Xưa kia có một ông vua tên là Chang-Shou, tiếng Trung Hoa có nghĩa là Trường Thọ. Tuy nhiên, bây giờ ông không còn sống nữa. Cho nên quý vị thấy rằng thế giới này không có gì là vĩnh cửu cả. Ngày đó, vua Trường Thọ đi du hành trong kinh thành. Sắc mặt của ông có vẻ lo lắng vì đất nước sắp sửa có chiến tranh với một quốc gia láng giềng. Nhà vua rất thương dân và là người rất tài giỏi, thông minh và sáng suốt. Ông không muốn dân chúng phải bị sát hại một cách tàn nhẫn vì chiến tranh, và không muốn thấy loài người phải bị đổ máu và chết chóc, cho nên ông vô cùng do dự và cố gắng để tránh tình trạng này. Nhà vua đi qua, đi lại trong kinh thành, nghĩ đến những điều không may sắp xảy ra trong tương lai. Những viễn tưởng này làm cho ông vô cùng lo sợ, buồn bã đến như là muốn khóc vậy. Rồi ông nhớ lại lời của một vị đại thần trung thành nói rằng: "Khải tâu Hoàng Thượng, xin ngài đừng e ngại. Chúng ta có một quân đội hùng mạnh, được huấn luyện kỹ càng. Đất nước của chúng ta cũng rất giàu mạnh. Thần tin chắc chúng ta sẽ đương đầu nỗi với bọn chúng. Xin ngài đừng e ngại gì cả. Chúng hạ thần đã sẵn sàng và đang chờ lệnh của ngài". Nhà vua càng suy gẩm càng cảm thấy đau lòng hơn, và càng do dự hơn. Từ khi lên ngôi tới nay, chưa bao giờ vua dùng sức mạnh gươm đao để trị vì quốc gia của ông. Ông cai trị nước của ông bằng tình thương, cho nên đất nước của ông rất thanh bình và thịnh vượng. Dân chúng rất thương yêu và kính trọng nhà vua phần nhiều là vì tình thương và đức tính cao cả của ông, cũng như hệ thống trị nước của ông. Cũng vì lý do đó, quân đội trong nước không được mạnh mẽ, hùng hậu cho lắm. Ông không có lòng tin là mình sẽ thắng trận. Chưa bao giờ ông nghĩ tới việc xâm lăng hay gây chiến vơi nước khác. Ông không biết làm sao để đối phó với tình trạng trước mắt. Hiển nhiên nếu đem quân đội ra trận, cũng chưa chắc gì thắng nữa. Hơn nữa, nếu chiến tranh xảy ra, thì sẽ có người tử vong; người thân bị chết sẽ làm cho nhiều gia đình tan nát. Chiến tranh sẽ gây ra rất nhiều nguy hại cho quốc gia và dân chúng. Sau chiến tranh, chắc chắn sẽ có trẻ mồ côi và góa phụ. Ông nghĩ đến những đứa trẻ; chúng có tội tình gì mà phải chịu những đau khổ, tàn nhẫn của chiến tranh? Ông cứ nghĩ đến chuyện này và cảm thấy vô cùng đau xót. Ông quyết định ra đi. Ông muốn tìm một cái gì đó quý báu hơn tài sản, địa vị ở đời. Ông định giao trọn quốc gia cho quân địch. Có lẽ ông muốn ngồi thiền, được thọ pháp và ăn chay. Nghĩ rồi ông đi khắp cung điện để nhìn hoàng tử con trai ông và những cung thê, my nữ một lần cuối. Họ vẫn say sưa ngủ, không biết ngày mai quốc gia sẽ đổi chủ. Vua đến phòng hoàng tử để nhìn con lần cuối. Tên nó là "Chang-Shen", tiếng Trung Hoa có nghĩa là Trường Sanh. Người "Trường Sanh" không còn nữa và người "trường thọ" cũng hết thọ luôn. Nhà vua chăm chú nhìn con. Hoàng tử đang gục đầu trên bàn ngủ sau nhiều giờ đọc sách. Đứa con một này là nguồn an ủi duy nhất, là niềm vui của ông sau khi hoàng hậu qua đời. Bỗng nhiên hoàng tử tỉnh dậy. Trông thấy cha, chàng cất tiếng chào. Vua nói với con rằng: "Này con, nước bên cạnh đã xâm lăng nước chúng ta và họ đang tính cướp ngôi và chiếm nước của mình. Nhưng cha không muốn dân chúng bị đẩy vào vực sâu đau khổ, chỉ vì cha muốn giữ ngai vàng. Chiến tranh sẽ gây đau khổ cho người dân nước bên kia, sẽ gây thiệt hại, thương vong cho đất nước của chúng ta, không tốt cho dân chúng của hai nước. Cho nên cha đã quyết định nhường ngôi lại cho ông vua nước láng giềng. Chúng ta hãy lên núi tu hành". Nghe vậy, hoàng tử không cầm được nước mắt. Tôi nghĩ chàng ta hãy còn thèm kẹo sô cô la trong cung điện, thèm thức ăn gia trì, vân vân... Đi lên núi rồi tìm đâu ra được đồ ăn gia trì? Chắc chắn sẽ không có kẹo thạch sương để ăn nữa. Cũng có thể hoàng tử sẽ rất nhớ nhà, nơi mà chàng đã sinh ra và lớn lên. Từ trước tới giờ chưa bao giờ hoàng tử phải chịu khổ cực. Nhưng khi nghe cha nói như vậy, chàng biết ngày tháng huy hoàng sắp sửa sẽ không còn nữa; và kể từ nay, chàng sẽ phải chịu đựng nhiều cực khổ và làm việc nặng nhọc. . Ông vua và hoàng tử nắm tay nhau ra đi về phía rặng núi. Sau đó ông ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề, tu pháp môn Quán Âm. Có lẽ là như vậy. Trong thời gian sống ở đó, họ không còn nghe tiếng nói của một người nào khác. Dần dần rồi họ cũng quen với nếp sống như vậy và càng ngày càng cảm thấy dễ chịu hơn, không còn tiếc nuối cuộc sống huy hoàng trong quá khứ nữa. Mỗi ngày hoàng tử đi vô rừng kiếm trái cây và rau dại ăn được mang về cho cha. Một ngày kia, hoàng tử lại đi nữa, để lại vua cha một mình ngồi thiền. Bỗng nhiên, nhà vua nghe thấy tiếng người từ đâu la hớt hải: "Ông ta kìa, ổng kìa! Ông ta là nhà vua đó!" Rồi có một người đàn ông nhỏ, vừa gầy vừa xấu, từ bụi rậm chạy ra. Người đó nói với vua rằng: "Hoàng cung đã bị kẻ thù xâm chiếm. Nhiều bậc trung thần đã tự vận để tỏ sự trung thành. Những người còn lại đều từ quan về quê làm ruộng. Vua láng giềng ra lệnh tầm nã hoàng thượng và hoàng tử. Dân chúng đang chịu rất nhiều đau khổ, không biết bao giờ thảm cảnh này mới dứt. Tôi đã đi tìm ngài khắp nơi trong nước. Hôm nay tìm thấy được, tôi thật là mừng quá. Nghe vậy, nhà vua vô cùng đau khổ, bật khóc và hỏi: "Dân chúng chịu đau khổ cùng cực như vậy chỉ vì ta bỏ đi hay sao?" Người kia đáp: "Thưa phải, vì ngài chạy thoát, vua nước địch ra lệnh bắt bớ, tra khảo, hành hạ dân chúng rất nặng nề để điều tra xem ngài đi đâu, nhưng không ai biết cả. Nhà vua này nghi ngờ là dân chúng đang dấu ngài ở chỗ nào đó, cho nên hắn đánh đập người ta rất là tàn nhẫn. Ông còn hứa sẽ thưởng hậu hỹ cho người nào tiết lộ hành tung của ngài". Nói đến đó người kia nắm lấy tay vua Trường Thọ và nói: "Ngài đi với tôi ngay bây giờ. Tôi muốn được lãnh thưởng". Nhà vua đẩy người gầy ốm đó ra, hắn té xuống đất. Ngài sắp sửa trách hắn một trận, nhưng rồi lại nghĩ: "Sao nỡ lòng để dân chịu đau khổ vì ta? Thân thể này dù sao cũng chỉ là tạm bợ mà thôi!" Dù tên là Trường Thọ, ông nhận thấy cuộc sống là vô thường. Ông nghĩ: "Ta có thể giữ thân thể này ngày hôm nay, nhưng đến mai rồi nó cũng sẽ tàn. Nếu trở lại cho địch thủ bắt, ta có thể cứu được rất nhiều người dân vô tội". Ông vua vỗ vai người kia và nói: "Thôi được, nhà ngươi có thể đem ta về, như vậy ngươi sẽ được thỏa mãn và nhiều người khác cũng được an thân". Nhà vua không chống cự nữa. Sau đó ông dùng đá khắc lên trên cây vài lời giã từ con trước khi đi. Ông sợ hoàng tử sẽ vô cùng lo lắng khi trở về không thấy cha. Nhà vua viết: "Cha đã bị bắt đem về kinh. Con hãy ở lại đây tiếp tục tu hành". Sau khi dặn dò con phải tiếp tục tu hành thay vì vì chạy theo ông, nhà vua đi theo người kia. Người đàn ông nhỏ bé này tiếp tục hối nhà vua phải đi nhanh hơn. Ông này quả là một người u minh. Tình cảnh như vậy mà vẫn không cảm thấy xúc động gì cả. Đầu óc độc ác của hắn không hiểu thông suốt được như người tu hành. Sự ham muốn giàu sang đã làm cho mắt hắn mù đi, che đậy mắt của hắn lại và làm cho đầu óc hắn tối tăm. Sau đó không lâu, hoàng tử từ trong núi đi ra, hai tay bưng một rổ đầy rau và trái cây đã hái về cho vua cha, nhưng không tìm thấy đâu. Chàng gọi nhưng không nghe tiếng trả lời. Bỗng niên, hoàng tử nhìn thấy được những hàng chữ viết trên cây. Chàng òa lên khóc. Vua cha của chàng không còn ham muốn phú quý trần gian nữa. Ông đã trôi dạt đến đây và trở thành một người tu hành. Ông tỉnh tu dưới gốc bồ đề, không còn hứng thú đến việc trần gian, không còn khao khát giàu sang phú quý trên đời, cũng không còn muốn đoạt lại ngôi vua nữa. Ông làm như vậy chỉ vì muốn giảm bớt những giết chóc tàn nhẫn của quân thù đối với dân chúng của ông. Để làm vơi bớt đau khổ nhọc nhằn cho dân chúng, ông đã không ngần ngại từ bỏ ngai vàng. Vậy mà cũng còn có người đến bắt và muốn giết vua. Hoàng tử cảm thấy thế nhân thật quá ác độc ác và hung dữ không thể tưởng tượng được. Ông vua và hoàng tử sống tại một nơi hoang vắng, không một bóng người, chỉ ăn trái rừng và uống nước suối qua ngày, cuộc đời bình thản như vậy, mà người ta vẫn tới bắt đem đi giết. Hoàng tử khóc lóc, không hiểu tại sao thế nhân lại tàn nhẫn như vậy. Khi vua Trường Thọ bị đưa về kinh, vua láng giềng không chần chờ gì cả, vội chuẩn bị sửa soạn thiêu sống ông. Người trong nước đến tụ họp chung quanh chỗ hành hình, họ buồn rơi nước mắt vì họ biết ông là một vị vua tốt và rất thương dân. Người ta khóc không phải chỉ tiếc vì nhà vua phải chết, mà còn tiếc phải mất đi một người hiền lành, tử tế, có đạo đức, có tình thương. Hoàng tử lẩn trong đám người đang khóc lóc buồn bã đó. Chàng không thể không đến nhìn cha một lần cuối, dù biết rằng cha muốn mình ở lại trên núi để tiếp tục tu hành. Hoàng tử không dám khóc lớn tiếng, mà chỉ ra dấu bằng tay cho cha biết là mình đang có mặt ở đó. Đang lúc đó quân lính đốt lửa. Vua Trường Thọ sắp tới giờ phút lìa đời. Nhưng khi trông thấy hoàng tử đứng đó ánh mắt đầy căm hận, nhà vua vô cùng lo lắng, sợ chuyện không may sẽ xảy ra, vì ông đọc được trong tâm hoàng tử như muốn nói rằng thế nào chàng cũng sẽ trả thù cho cha. Vua Trường Thọ cố gắng khuyên con. Sắp chết tới nơi rồi mà ông vẫn rán dạy con. Nhưng ông không dám nhìn thẳng về phía hoàng tử đang đứng, mà chỉ ngẩn mặt lên trời mà nói: "Trường Sanh, con phải dùng tình thương để xóa bỏ hận thù. Con không nên dùng gươm đao để báo oán. Hãy sống một cuộc đời như Đức Phật hoặc Bồ Tát, với tình thương, lòng khoan dung; đừng nghĩ tới hận thù hay bạo lực". Rồi nhà vua chết thiêu trong đám lửa. Hoàng tử quá giận dữ, đau lòng mà ngất xỉu. Lúc đó chàng mới mời bốn tuổi. Còn trẻ mà phải chứng kiến cảnh cha mình bị chết một cách đau khổ, chắc quý vị cảm nhận được tâm trạng của chàng khi chứng kiến cha mình bị giết một cách tàn nhẫn như vậy. Dĩ nhiên hoàng tử khó mà cam lòng cho được. Càng nhớ tới cái chết của cha, chàng càng muốn báo thù. Hoàng tử nghĩ: "Người kia xâm chiếm lãnh thổ lại còn giết cha ta nữa. Ta phải trả thù hắn mới được. Ta phải trả thù !" Trong đầu hoàng tử ngoài việc trả thù không còn một ý nghĩ gì khác. Càng bị đói lạnh, càng khổ cực, hoàng tử lại càng căm hận và muốn báo thù. Chàng suy tính những kế hoạch để có thể đến gần vua địch, càng gần càng tốt. Theo kế hoạch đó, hoàng tử lên đường trở về kinh thành kiếm công ăn việc làm. Mau thay hoàng tử vô tình gặp được một ông đại thần nước địch; ông này thấy chàng khôi ngô tuấn tú và khoẻ mạnh, liền mướn về giúp việc trồng rau, tưới hoa và săn sóc vườn tược. Hoàng tử rất thông minh và chăm chỉ làm việc. Chẳng bao lâu sau, mọi người trong gia đình vị quan này đều thương mến chàng. Vị quan này và tất cả những người phụ tá của ông đều rất tin tưởng và yêu thích hoàng tử. Họ quý mến và giao phó cho hoàng tử nhiều công việc. Vị quan này hoàn toàn không biết chàng trai trẻ kia là Hoàng Tử Trường Sanh, vì chàng hóa trang rất giỏi. Một hôm, vị quan hỏi hoàng tử rằng: "Ngươi có tài năng gì khác ngoài những tài năng mà ta đã thấy không?" Hoàng tử đáp: "Tôi còn nấu ăn giỏi lắm". Quả thật chàng nấu ăn rất ngon. Chàng nấu còn ngon hơn những tay đầu bếp khác trong nhà vị quan này. Nhờ đó, chàng càng được ông thương mến hơn nữa. Vì rất hãnh diện đối với hoàng tử Trường Sanh , ông mời nhà vua tới dùng bữa, dự định là sẽ khoe người nấu bếp giỏi và thông minh của ông. Tới ngày đó, hoàng tử muốn nhân dịp may này cố gắng dùng hết tài nghệ nấu cho nhà vua ăn những món ăn hết sức tuyệt vời. Tôi không biết những món đó là mặn hay chay. Ông vua mới này vô cùng cảm phục hoàng tử Trường Sanh, vừa trẻ tuổi lại vừa nấu ăn giỏi. Nhà vua liền nói với vị quan: "Hãy đưa người này đến cho ta". Ông vua yêu cầu vị quan cho hoàng tử Trường Sanh đến làm người đầu bếp của ông và giữ bên cạnh ông. Dĩ nhiên vị quan này không dám từ chối lời yêu cầu đó; ông không còn cách nào hơn là cho nhà vua viên phụ tá mà ông quý mến và tin tưởng nhất. Thế là hoàng tử Trường Sanh trở thành đầu bếp của nhà vua. Để được vua tín cẩn nhiều hơn nữa, hoàng tử mỗi ngày cố gắng làm vua vui vẻ, sung sướng và nấu ăn thật ngon cho ông. Chàng đảm đương mọi việc một cách rất chu toàn để phục vụ cho vua và nhờ vậy càng ngày chàng càng được nhà vua thương mến hơn. Hoàng tử Trường Sanh rất tinh khôn, tài giỏi cho nên nhà vua rất thích. Sau đó hoàng tử trở thành cận vệ của vua và là người mà nhà vua tin tưởng nhất. Hầu như việc gì ông cũng hỏi ý kiến Trường Sanh. Nhờ sinh trưởng trong cung điện, hoàng tử thông thạo nhiều điều và biết luật lệ trong triều. Hoàn cảnh nào chàng cũng đối phó được. Một hôm, ngày mà hoàng tử mong muốn đã đến. Hôm đó, nhà vua cùng hoàng tử đi săn. Nhà vua mãi mê săn đuổi một con thú nên càng lúc càng đi sâu vào một rặng núi xa. Vì nhà vua cưởi con ngựa tốt nhất cho nên cả đoàn tùy tùng không ai đuổi theo kịp ngài. Nhà vua và hoàng tử Trường Sanh đuổi theo con mồi và đi thật sâu vào rừng núi. Hoàng tử tuy biết được lối ra nhưng chàng cố tình dẫn nhà vua đi lạc rồi giả bộ như không biết đường về. Mãi đến đêm về, họ vẫn không không tìm được lối thoát. Nhà vua vì mệt quá nên nằm xuống nghỉ. Chung quanh, cây cối rậm rạp, đường mòn nhỏ hẹp quanh co nhiều hướng khác nhau. Hoàng tử Trường Sanh đứng bên cạnh, cầm kiếm "bảo vệ" vua. Cơ hội hiếm có của hoàng tử Trường Sanh bây giờ đã đến. Trường Sanh nhìn kẻ thù đang say ngủ bên cạnh, trong đầu đột nhiên lại vang lên tiếng nói: "Hắn giết cha ngươi, cướp ngai vàng của ngươi. Hãy mau mau giết hắn! Ông vua này tuy không tu Pháp Môn Quán Âm nhưng cũng sắp sửa được giải thoát! Cứ việc dùng gươm cắt hắn ra hai mảnh là xong!" Nhưng rồi hoàng tử Trường Sanh lại lưỡng lự. Chàng chợt nhớ tới lời khuyên của cha, nhưng tiếng nói trong đầu lại vang lên một lần nữa: "Còn chần chờ gì nữa? Hãy giết hắn mau !" Đầu óc là như vậy đó. Nó hay xúi giục chúng ta làm những việc không tốt, đúng không? Dù là người tu hành như Trường Sanh cũng không tránh khỏi. Hoàng tử cảm thấy bất công, vì còn nhỏ tuổi mà đã phải chứng kiến những chuyện không hay xảy ra cho vua cha. Hoàng tử Trường Sanh rút kiếm ra chuẩn bị. Chàng không phải là sắp cắt cỏ, mà sắp sửa đâm vào mắt trí huệ của nhà vua. Bỗng nhiên lúc đó hình ảnh vua cha lúc sắp chết cháy một cách thảm thiết lại hiện ra. Với ánh mắt đầy nhân từ, nhà vua nói rằng: "Con ơi, hãy lấy tình thương xóa bỏ hận thù. Con nên theo con đường của Đức Phật, tập tính khoan dung và thương yêu kẻ khác. Con không nên đối xử tàn nhẫn". Nghĩ tới đó, lòng chàng mềm đi vì tình thương và tự nhủ: "Tại sao ta lại không nghe lời dặn của phụ hoàng lúc lâm chung? Nếu không vân lời tức là ta mang tội bất hiếu. Phụ hoàng rất từ bi và nhân hậu. Ta phải theo gương của phụ hoàng thay vì làm ngược lại". Nghĩ vậy, hoàng tử chậm rãi tra gươm vào vỏ, rồi đứng đó mà khóc. Lúc đó ông vua mở mắt dậy, nói với hoàng tử Trường Sanh: "Ta mới trải qua một cơn ác mộng. Có người đang muốn giết ta". Hoàng tử Trường Sanh đáp: "Có lẽ vì ngủ dưới đất lạnh nên ngài có ác mộng đó. Đã có tôi hộ vệ, không ai dám giết ngài đâu". Ông vua cảm thấy an tâm, và nằm xuống tiếp tục ngủ còn hoàng tử Trường Sanh thì tiếp tục đứng canh. Một lúc sau, chàng lại nghĩ tới cái chết thê thảm của cha, rồi lòng căm hận lại nổi dậy. Đầu óc chàng lại xúi giục: "Giết hắn! Giết hắn! Giết hắ! Hắn giết cha ngươi, ngươi phải trả thù!" Đầu óc cứ xúi giục mấy lần như vậy. Chàng rút gươm ra, đưa cao lên rồi hạ xuống đầu ông vua. Lúc đó lời vua cha lại vang lên một lần nữa: "Con không được ác độc như vậy. Con phải lấy tình thương xóa bỏ hận thù, vân vân ..." Không chịu nổi sự giằng co trong lòng, hoàng tử hét lên một cách giận dữ, rồi nhìn đăm đăm vào mặt nhà vua vẫn còn đang say giấc mà nói rằng: "Ngươi là kẻ thù không đội trời chung với ta nhưng hôm nay ta tha thứ cho ngươi... Vì phụ hoàng ta, vì lòng nhân hậu của người mà ta tha thứ cho ngươi!" Nói rồi hoàng tử tra kiếm vào võ cho "nghỉ" luôn. Từ đó không bao giờ rút ra nữa. Tình thương đã thắng hận thù. Vừa lúc đó, ông vua bỗng nhiên tỉnh dậy. Ông luôn luôn tỉnh dậy đúng lúc, vừa sau lúc suýt mất mạng. Ông nói: "Ta vừa mới trải qua một cơn ác mộng nữa. Ta thấy con của ông vua cũ tha tội cho ta. Nó không muốn trả thù nữa. Ngươi có biết ý nghĩa của giấc mộng đó là gì không?" Hoàng tử Trường Sanh nước mắt đầm đìa đáp: "Tôi chính là con trai của ông vua trước. Lúc cha tôi bị ông thiêu sống, người có dặn tôi đừng lấy oán trả oán, mà phải lấy tình thương xóa bỏ hận thù. Người muốn tôi theo con đường tình thương của Đức Phật, và dùng tình thương đối xử với mọi chúng sinh. Tôi định giết ngài, nhưng khi nhớ đến lời răn đó thì lại không làm được." Nhà vua nghe được cảm thấy rất xúc động và bắt đầu thấy ăn năn hối hận. Ông ôm chầm hoàng tử Trường Sanh rồi khóc. Hai người cùng ôm nhau mà khóc. Vua nói: "Được, ngươi hãy giết ta đi để trả thù cho cha ngươi. Ngươi không cần phải giằng co gì cho đau khổ thêm nữa". Bản tính đanh thép của vua bỗng tan biến đi. Ông cảm thấy khai ngộ được một chút, và sẵn lòng để hoàng tử Trường Sanh giết. Ông không muốn hoàng tử bị giằng co nữa, điều này cho thấy ông cũng có tình thương, cho nên đã làm cho hoàng tử Trường Sanh cũng thấy cảm động. Chàng nói: "Thưa ngài, không. Tôi sẽ không giết ngài. Làm thân cầu cận, tôi không dám. Xin ngài hãy trừng trị tôi". Thế rồi hai người quyết định không giết nhau và ngồi đó để tỉnh tâm. Chợt nhiên cả hai đều thức tỉnh. Khi mặt trời ló dạng, tâm họ cũng không còn bóng tối nữa. Ánh sáng tình thương, khoan dung như đang chiếu rọi toàn thế giới. Nhà vua ôm đầu, nghĩ đến những tội lỗi nặng nề mà ông đã làm và cảm thấy vô cùng hổ thẹn trước lòng cao thượng và khoan dung của hoàng tử Trường Sanh. Bỗng nhiên ngộ được điều đó, nhà vua cảm thấy rất là thích thú. Ông trở nên sáng suốt hơn và nói với hoàng tử rằng: "Này người cận thần yêu quý, hôm nay ta mới thật sự tìm ra một điều đẹp nhất trên đời. Chiến tranh, thù hận đều là tội lỗi và độc ác. Chỉ có tình thương mới thật là kho tàng quý báu". Sau đó hoàng tử Trường Sanh đưa vua ra khỏi khu rừng. Nhiều vị quan đại thần vẫn còn ở đó trong lòng lo lắng không biết vua đã đi đâu. Khi vua và hoàng tử Trường Sanh trở về đến kinh thành, vua hỏi các quan rằng: "Có ai biết hoàng tử của vua cũ ở đâu không?" Dĩ nhiên là không ai biết cả. Vua cầm tay hoàng tử Trường Sanh giơ lên cao và nói: "chính là người này! Người này là hoàng tử của vị vua trước và cũng là thầy của ta. Hắn không giết ta mà còn cho ta một bài học quý giá. Nhờ hắn, ta mới biết được đức tính cao thượng của vị vua cũ. Ta muốn noi gương của người này". Nhà vua trao trả ngai vàng cho hoàng tử Trường Sanh rồi trở về nước của ông, lấy tình thương để trị dân. Hoàng tử Trường Sanh tiếp tục noi gương tình thương và lòng nhân hậu của vua cha để an dân trị quốc. Đất nước càng ngày càng trở nên hòa bình, thịnh vượng. Trên thế giới chúng ta lại có thêm một vùng đất bớt đau khổ; thêm một nơi sáng sủa, hòa bình. Câu chuyện chấm dứt ở đây. Theo lời của Phật Thích Ca Mâu Ni, một trong những kiếp của Ngài là vua Trường Thọ. Hoàng tử Trường Sanh là ngài Anan và vua nước địch kia là kiếp trước của Đề Bà Đạt Đa. Thảo nào ông luôn luôn muốn hại Phật Thích Ca. Kiếp nào ông cũng muốn giết hại Ngài. Phật Thích Ca đi tới đâu Đề Bà Đạt Đa cũng muốn theo để giết.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |