Vị thiền tông đầu tiên là sư tổ Maha Ca Diếp (Mahakasyapa). Không có Maha Ca Diếp tổ chức và biên soạn các kinh điển, ngày nay chúng ta không có Phật giáo. Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn, sư tổ Maha Ca Diếp liền tập hợp những vị đại thánh nhân, đại đệ tử tu hành của Phật Thích Ca Mâu Ni lại, để viết thành kinh sách, cho đệ tử của họ và những người đời sau. Sư tổ Maha Ca Diếp và A-Nan đã đem đến cho chúng ta những lợi ích rộng lớn. Về việc này, chúng ta phải cảm ơn họ. Cho nên tôi nghĩ, kể chuyện về thiền tông thật là thích hợp. Sư tổ Maha Ca Diếp tu hành cùng trong một thời gian với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thiền tông của ông đến từ Ba La Mật. Ở Ấn Độ có bốn tầng lớp: Ba La Mật, hoàng gia hay thánh nhân, thượng lưu, nô lệ hay đầy tớ, là những người không có việc làm, không có học vấn và địa vị. Tại Ấn Độ, Ba La Mật thời đó là tầng lớp được tôn trọng nhất. Ông Maha Ca Diếp sinh tại nước Ma Kiệt Đà, cha tên là Èm Trạch, mẹ tên là Hương Chi. Khi ông còn nhỏ, tướng mạo uy nghi tuấn tú, cả thân mình là màu vàng kim tỏa ra từ chấn động lực của ông, người thường không nhìn thấy được. Trước khi xuất gia, hào quang màu vàng kim của ông đã chiếu rọi nhiều nơi rất xa. Có một người rất giỏi xem tướng số được cha mẹ ông mời đến coi tướng, người này coi rồi nói: "Đứa trẻ này đời trước có phước đức thù thắng, lẽ ưng xuất gia." Cha mẹ của ông nghe xong rất lo sợ, sợ ông xuất gia thì sẽ mất con. Quý vị cũng biết, người ta thường nói "Con người ta xuất gia thì tốt lắm, nhưng không phải con mình!" Cha mẹ của ông Maha Ca Diếp nói: "Không được! Khi nó khôn lớn, chúng ta phải chọn một cô gái đẹp và cho nó lấy cô ta liền. Một khi nó đã bị nữ sắc cột, thì sẽ không thể nghĩ tới chuyện trở thành một vĩ nhân hay một hòa thượng, hay giải thoát." Cha mẹ của ông đã sắp đặt mọi việc xong xuôi. Cho nên khi Maha Ca Diếp vừa được mười lăm hoặc mười sáu tuổi, cha mẹ lập tức bắt ông kết hôn. Mỗi lần như vậy, Maha Ca Diếp đều từ chối. Cha mẹ la mắng và dọa nạt ông, dùng đủ thứ mưu kế và cả nước mắt để uy hiếp ông: "Con không cưới vợ, cha mẹ sẽ tự sát v.v...." Maha Ca Diếp đã cự tuyệt nhiều lần, nhưng cuối cùng với những nỗ lực không ngừng của họ, Maha Ca Diếp đành phải nói rằng: "Được rồi, con tôn trọng ý kiến của cha mẹ, nhưng cha mẹ phải tìm một người con gái có thân đồng màu sắc như con. Cô ta cũng có hào quang, cũng có thân kim quang, và trông cũng giống con. Thì khi đó con sẽ kết hôn, nếu không con sẽ sống độc thân!" Quý vị có để ý thấy có những cặp vợ chồng trông giống nhau không? Chữ Maha Ca Diếp dịch đúng ra là hào quang lớn, ý nói là vì hào quang màu vàng kim trên mình ông rất lớn, rất mạnh, che đậy qua những ánh sáng khác, khiến cho ánh sáng khác không sao nhìn thấy được, giống như biến mất vậy, cho nên Maha Ca Diếp có ý nói là ánh sáng này. Cha mẹ ông nghe Maha Ca Diếp nói muốn tìm một người con gái tướng mạo giống như ông, vì thân thể của ông nhìn thấy như hoàng kim vậy, không phải chỉ có hào quang mà thôi, cho nên cha mẹ ông dùng vàng, để đúc thành tượng Maha Ca Diếp, đem đi khắp nước để tìm kiếm, xem thử có người con gái nào có màu giống như vàng kim đó. Cuối cùng cũng đã tìm được một người, lúc bấy giờ Maha Ca Diếp phải giữ lời hứa và kết hôn với cô ta. Câu chuyện giải thích tại sao ông lại kết hôn với một người con gái. Bây giờ chúng ta nói chuyện về người con gái này, tại sao người con gái này lại đẹp như vậy? Rất lâu về trước, trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn có bảy vị Phật, có một vị tên là Tỳ Bà Thi. Sau khi vị Phật này nhập niết bàn, tín đồ của Ngài xây chùa, để xá lợi của ông (tro tàn) ở trong đó để thờ và còn khắc tượng Phật Tỳ Bà Thi. Một thời gian sau, tượng Phật trở nên rách nát và lớp vàng trên mặt tượng đã bị nứt nẻ. Lúc đó, có một người con gái rất nghèo, đến chùa lễ bái và nhận thấy tượng Phật cần được sửa sang. Cô bèn lấy thỏi vàng duy nhất mà cô có, đưa cho Maha Ca Diếp, lúc ấy làm thợ vàng và xin ông nấu chảy ra để đắp lên tượng Phật. Maha Ca Diếp nhìn thấy cô nghèo như vậy mà thành tâm, nên ông rất cảm động, đương nhiên rất vui lòng giúp cô. Hai người vì vậy trở thành tri kỷ. Sau đó hai người vì cùng nhau tu sửa tượng Phật mà kết thành vợ chồng, vì phần cảm tình đồng tâm, vì đôi bên hiểu nhau, tôn trọng nhau mới kết hôn, chứ không phải vì ham muốn tình dục. Họ còn cùng nhau phát nguyện đời đời kiếp kiếp làm vợ chồng. Cho nên, vào đời cuối, Maha Ca Diếp vẫn phải kết hôn cùng người con gái đó, mặc dù ông muốn xuất gia. Cho tới thời đại của Phật Thích Ca Mâu Ni, họ đã tái sinh lại chín mươi mốt lần, mỗi lần tái sinh thân thể hai người đều như hoàng kim, và cùng chia sẻ hạnh phúc cuộc đời vì lời ước nguyện của họ, công đức tu sửa tượng Phật và cúng dường vàng cho Phật. Mỗi một lần họ chết đi, rời khỏi thế giới, họ đều lên thế giới Phạm Thiên, ở nơi Phạm Thiên hưởng thụ xong, họ lại xuống thành người. Bây giờ là kiếp cuối cùng, sinh trưởng trong một gia đình giàu có vô cùng, chỉ vì công đức của họ, và cha mẹ họ, mối quan hệ nghiệp chướng của họ, và sự thành tâm thề nguyền trong hôn nhân của họ. Cho nên, đôi khi chúng ta nhìn thấy người ta kết hôn, cũng không nên nói là không tốt, và chỉ dựa trên ham muốn tình dục. Rất có thể trước kia họ phát nguyện bừa bãi, giờ đây mới dính với nhau, không thể nói kết hôn đều không tốt. Maha Ca Diếp kết hôn với người con gái đó xong, hai người như bạn tri kỷ vậy, nhưng không ngủ cùng nhau, đối đãi với nhau như đồng tu, và không có quan hệ sinh lý. Sau khi kết hôn rất lâu, họ cầu xin cha mẹ của họ cho phép họ xuất gia, xin rất lâu, rất lâu, cha mẹ của họ mới chấp thuận. Rồi hai người cùng xuất gia và đi tới những chỗ khác nhau để theo đuổi con đường tu hành. Maha Ca Diếp ở trên núi tu khổ hạnh, một thời gian sau, nghe trên không trung có một tiếng nói: "Hiện nay Phật đã hạ phàm để dạy người. Con nên tìm Phật để thọ giáo." Ông đến rừng trúc của Phật, thành tâm bái Phật làm thầy, yêu cầu nhận ông làm đệ tử. Phật Thích Ca Mâu Ni lúc bấy giờ nói: "Lành thay tỳ kheo đến đây, hãy cạo bỏ râu tóc đi." Sau khi thọ giới tỳ kheo, Maha Ca Diếp thường theo Phật học đạo. Ông học rất nhanh và cũng dễ hiểu được những thậm thâm vi diệu pháp. Phật Thích Ca Mâu Ni rất cưng ông. Maha Ca Diếp tu hành siêng năng và sớm đạt quả vị A La Hán. Có một lần, Maha Ca Diếp từ nơi xa trở về, bái thăm Phật Thích Ca Mâu Ni. Ông tuy xuất thân từ một gia đình giàu có, nhưng ông đã tu khổ hạnh và không để ý bên ngoài. Hôm đó khi ông đến, quần áo rách rưới, thân thể gầy gò, nhìn không đẹp mắt, không trang nghiêm, có thể vì tu hành khổ hạnh, ăn uống và nghỉ ngơi không đủ, chứ không phải vì ông cố ý. Lúc đó Phật Thích Ca Mâu Ni có rất nhiều đệ tử khác, như tỳ kheo và tỳ kheo ni, vây xung quanh Ngài nghe giảng kinh. Số đệ tử, tỳ kheo, tỳ kheo ni nhìn thấy Maha Ca Diếp như vậy, không tôn kính ông. Những người này gần gũi Phật Thích Ca Mâu Ni, tất nhiên có ăn uống đầy đủ, y phục chỉnh tề, rất đẹp đẽ. Còn Maha Ca Diếp một mình trên núi tu khổ hạnh, không có tiền, cho nên các tỳ kheo, tỳ kheo ni và chúng đệ tử coi thường ông. Lúc đó Phật Thích Ca Mâu Ni nhìn thấy cử chỉ của họ, nên Ngài nói: "Ca Diếp đến đây. Ta nhường nửa tòa cho ngồi." Maha Ca Diếp không dám ngồi, ông vẫn ngồi ở dưới đất. Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni nói với chúng tỳ kheo và tỳ kheo ni: "Ta đại từ đại bi, đủ các thiền định tam muội và vô lượng công đức để tự trang nghiêm." Ý nói là không nên dùng y phục mà phải dùng phước báu để trang điểm. Cho nên có người bên ngoài có thể trông chẳng có gì, nhưng khi chúng ta nhìn thấy họ, chúng ta rất kính trọng họ. Ở đây Phật Thích Ca Mâu Ni nói, Ngài có rất nhiều công đức vô lượng vô biên để khiến mình cao quý, còn nói rằng tỳ kheo Maha Ca Diếp cũng vậy. Ý nói là tán thán công đức, trí huệ và đẳng cấp của Maha Ca Diếp cũng tương tự như Phật, nên mới có thể dành nửa chỗ ngồi cho ông, ý chỉ là Ta và Maha Ca Diếp bằng nhau! Lúc bấy giờ tỳ kheo, tỳ kheo ni nghe xong đều giật mình, liễu ngộ được và liền trở nên tôn kính Maha Ca Diếp. Có một ngày, ở pháp hội Linh Sơn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tay cầm một đóa hoa sen, đại chúng lúc bấy giờ không ai hiểu đây là ý nghĩa gì, chỉ có Maha Ca Diếp mỉm cười. Người Trung Quốc có câu "Niêm hoa vi tiếu". Đức Phật lúc bấy giờ nói: "Ta có nhãn tạng chính pháp, diệu tâm niết bàn, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, nay Ta giao cho ngươi - Maha Ca Diếp. Ngươi khéo giữ gìn chính pháp này, truyền trao mãi đừng cho đứt, đến sau sẽ truyền cho A-Nan." Lúc đó Đức Thế Tôn gọi Maha Ca Diếp tới chỗ Ngài, Ngài nhường một nửa chỗ ngồi của Phật cho Maha Ca Diếp, còn đem áo cà sa, chúng ta gọi là Tăng Già Lê, choàng lên người Maha Ca Diếp. Ý nói rằng truyền y bát, truyền chánh pháp cho ông trở thành đệ tử thừa kế của Ngài. Điều này biểu thị, giờ đây ông đã ngang hàng với Phật! Ngồi một nửa chỗ ngồi của Phật, mặc chiếc áo Phật cao đẳng nhất. Về sau truyền tới Lục Tổ Huệ Năng, vẫn là chiếc y pháp đó. Khi đó, Đức Phật Thích Ca nói một câu kệ: "Pháp gốc pháp không pháp, pháp không pháp cũng pháp, nay khi trao không pháp, mỗi pháp đâu từng pháp." Vì Maha Ca Diếp là người thừa kế Đức Phật Thích Ca, cho nên sau này đệ tử Phật giáo gọi danh Ngài là Sư Tổ đầu tiên. Chúng ta gọi Đức Phật Thích Ca là Giáo Chủ, là Đại Đạo Sư, không gọi Ngài là Sư Tổ. Sư Tổ là đệ tử thừa kế của Ngài, từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền xuống, gọi là sư tổ đời thứ nhất. Khi Phật nhập niết bàn, Maha Ca Diếp nghe được tin, liền cùng năm trăm vị đệ tử tới gấp Câu Thi Na để gặp Phật, nhưng đã trễ quá. Lúc bấy giờ ông rất buồn bã, bèn đi ba vòng quanh quan tài bằng vàng của Phật. Đức Phật cảm động, tuy đã ra đi, nhưng Ngài đã duỗi chân ra cho ông thấy. Lúc đó Maha Ca Diếp rất cảm động, liền lạy chân Phật. Nguyên nhân lạy chân Phật là do từ đấy. Lúc đó Ngài vuốt ve hai bàn chân Đức Phật, lạy chân Đức Phật, trong lòng cảm thấy một phần nào an ủi. Bởi vì ông trở về quá muộn, không sao gặp Đức Phật được, cho nên Đức Phật thương ông, mới làm như vậy để Maha Ca Diếp nhìn thấy Ngài lần cuối cùng. Sau khi kim thân của Đức Phật hỏa táng xong, Maha Ca Diếp nói cùng với chúng tỳ kheo rằng: "Xá lợi của Đức Phật giao cho trời, người xây tháp thờ làm ruộng phước, còn trách nhiệm tỳ kheo chúng ta phải lo kết tập kinh điển để lưu lại đời sau. Đệ tử Như Lai, chớ vội niết bàn, người được thần thông, nên đến kiết tập." Cho nên sau bảy ngày Đức Phật Thích Ca nhập niết bàn, ông tụ tập được năm trăm vị A La Hán tại một hang động lớn trên núi Kỳ Xà Quật để sưu tập viết kinh điển. Nhưng có một người không thể tham gia, quý vị có biết là ai không? Là A-Nan. A-Nan lúc bấy giờ vẫn chưa phải là A La Hán hoàn mỹ. Ông còn chưa sạch các lậu. "Lậu " đây tức là nơi ô ô ám ám, vẫn chưa được rửa sạch sẽ, vẫn chưa chứng quả, vẫn chưa được 100% đơn thuần trong sạch. Cho nên Ngài Maha Ca Diếp không cho phép ông vào, và còn mắng A-Nan: "Tâm nhà ngươi vẫn chưa sạch, đừng có tới đây làm ô uế pháp hội thánh nhân của chúng tôi!" ồ! Nếu là người thường nghe những lời này, quý vị biết sẽ phản ứng ra sao: "Ông là thứ gì, tại sao ông lại dám nói như vậy?". "Tôi sẽ làm cho ông coi!" v.v... Người thường sẽ làm trở ngại, lập tức sẽ xảy ra chuyện lớn, rất có thể đánh lộn, tranh luận, chống cự lại, đập ly đập chén, hoặc làm tổn thương chân mình. Ông rất có thể chống cự hay khóc lóc, rồi đòi về nhà. Nhưng bất luận như thế nào, A-Nan cũng là thánh nhân. Ngài chỉ có cảm thấy buồn bã, Ngài biết mình chưa trong sạch, chưa đủ tinh tấn tu hành. Bởi vì mỗi ngày nói chuyện quá nhiều, giới luật cũng không giữ được rõ ràng, chỉ ỷ lại vào Đức Phật thương yêu. Ngài là thân cận với Đức Phật, Đức Phật nói gì Ngài cũng ghi nhớ hết, cho nên Ngài nghĩ như vậy là đủ rồi. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế, cũng đã cảnh cáo Ngài nhiều lần, nói Ngài nên cố gắng tu hành thêm, nhưng hình như Ngài làm lơ, làm biếng, không chịu cố gắng thêm. Giờ đây Ngài mới thật sự hiểu được, vì Đức Phật đã ra đi, không còn ai nuông chìu Ngài nữa, không có việc để làm, không có người để nương tựa. Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài là thị giả của Đức Phật, mỗi ngày phụng sự Đức Phật, còn có thể mượn cớ nói rằng: "Tôi rất bận. Tôi không rảnh để tọa thiền! Tôi vừa mới tọa thiền, Đức Phật đã gọi tôi rồi. Tôi phải hy sinh vì Đức Phật, vì đại chúng." Ngài A-Nan quay trở về, cả đêm không ngủ, thành tâm tọa thiền, sau đó nhập định. Chỉ trong một đêm, Ngài đã thật sự trở thành "Vô Lậu" A La Hán. Ngài lập tức chạy đến sơn động thăm viếng Ngài Maha Ca Diếp. Ngài Maha Ca Diếp nhìn thấy A-Nan liền hiểu ngay. Ngài không xua đuổi A-Nan, còn ca tụng với chúng tỳ kheo rằng: "Tỳ kheo A-Nan nhớ giỏi bậc nhất, thường theo hầu hạ Như Lai, nghe pháp Phật nói ghi nhớ không sót, như nước rót vào bình không rơi ngoài một giọt, nên mời kiết tập tạng Kinh và tạng Luận. Mời tỳ kheo Ưu Ba Ly kiết tập tạng Luật." Lúc đó mọi người đều hoan hỷ đồng ý. Việc biên soạn các kinh điển đã đánh dấu một sự kết thúc sứ mạng độ chúng sanh của Maha Ca Diếp. Ngài gọi A-Nan đến và nói: "Khi Như Lai sắp vào niết bàn, có dặn ta đem chánh pháp nhãn tạng giao phó cho ông, ông phải khéo gìn giữ chớ để đoạn đứt." Câu chuyện Maha Ca Diếp đã kể xong rồi! Không có Maha Ca Diếp, không có A-Nan, thì chúng ta không sao biết Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ai. Chúng ta rất cảm ơn họ. Cho nên bằng cách tham khảo những câu chuyện của họ, chúng ta có thể sẽ phát tâm theo đuổi việc tu hành. Trong câu chuyện này, chúng ta thấy được Maha Ca Diếp không phải là người bình thường, Ngài sinh ra đã có kim thân, hào quang rất lớn, vả lại, có chiều hướng cao quý để trở thành người xuất gia. Quý vị nghe thấy, có người nói là nhìn thấy tôi có kim thân. Khi chưa tu pháp môn Quán Âm, chưa xuất gia, thầy của tôi đã nhìn thấy kim thân của tôi. Nếu như quý vị đọc cuốn Tức Khắc Khai Ngộ 3 bản Trung Hoa "Ý nghĩa chân chính của kinh A Di Đà", trong đó nói: Có người nhìn thấy thân thể của tôi như lưu ly, phát ra hào quang rất lớn. Có người nói thân thể của tôi phát ra hào quang màu trắng. Có người lại nói thân thể của tôi phát ra hào quang màu khác. Đẳng cấp khác nhau, nên nhìn thấy hào quang khác nhau. Thế nhưng, nếu tôi cùng đi chợ với quý vị để mua rau, quý vị hỏi người bán trong chợ: "Quý vị có biết Sư Phụ của tôi có phát ra hào quang không?" Họ sẽ nói: "Anh khùng sao? Anh đang nói gì vậy? Tôi chỉ bán rau thôi. Tại sao anh hỏi tôi điều đó? Tôi đâu có biết hào quang là gì đâu!" Nơi đây viết Ngài Maha Ca Diếp có hào quang, bởi vì người viết câu chuyện truyền kỳ, chắc hẳn là đại đệ tử của Ngài, rất có thể nhìn thấy kim thân của Ngài. Tại sao tôi nói vậy? Vì trong sách có nói, hào quang vàng kim của Ngài chiếu rọi rất xa và rất rộng. Người không tu hành, không mở được mắt đại trí huệ sẽ không nhìn thấy. Tác giả là đại đệ tử của ngài Maha Ca Diếp, nên ông có thể nhìn thấy dáng vẻ của thầy mình và câu chuyện ông viết ra mới chân thực hơn. Đệ tử bình thường, chỉ có thể viết đã học hỏi được về thầy ra sao, sinh quán chỗ nào, được bao nhiêu tuổi, giảng dạy pháp môn gì, có từ bi hay không, có làm việc chăm chỉ hay không, có bao nhiêu đệ tử, ngủ mấy tiếng, ăn bao nhiêu bữa một ngày v.v... và v.v... Tôi chắc chắn rằng câu chuyện này do một bậc đại tu hành viết để cho chúng ta đọc. Ngoài ra, cha mẹ của Maha Ca Diếp chống báng rất mãnh liệt khi được biết ngài muốn xuất gia. Chúng ta đều biết rằng, bất cứ quốc gia nào, bất cứ tôn giáo nào, cũng rất kính trọng người xuất gia. Người ta thích đến giáo đường, hay chùa chiền để cúng bái những vị thầy, hay vị cao tăng nào đó, và còn kính cẩn cúng dường họ. Họ thích những người xuất gia, nhưng họ lại phiền hà nếu con cái của họ muốn từ bỏ nếp sống trần tục. Điều này không hiểu nổi. Thời đại nào, cha mẹ cũng như vậy cả. Họ thích người xuất gia, nghĩ rằng "Con người khác xuất gia thì được, nhưng con tôi thì không được. Nó phải kết hôn và có con để nối dõi tông đường; nó phải có bằng bác sĩ hay thành luật sư để kiếm nhiều tiền; nó phải lấy một cô gái đẹp và đoan trang nhất, rồi làm cha." Đọc những chuyện cổ xưa, chúng ta đều biết rằng cuộc sống của người xuất gia là cao thượng nhất. Vì thế, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từ bỏ cả thế giới và cả một vương quốc. Con trai La Hầu La của ngài, mới có chín tuổi, đáng lẽ thừa kế ngai vàng, Ngài cũng đem nó theo để xuất gia. Còn vợ của Ngài, Ngài cũng cho phép xuất gia. Điều này có nghĩa là làm người xuất gia hay hơn làm vua. Nếu ngày mai gặp phải tai nạn, chúng ta sẽ phải để lại mọi thứ trên cõi đời này. Khi xuống địa ngục, Diêm Vương sẽ không hỏi anh có bằng cấp gì. Đến thế giới Tây Phương, Phật A Di Đà cũng sẽ không hỏi anh đã tốt nghiệp chưa? Quý vị có đạo đức thì quý vị lên trên, nếu không có đạo đức, thì dù có cả chục bằng cấp cũng không làm gì được. Cho nên, không phải là người xuất gia bỏ đi những điều tốt đẹp, mà thực ra là người đời bỏ lỡ những điều hay - họ bỏ đi niết bàn, bỏ đi một lực lượng vĩ đại và tự do, bỏ đi sự hằng hữu vì một vài điều nhỏ nhặt. Còn nữa, tôi nhận thấy trong rất nhiều kinh điển đều viết Phật nói rằng: "Bây giờ con là người xuất gia với công đức thiện lành!" thì tóc của người đó tự nhiên rụng xuống. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy Đức Phật Thích Ca nói: "Hãy cạo bỏ râu tóc đi!" Cho nên câu chuyện chính xác hơn, vì tôi biết rất rõ là Đức Phật Thích Ca không dùng thần thông. Tại sao phải dùng thần thông để tóc của người ta rụng xuống? Không cần mà! Chỉ là một chuyện nhỏ nhặt, đi mua một con dao là được. Ngài còn không dùng cả đại thần thông kia mà, vậy thì tại sao Ngài phải thi triển thần thông để cạo đầu người ta. Cái này là trò chơi của con nít. Tôi không tin Đức Phật làm như vậy. Ngài đương nhiên có thể làm, nhưng Ngài không làm. Đức Phật tại sao phải làm những việc này để dụ dỗ người? Nếu như Ngài làm như vậy, tôi nghĩ cả nước sẽ thành tín đồ của Ngài, vì nó rẻ quá. Cho nên tôi tin rằng cuốn sách này dịch chính xác nhất, còn những cuốn khác dịch hơi phóng đại (hoặc chỉ tiêu biểu thôi). Khi chúng ta kính trọng một người nào, thì chúng ta phóng đại về họ nói rằng họ đã làm thế này, trong khi thật ra họ lại làm thế khác. Thí dụ như có rất nhiều người nói hòa thượng Quảng Khâm chữa bệnh bằng thần thông, nhưng tôi không tin là ông cố ý làm. Bởi ông tu hành rất cao, cho nên người có duyên với ông, tự nhiên sẽ cảm thấy dễ chịu hơn khi tới gần ông. Thí dụ như quý vị có thể nghe là tôi đã chữa bệnh cho nhiều người bệnh, nhưng chỉ làm trong vô hình thôi. Tôi không đọc thần chú để chữa cho họ. Không. Tôi không cố ý làm gì cả, nhưng lực lượng tu hành của tôi đã biến thành y dược, và sự dễ chịu; khi người nào có duyên với tôi, tới gần tôi, họ cảm thấy dễ chịu và được khỏi bệnh. Tại Đài Nam có một cụ già, mỗi Chủ Nhật, đồng tu đều đến nhà bà cộng tu. Bà vốn không thể đi được và phải nằm trên giường. Nhưng khi tôi tới thăm bà, bà liền khỏi bệnh và có thể ngồi dậy, rồi bước đi. Bà rất vui mừng, nói chuyện huyên thuyên cả ngày. Bây giờ, bà đã có thể đi lại và làm một người giữ cửa. Tôi không cố ý làm gì hết, nhưng một người tu hành có lực lượng cứu giúp những người khác. Khi người ta đến gần người ấy, họ liền khỏi bệnh. Tôi không cố ý dùng thần thông chữa bệnh cho quý vị, để lôi cuốn quý vị vào thọ Tâm Ấn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng vậy. Cho nên trong cuốn sách dịch nói: "Bây giờ con là người xuất gia với công đức thiện lành. Được rồi, hãy đi cạo tóc và râu đi!" Tôi rất mừng, rốt cuộc tìm thấy một cuốn kinh sách khách quan hơn, minh triết hơn, không mê tín và phóng đại. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rất ghét người ta dùng thần thông để lôi cuốn người khác. Tôi cũng không cho phép quý vị dùng thần thông. Tôi chỉ là một người bình thường mà đã biết như vậy, thì tại sao Đức Phật Thích Ca lại thi triển thần thông trước mặt công chúng, làm cho tóc của người ta rụng xuống? Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền y bát, truyền chánh pháp cho Maha Ca Diếp, đã niệm câu ngữ: "Pháp gốc pháp không pháp, pháp không pháp cũng pháp, nay khi trao không pháp, mỗi pháp đâu từng pháp." Tôi cũng nói tương tự như vậy khi truyền pháp: Tôi truyền cho quý vị pháp môn này, nhưng tôi không có một pháp để dạy quý vị, cũng không phải tôi không dạy quý vị một pháp, nhưng quý vị sẽ không nhận được pháp nào cả. Để làm thành lời nói, thì tôi phải nói rằng khi tôi truyền pháp cho quý vị, tôi cho quý vị một pháp môn vô tướng. Mọi pháp vốn đều từ "vô tướng pháp" và không có gì cả. Câu "Thiên hạ vốn vô sự" và "Bồ Đề bổn vô thọ" cả hai đều cùng một ý nghĩa. Chỉ sau khi tôi tu pháp Quán Âm, và có thể truyền pháp cho người khác, tôi mới hiểu rằng pháp này là vô tướng. Khi tôi được thọ Tâm Ấn và tu pháp môn Quán Âm, tôi không hiểu liền. Chỉ đến khi tôi có thể truyền pháp cho người khác, tôi mới hiểu rằng pháp môn Quán Âm không phải là một pháp. Tuy nhiên, không có một vị thầy truyền pháp, quý vị không thể học được pháp môn vô tướng này. Nói như vậy có ai hiểu không? Chỉ có quý vị hiểu. Người không thọ Tâm Ấn sao hiểu nổi. Người truyền pháp hiểu rõ ràng nhất, bởi vì ngài không giảng dạy gì cả và không có pháp gì để giảng dạy. Vì thế Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Ngài truyền vô tướng pháp cho Maha Ca Diếp. Ngài nói đây không phải là một pháp mới, vì mọi pháp môn đều vô tướng và không pháp nào là một pháp cả. --Khai thị, #97, Formosa, 1987 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa)
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |