏa mãn và lười biếng, nghĩ rằng chúng ta không cần phải tiến bộ về tâm linh. Ðiều này cho thấy chúng ta sở hữu quá nhiều phẩm chất của một người phàm phu. Tuy nhiên, nếu chúng ta có nhiều tiền của và vui hưởng một cuộc sống thoải mái nhưng vẫn mong mỏi buông bỏ thế giới, nhận ra bản chất vô thường của cuộc sống và thoát khỏi sự tham lam, ràng buộc, thì chúng ta biết rằng mình đã tu hành tâm linh nhiều kiếp và có phẩm chất của bậc thánh. Không ân sủng nào cao hơn là ân sủng đến từ sự tu hành. Khi chúng ta đắc đạo, bất cứ ai phụng sự chúng ta sẽ được phần thưởng. Ðây là cách chúng ta đem ân điển lại cho thế giới. Bằng không, công đức tầm thường của một người phàm phu không bao giờ dẫn đến sự nâng cao tâm thức. Khi đọc những câu chuyện này, chúng ta nên đào sâu vào ý nghĩa chân thật và học hỏi đạo lý bên trong, thay vì chỉ giải trí. Ồ! Người này trở nên như vầy, người kia biến thành hình dáng như vậy, trở thành Chuyển Luân Thánh Vương và v.v. Ô! Có thức ăn, có thức uống, cơm gạo tự nhiên xuất hiện như ảo thuật, v.v. Những yếu tố này không phải là trọng tâm của câu chuyện. Thay vào đó, chúng ta cần phải nhận ra đạo lý vĩ đại đằng sau. Chỉ có sự tu hành là nguồn ân điển thiêng liêng cao cả nhất. Chia sẻ giáo lý tối thượng mới là sự bố thí cao quý nhất, vì như vậy là chúng ta giúp cho người khác thực hành pháp môn tối thượng hầu đạt được công đức tối cao. Vì vậy từ thời xưa có nói rằng, tu hành đắc đạo là cách tốt nhất để độ thế giới. Và sau khi đọc những chuyện này, chúng ta nhận ra rằng những câu chuyện tương tự có thể được tìm thấy trong Thánh Kinh, trong Kinh Phật, Kinh Lão Giáo và những kinh điển khác. Cho nên, dù chúng ta muốn trở thành bất cứ gì, đầu tiên chúng ta phải tu thân trước rồi mới tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Thánh hiền thời xưa không nói quá lời hay quá đáng. * Theo Kinh Phật, khi một Chuyển Luân Thánh Vương sinh ra đời, thì thất bảo là bánh xe quý, voi quý, ngựa quý, quan giỏi, tướng trung, ngọc thiêng và nữ quý cũng sẽ hạ trần trong cùng thời điểm. ** Chakravartin là chữ Phạn để chỉ một nhà lãnh đạo với công đức gặt hái từ những hành động tốt trong những tiền kiếp, cho phép Ngài chinh phục một cách dễ dàng tất cả những vị vua khác để cai trị thế giới. --Formosa, tháng 9 năm 1992 (nguyên văn tiếng Trung Hoa) Bản tin 159 Chúng ta không nên hấp tấp trở thành một vị thầy tâm linh, hoàng đế, tổng thống hay đại quan. Nếu định mệnh an bài, thì cuối cùng nó sẽ thuộc về chúng ta. Chúng ta không thể từ chối cho dù không muốn; nó là thiên mệnh của chúng ta. Nếu không phải là thiên mệnh nhưng chúng ta cố tình dùng sức cưỡng ép, kết quả sẽ không tốt và những cản trở nghiệp chướng sẽ gia tăng.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |