Truyện kế tiếp nói về một sứ giả, một sứ giả bất đắc dĩ. Vô tình thành sứ giả thôi. Liên quan tới giáo sĩ Nasruddin. Quý vị biết anh đó, phải không? Lúc nào cũng có truyện cười về anh ta. Đây cũng là một truyện cười về người này. Lần này anh chàng nghiêm trang hơn nhưng vẫn buồn cười. Đó những hiểu lầm và ngẫu nhiên. Một hôm giáo sĩ Nasruddin vô tình có mặt trong một hội trường khán giả của hoàng đế Ba Tư, Sahinsa nghĩa là vua của nước Ba Tư, được gọi là Sahinsa, bao quanh ông là những nhà quý tộc tư lợi, những thủ lĩnh thành phố, các triều thần và nịnh thần đủ loại. Bao quanh ông là đủ thứ loài người nầy. Người này tranh dành người kia đòi được chỉ định làm trưởng đại sứ quán chuẩn bị đi Ấn Độ. Thật ra là nhà ngoại giao. Không phải là họ đi thiết lập tòa đại sứ tại Ấn Độ, có lẽ họ chỉ muốn phái ban ngoại giao đi thôi. Ai cũng la hét, ầm ĩ, tranh đua với nhau và tuyên bố là mình giỏi, mình hay này nọ, cho nên nhà Vua ngán tới tận đây, quá ngấy không muốn nghe mấy lời tự đề cao từ các triều thần và phụ tá của ông. Ông mới ngẩng đầu lên trên tất cả mọi người, không biết chọn ai. Ông cứ nhìn lên trời xin Chúa giúp. Rồi không biết sao, mặt ông hạ xuống trúng Nasruddin. Đây là một giáo sĩ, một giáo sư Hồi giáo, vị thầy, và anh chàng nầy lúc nào cũng lọt vào hoàn cảnh khó có thể xảy ra. Rồi bỗng nhiên anh ta ở đó. Có lẽ anh cao hơn những người còn lại cho nên vua đang nhìn lên trời cúi đầu xuống trần lần nữa thì thấy đầu anh này đang nỗi lên giữa đám đông. Nhà vua mới nói: "Kia! Ông đó sẽ làm đại sứ của ta đi Ấn Độ. Bây giờ, làm ơn, tất cả các anh hãy cho tôi được yên thân." Tốt. Nasruddin được ban cho quần áo giàu sang, một rương lớn đựng đầy hồng ngọc, lục ngọc, và những tác phẩm nghệ thuật vô giá cho anh mang những món này làm quà của Vua Ba Tư cho Quốc Chủ kia. Bây giờ mấy người triều thần kia mất việc, ai cũng vô cùng bực tức, giận dữ, dĩ nhiên. Bây giờ họ quyết định đoàn kết lại với nhau, hợp nhau chống lại vị giáo sĩ vớ bở này. Họ muốn lừa anh ta vào cảnh khó khăn vì họ đang định tiêu diệt anh. Không ăn được thì phá cho người khác không được ăn. Đôi khi cái đó cũng là tâm lý của một số người. Bây giờ họ cầu kết với nhau làm nhiều điều dại dột như là xong vào phòng anh ta, ăn cắp hết vàng ngọc và tất cả các tác phẩm nghệ thuật đẹp và tất cả đồ quý giá trong sự tin cậy của giáo sĩ này; lấy ra chia chát cho nhau. Họ còn bỏ đất thay vào đó cho nó nặng cho anh ta không biết. Bây giờ, họ còn quyết định hai công việc đại sự của anh, và làm mang tiếng khả năng và danh dự anh ta nữa. Bây giờ việc họ làm là, họ đến gặp Nasruddin, rất khiêm nhường, rất tử tế, rất lịch sử, nói chuyện ngọt ngào, nói như là: "Này Nasruddin vĩ đại, chúng tôi chúc mừng cho anh. Những gì nguồn trí huệ, con công thế giới ra lệnh chắc phải là tinh túy của đại trí huệ. Do đó chúng tôi hoan hô anh. Nhưng chỉ có hai điểm chúng tôi có thể khuyên anh nên quen làm giống như chúng tôi về vấn đề cử chỉ của phái viên ngoại giao." Họ sắp sửa nói những lời lừa đảo, hại anh ta. Quý vị có biết nguồn trí huệ con công của thế giới nghĩa là gì không? Ngoài nghĩa trong từ điển? Họ gọi Vua. Họ cũng gọi vua là: "Trăng tròn" hay là "Hiện Diện" Nghĩa là Thượng Đế. Đại diện Thượng Đế. Cho nên Nasruddin nghĩ mấy người nầy tử tế quá, được đồng nghiệp như vậy thật là vui. Nên anh nói: " Dĩ nhiên được chứ, xin các anh cho tôi biết, tôi rất cảm ơn. Nghề này mới đối với tôi." Dĩ nhiên, anh ta chưa bao giờ làm việc này. Như Thượng Đế an bài như vậy. Có người tự nhiên được việc từ đâu không biết. Người trưởng bọn này nói: “Tốt lắm! Việc đầu tiên là anh phải khiêm nhường.” Họ nói với Nasruddin như vậy. Để chứng minh anh nhũn nhặn như thế nào, anh không nên bày tỏ dấu hiệu mình là người quan trọng. Khi tới Ấn Độ, anh phải đi vào càng nhiều nhà thờ Hồi giáo càng tốt và thâu tiền cho chính anh.” Việc này hoàn toàn trái ngược với điều mà vua Ba Tư muốn anh ta làm. Nhưng vua Ba Tư không bao giờ nói chuyện này vì ông ta không khi nào kỳ vọng anh đi thâu tiền trong nhà thờ Hồi giáo với tư cách của một nhà đại sứ. Hơn nữa, vua Ba Tư muốn vị đại sứ đại diện ông một cách đường hoàng, nghiêm trang, có quyền lực, cho vua Ấn Độ trông thấy, vì hồi đó vua Ấn Độ đang muốn chiếm đống Ba Tư, cho nên đại sứ Ba Tư phải biểu lộ một số quyền năng, phẩm cách, lòng tin tưởng. Mà đây họ lại khuyên anh ta phải nhún nhường, làm một người tầm thường và đi thâu tiền từ nhà thờ Hồi giáo. Thậm chí tăng lữ Hồi giáo cũng không làm việc đó. Nasruddin không biết gì hết, nói: “Ồ, dạ vâng! Tôi sẽ làm tất cả những việc đó. Cảm ơn các anh nhiều lắm.” Sau đó họ còn nói nữa: “Việc thứ hai là anh phải quan sát nghi thức triều đình trong nước mà anh được công nhận. Vậy có nghĩa là anh sẽ kêu quốc chủ đó là Trăng Tròn.” Nhưng hồi đó Trăng Tròn là danh xưng chỉ dành cho vua Ba Tư với tư cách người được kính trọng nhất. Nên Nasruddin hơi ngạc nhiên nói: “Nhưng đó là danh xưng cho Đại Đế Ba Tư của chúng ta thôi, không phải sao?” Mấy người xấu đó nói anh ta rằng: “Nhưng không phải ở Ấn Độ.” Thì cũng được. Thế là Nasruddin vâng theo những lời khuyên nầy. Hoàng Đế Ba Tư dặn anh trước khi đi: “Hãy cẩn thận Nasruddin. Hãy theo đúng nghi thức vì Quốc Chủ là hoàng đế quyền lực chúng ta phải làm vị đó phục mà không mất thể diện ông ta.” Nasruddin nói với vua: “Tôi chuẩn bị đàng hoàng rồi, tâu bệ hạ. Ngài hãy bình tâm, tôi sẽ đại diện đất nước chúng ta rất đàng hoàng.” Khi anh vừa bước chân vào lãnh thổ Ấn Độ, Nasruddin đến một nhà thờ Hồi giáo lên bục liền lập tức. Tất cả mọi người, xin đưa hết tiền cúng dường cho tôi. Quý vị phải thấy trong tôi là vị đại diện của Allah (Thượng Đế) ở địa cầu là trục của quả đất. Hãy mang tất cả tiền bạc ra đây vì tôi sắp sửa thâu tiền ngay bây giờ.” Cứ như vậy anh ta lập đi, lập lại trong mỗi nhà thờ trong nước thậm chí trước khi đặt chân đến thủ đô Delhi. Anh thâu rất nhiều tiền và những cố vấn trước đó đã dặn anh: “Muốn làm gì với món tiền đó thì làm vì đó là kết quả của trực giác, sự trưởng thành và ban tặng và xài nhiều sẽ tạo ra nhu cầu cho chính nó.” Họ chỉ muốn điều duy nhất xảy ra, đó là vị giáo sĩ này bị vứt bỏ, bị chế nhạo, vì họ muốn anh ta bị sa thải một cách trơ trẻn vì anh ta thâu tiền. Nhưng anh nầy quá thật thà, dốt nát, người ta bảo gì làm y như vậy. Nasruddin cứ ầm ỉ đi vào mỗi nhà thờ, anh nói: “Đấng thiêng liêng phải sống từ sự thiêng liêng. Tôi không báo cáo cũng không đòi hỏi gì cả. Đối với quý vị, tiền kiếm được là một cái gì để dự trữ. Quý vị có thể đổi nó lấy đồ vật chất. Đối với tôi, nó là một phần của cơ cấu. Tôi là đại diện cho lực thiên nhiên của truởng thành trực giác, sự ban tặng và chi tiêu.” Một số người cho tiền, nhưng có điều buồn cười dù đây là mưu đồ xấu xa kế hoạch quỷ quyệt để hại Nasruddin, nhưng nó lại thành tốt. Anh ta thâu được rất nhiều tiền mà không ai nói gì hết. Họ tin tưởng anh ta và những người nào tin và cho nhiều, họ trở nên giàu có hơn, phước báu hơn, phong phú hơn, hạnh phúc hơn. Những người nghi ngờ anh ta, không cho, trở nên nghèo hơn, đau ốm hoặc là bị tai nạn bị vấn đề trong đời sống. Nhân tiện thì họ kể lại thôi. Bây giờ, ngồi trên ngai con công, vua ở thủ đô Delhi đọc báo cáo triều thần mang về mỗi ngày thuật lại hành động của Nasruddin. Họ tả sinh hoạt hằng ngày của vị đại sứ Ba Tư. Mới đầu ông đọc không hiểu gì cả. sau đó ông gọi các quân sư của ông lại. Ông nói: “Hỡi các khanh, Nasruddin chắc phải là thánh nhân hay là người do thánh thần dẫn dắt. Có ai nghe người nào phạm nguyên tắc không được kiếm tiền nếu không có lý do hợp lý?” Tối thiểu cũng đừng hiểu lầm động cơ của người đó.” Thế là triều thần quân sư nói với vua rằng: “Chúc bóng mát của ngài không bao giờ thiếu. Ô, đại trí huệ dạt dào vô biên!” Họ gọi vua như vậy. “Chúng tôi đồng ý, tâu bệ hạ, nếu Ba Tư có những người như vậy, thì chúng ta nên coi chừng vì uy lực đạo đức của họ đối với quan niệm vật chất của chúng ta thì nó hiển nhiên.” Nghĩa là họ tốt hơn chúng ta nhiều. Sau đó một người chạy từ Ba Tư đến với một bì thư. Những người có thế lực kia đã bí mật theo dõi bản báo cáo triều đình. Giáo sĩ Nasruddin là người không quan trọng ở Ba Tư.” Chúng tôi không biết tại sao nhà vua lại chọn hắn làm đại sứ. Chúng tôi không hiểu lý do gì mà vua Ba Tư không chọn kỹ hơn.” Vị quốc chủ tụ họp hội đồng lại một lần nữa: “Hỡi những con chim thiên đàng không thể sánh,” ông gọi họ như vậy. Ông bảo họ: “Ta chợt nghĩ. Vua Ba Tư chọn đại một người đại diện cho cả quốc gia của ngài. Vậy là ngài vô cùng tin tưởng phẩm tính chung của dân ngài tới nỗi đối với ngài, ai cũng đủ điều kiện nhận công việc tinh tế của một vị đại sứ đến cung điện uy nghi ở Delhi.” Vua Ấn Độ nói tiếp: “Có thể cũng có nghĩa là mức độ hoàn mỹ mà họ đã đạt được, lực lượng trực giác tuyệt vời không thể sai lầm được trau dồi trong số dân Ba Tư, cho nên chúng ta phải nghĩ lại ý định xâm lăng quốc gia này vì giống dân đó có thể dễ dàng nhận chìm tay của chúng ta. Xã hội của họ được tổ chức trên một nền tảng khác với chúng ta.” Các triều thần quý tộc Ấn Độ khóc: “Ngài nói đúng, thưa vị chiến sĩ xuất sắc ngoài biên giới.” Cuối cùng, Nasruddin đến Delhi, cưỡi con lừa già. Theo sau là đoàn hộ tống, đeo những túi tiền nặng trĩu mà anh đã thâu trong nhà thờ Hồi giáo. Rương châu báu để trên lưng một con voi. To và nặng như vậy, nhưng quý vị biết, đầy đất trong đó. Nasruddin được tiếp đón trước cổng Delhi bởi một chủ tế. Vua ngồi với những quý tộc của ông trong một hội trường tiếp tân rộng lớn ngoài trời cho các đại sứ. Nhưng vì Nasruddin ngồi trên lưng lừa, Thấp lắm rồi, nên anh cứ đi qua với con lừa của anh. Chưa bao giờ có đại sứ nào đến mà cưỡi lừa như vậy. Tuy nhiên, mới đầu không có gì cản Nasruddin đi nước kiệu thẳng qua cánh cửa và lên chỗ vua. Vua Ấn Độ và triều thần thấy hành động đó, họ nhìn nhau. Nasruddin vui vẻ xuống lừa, gọi nhà vua là Trăng Tròn và kêu người mang châu báu lại. Khi rương được mở ra, bên trong đầy những đất. Giây phút kinh hoàng chợt đến. Bây giờ là lần đầu tiên Nasruddin trông thấy. Anh không biết. Tưởng trong đó đầy châu báu, anh nghĩ bụng: “Mình không nên nói gì hết, vì bây giờ không thể giải thích được mấy chuyện này. Thế nào cũng tiêu.” Thế là anh ta giữ yên lặng. Vua nói thầm với tể tướng của ông, tức là thủ tướng: “Vậy nghĩa là sao? Có phải đây là một sự nhục mạ nhân vật cao trọng nhất không?” Tể tướng cũng không thể tin nổi sự việc này. Ông ta nghĩ nhanh, cáu tiết một chặp sau đó ông mới giảng ý nghĩa của nó: “Đây là một hành động biểu tượng, tâu Bệ Hạ. Vị đại sứ này có ý công nhận ngài là chủ nhân của quả đất. Vì vậy anh ta mới đem đất đến cho ngài, vì anh cũng gọi ngài là Trăng Tròn, đúng không?” Nhà vua cảm thấy nhẹ nhàng: “À, hết xẩy.” Ông nói với Nasruddin: “Chúng tôi bằng lòng với đồ cúng dường của vua Ba Tư, vì dầu sao chúng tôi cũng không cần phú quý và chúng tôi cảm ơn thông điệp khôn khéo trừu tượng đó.” Nghe vậy Nasruddin nói với vua: “Tâu Bệ Hạ tôi được dặn phải nói,” Đó là chúng tôi chỉ biếu bệ hạ bấy nhiêu thôi.” Nhưng người giải điềm kia cũng nói thầm vào tai vua rằng: Vậy có nghĩa là Ba Tư sẽ không nhường thêm một chút đất nào của họ cho mình.” Nghe vậy vua mỉm cười nói với Nasruddin rằng: “Nói với chủ của anh là chúng tôi hiểu. Nhưng có một điểm: nếu ta là Trăng Tròn, thì vua Ba Tư là gì?” Nasruddin tự động nói: Vị đó là Trăng Khuyết.” Quân sư nói thầm với vua nữa: “Không sao đâu. Trăng tròn chín chắn hơn, lớn hơn, phát ánh sáng nhiều hơn, tốt hơn Trăng Khuyết. Trăng Khuyết non và nhỏ. Vậy là ngài cao hơn. Tốt lắm.” Thế là nhà vua hoan hỉ: “A, phải rồi, chúng tôi hài lòng. Anh có thể trở về Ba Tư nói với Trăng Khuyết rằng Trăng Tròn chào mừng ông ta.” Người Ba Tư kia do thám trong triều Delhi lập tức báo cáo tất cả lời trao đổi này với vua Ba Tư. Họ nói thêm là vua Ấn Độ rất phục và sợ Ba Tư, nên họ không định đánh Ba Tư nữa cũng nhờ những sinh hoạt của Nasruddin. Thành ra, dĩ nhiên khi Nasruddin trở về, vừa Ba Tư tiếp đón vị giáo sĩ ấy một cách nồng hậu: “Ta vô cùng hài lòng, anh bạn Nasruddin. Nhờ phương pháp làm việc không chính thống của anh, mà đất nước chúng ta được cứu nạn.” Vậy nghĩa là không có ý định nói gì về nữ trang quý báu hoặc chuyện thâu tiền trong nhà thờ Hồi giáo. Nghĩa là ông ta tha lỗi mấy chuyện đó. Từ nay về sau anh được tước đặc biệt là ‘safir’ Nghĩa là sứ thần, đại sứ hòa bình thật sự. Nhưng tể tướng thì thầm trong tai của Trăng Khuyết, ông nói: “Nhưng thưa bệ hạ, tên này mang tội phản quốc trầm trọng, nếu không phải là hơn thế nữa. Chúng ta có bằng chứng rõ ràng là hắn đã lấy danh xưng của ngài đem cho vua nước Ấn Độ và đổi lòng trung thành của hắn, và làm tai tiếng những đặc tính cao cả của ngài.” Ông nói: “Phải, những bậc hiền triết khôn ngoan nói rằng cái gì hoàn mỹ cũng có cái gì đó không hoàn mỹ. Nhưng tại sao, Nasruddin, tại sao ngươi gọi ta là Trăng Khuyết? Lẽ ra ta phải là Trăng Tròn.” Nasruddin đáp: “Tôi không biết gì về nghi thức ngoại giao nhưng tôi biết là trăng tròn sắp sửa tàn còn trắng khuyết càng ngày càng lớn tương lai còn nhiều sáng lạn, sống lâu, sống lâu hơn.” Nhà vua, ô, thích quá. Bắt Anwar, tể tướng của ông, gầm lên nói: “Giáo sĩ, ta ban cho ngươi chức tể tướng cao trọng.” Đem tể tướng cũ đi ban chức này cho giáo sĩ đó. Nhưng giáo sĩ nói: “Cái gì? Sao tôi có thể nhận chức này khi thấy ngài làm như vậy với người đi trước tôi, vị tể tướng cao trọng cũ đó?” Câu chuyện như vậy đó. Không ai nói gì về rương châu báu đem đi dùng như thế nào sau khi bị ăn cắp từ vị giáo sĩ ấy. Nghĩa là anh nầy thậm chí không muốn nhận chức tể tướng.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |