Trong phật giáo thiền tông, có vị thầy kia kêu bằng Triệu Châu. Là một trong những nhân vật nổi tiếng, xuất sắc nhất. Ông là một vị thiền sư cuối đời nhà đường. Triệu Châu thiền sư là một người hoạt bát, vui vẻ. Vị thiền sư này, rất là vui vẻ hóm hỉnh và trí tuệ của ông lúc nào cũng tuôn trào như một dòng suối không bao giờ cạn. Sự sống của ông lúc nào cũng được thể hiện một cách linh động. Vì có trí huệ cao thâm nên ông được thiên hạ tặng cho biệt hiệu là Triệu Châu Quán Âm. Nhà Thanh ở bên Tàu lúc đó có vị vua kêu bằng Ung Chính. Là một người rất tôn sùng đạo Phật; nên đã truy phong cho ông danh hiệu là Triệu Châu Cổ Phật. Triệu Châu, tuy không sáng lập một môn phái nào, nhưng những tông phái, chi phái phát xuất sau đời nhà Đường đều noi theo trí tuệ và phong cách của ông. Thái độ sống của ông hình dung như là hùm beo không chung vào hang thỏ. Kẻ đại ngộ không câu nệ tiểu tiết. Có nghĩa là chắc vị này không có câu chấp những cái chuyện gì nhỏ mọn. Chuyện gì quan trọng thì ông ráng mà lo lắng. Chuyện gì không quan trọng ông kệ nó. Mặc kệ nó. Ông bỏ qua. Thì đúng rồi mình tu hành phải vậy chớ. Nếu lúc nào cũng lo mấy thứ tào lao chi đế, thì đâu có thì giờ mà tu hành, phải không? Với lại mình phải đặt ưu tiên, tức là cái chuyện gì mà quan trọng. Thời giờ nào làm cái gì, mình phải làm cái đó. Cái gì quan trọng mình làm trước . Chớ nếu không cả ngày cái chuyện gì cũng làm hết thì đâu có thì giờ đâu? Thì giờ đâu ăn, thì giờ đâu ngủ, phải không? Tức là nhiều người họ nói họ không có thì giờ. Mình phải học theo Hòa Thượng Triệu Châu đây. Tức là chuyện gì quan trọng thì đặt ưu tiên. Chuyện gì quan trọng thì mình làm, chuyện không quan trọng mình để đó, lát sau có rảnh thì làm không rảnh thì thôi. Cho nên nhiều khi mình đi ra mình nói người ta tu hành. Họ nói tui không có rảnh, phải không? Thì dĩ nhiên, đâu có ai có thời giờ đâu, mình cũng đâu có thời giờ, phải không? Ai mà nói rằng có thời giờ rảnh rỗi, tối ngày tôi trang điểm với bận đồ đẹp hoài đâu. Người nào cũng bận hết, phải không? Không bận chuyện này thì cũng bận chuyện kia. Không bận nữa thì cũng ngủ khò khò. Dĩ nhiên không có thời giờ đâu mà rãnh. Nếu mình muốn có thì giờ thì mình có. Không muốn thì không có. Thái độ sống của ông là như vậy đó. Chuyện gì quan trọng thì để ý và làm, làm gấp. Chuyện nào không quan trọng, dẹp. Không những những chuyện quan trọng mà thí dụ những cái chuyện nào quan trọng ông mới làm không. Chính vì cái thái độ hoạt bát lạc quan đó, cho nên phật giáo Đại thừa của xã hội Trung Hoa trong những thế hệ sau được ảnh hưởng rất nhiều. Thời kỳ đầu tiên, lưu truyền những công án mà đầu tiên nhất đó. Triệu Châu thiền sư đã sáng tác ra cái công án vô, "vô" tức là vô từ công án. Nghĩa là chỉ có chữ vô là phương thuốc hay nhất để chửa được căn bệnh thậm thấu về tình. Khiến cho con người có thể từ đó vén được bức màn vô minh trong tâm thức. Vô là biết sao không? Vô tự công án. Mấy thiền sư của Nhật thập niên về trước vẩn còn tu những cái môn này. Thí dụ, ngồi đó cứ kêu "Wuu" Không có gì hết "vô" Cứ niệm vậy hoài. Niệm cho tới chừng nào khai ngộ thì thôi. Không phải niệm không, nhưng mà phải tham khảo cái công án đó. Cho biết ý nghĩa nó muốn nói cái gì. Có nhiều người mua đại, cúng dường cho mấy ông sư già gì đó, ông giải đáp giùm cho. Nhưng mà cái công án "vô" đó khó giải đáp lắm. Cái này phải lãnh ngộ mới được, nhiều khi những thời trước đó thì những thiền sư cho những công án khác. Thí dụ hỏi "Bản lai diện mục của nhà ngươi là gì? Cái bộ mặt trước khi nhà người sinh ra làm sao?' Tôi là ai. Thì nhiều khi có thể mua được cái câu trả lời. Nhưng mà có chữ "vô" không thì khó lắm. Khó có thể mà gạt được, mua được. Cho nên có lẽ sau này những thiền sư sau này mới đặt ra công án "vô" như vậy. Đặng cho đệ tử khỏi có gạt gẫm được, đi mua bài đó. Giống như mình đi thi đó mà, hay mua bài đó. Thì vô tự công án của Triệu Châu sau này đã được nhiều vị thiền sư dùng để làm đề tài giáo hoá cho môn đồ của họ. Ngoài ra, Triệu Châu còn nổi tiếng vì những giai thoại như là "Ba Cân Mè" hay là "đi uống trà", hay là "cây tùng trước sân" hay là "Củ cải to của Trần Trân Châu", v.v. và v.v. Đời sống của ông rất là phong phú, rất là nhiều màu, cho nên ông có rất nhiều chuyện. Mọi người kể chuyện rất nhiều về ông. Những giai thoại nầy, sau nầy biến thành công án. Những người tu thiền đời sau lấy những câu chuyện của ông làm thành công án để mà tham khảo. Triệu Châu thiền sư sống tới một trăm hai chục tuổi lận. Nếu theo cái đà này thì Sư Phụ còn mấy chục năm nữa lận. Khi mà tuổi già đó, thì ông được thiên hạ xem như một quyển kinh sống. Người ta thì xem những thiền sư khác là Phật sống. Có nghĩa là tinh thông Tam Tạng, tinh thông mọi kinh điển. Người ta kêu là kinh sống. Thí dụ hồi xưa Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ qua Tầu. Rồi ở đó tu hành. Ngồi đối mặt vô vách tường chín năm đó mà. Rồi người đời sau cũng lấy chuyện của Tổ Đạt Ma làm thành công án bắt học trò hỏi là: Tỗ Đạt Ma qua Trung Quốc để làm gì? Thì dĩ nhiên mình có thể nói là Tổ Đạt Ma qua Trung Quốc để truyền đạo. Hay là Tổ Đạt Ma qua Trung Quốc để nhận 5 vị đệ tử chính. Hay tổ Đạt Ma qua Trung Quốc để chơi. Tổ Đạt Ma không có chuyện gì làm, ngồi chơi xơi nước chín năm. Nhưng mà cái đó không phải là điều chính, không phải là trả lời về vấn đề đầu óc như vậy. Không phải trả lời như vậy. Nhưng mà khi nào phải ngộ được cái ẩn ý ở bên trong đó, mới kêu là giải công án. Chớ không phải là mình coi cái chuyện của ổng mình nói: Ở đúng rồi tôi thấy ông ở bên Ấn Độ qua bên đây đó. Ông qua bên đó làm gì tôi không biết. Có thể nói: "Hồi đó tôi không ở đó, tôi không biết.” Cái công án mà khi nào những thiền sư hỏi mình không phải để mình trả lời. Mà để mình tham khảo, cũng như phải chú tâm vô cái công án đó. Cũng giống như là niệm chú vậy đó hoặc là mình niệm Hồng Danh vậy đó. Không phải cái công án đó làm cho con người ta khai ngộ. Nhưng mà cái vị thiền sư đã tham khảo cái công án đó rồi, đã khai phá được cái bí ẩn của cái công án đó rồi đó, mới truyền cho mình nguyên giống y như cái câu như vậy. Chừng đó mình mới khai ngộ, hoặc là không khai ngộ, hoặc là khai ngộ lâu lâu, lâu lâu mới khai ngộ. Chớ nói gì, cái câu đố chép lại được mà. Rồi truyền ra cũng đâu có ăn nhằm gì đâu, phải không? Sau này, khi mà Triệu Châu thiền sư đã già rồi, Nhưng mà tinh thần vẫn rất là hăng hái, sức khỏe vẫn dồi dào. Tâm tình càng ngày càng ngây thơ và hóm hỉnh. Mọi người đều thích ông, yêu mến ông và gọi ông là Lão Ngoan Đồng. Lão rồi nhưng mà ngoan ngoãn dễ thương và giống như con nít. Cho nên kêu bằng Lão Ngoan Đồng. Ông không thích bị thiên hạ suy tụng, trở thành thần tượng để tôn thờ, mà ông chỉ muốn có một cuộc sống bình thường như muôn ngàn người khác. Một lần kia, có nhà danh họa, vì ngưỡng mộ trí huệ của ông nên đã họa một bức chân dung rồi mang đến tặng. Triệu Châu xem bức tranh xong cười ha hả rồi nói với nhà danh họa rằng: “Nếu mà nói bức tranh nầy giống lão tăng thì xin ngài hãy giết chết lão tăng đi cho rồi. Còn nếu như bức tranh này mà không giống thì xin ngài hãy đốt bỏ nó đi." Người họa sĩ đó phải làm sao biết không? Ông đốt đi. Tại ông không biết làm sao. Ông ngớ ngẩn. Tại sao mà thiền sư nói lạ lùng như vậy. Thì không lẽ giết ông sư thì phải đốt đi. Nhưng mà ông nói giởn thôi. Ông nầy ngu quá, đốt mất. Bao nhiêu ngày mới được bức tranh. Đốt mất tiêu. Tại ông họa sĩ này ngưỡng mộ thôi, nhưng mà không có nhập môn, không có khai ngộ. Cho nên ông nói giỡn chơi vậy, cái không biết làm sao, đốt mất tiêu rồi. Chớ lẽ ra nói vậy có nghĩa gì đâu. Phải không? Nếu giống tôi thì phải giết tôi đi. Giống thì giết đi mà không giống thì đốt. Tức là làm sao cũng không được hết với lại có thể là Triệu Châu thiền sư không có thích được người ta ca tụng hoặc là đem tranh đồ tới nầy kia kia nọ. Mệt quá đi. Không có chỗ treo mà, phải không? Hồi xưa, sư phụ hồi mới ra lò cũng vậy. Trời ơi, hết người nầy họa tranh tới người kia chụp ảnh đem tới lung tung hết. Sư phụ nhận thôi cũng mệt luôn đó. Vẻ có tài không nói làm gì. Người xấu thì biếng thành đẹp còn được đi. Vẻ còn tệ hơn nữa thì biểu đốt đi cho rồi. Chắc cái ông họa sĩ này, ông cũng kêu bằng nhà danh họa mà, Chắc vẻ đúng quá đi, giống quá. Mà ông nầy lúc này đã một trăm tuổi hơn rồi. Vẻ mặt mày nhăn nhó, dòm thấy phát nực. Mình mỗi ngày dòm trong gương mà thấy mình đẹp thì thấy còn hơi muốn sống một chút. Phải không? Dòm mà thấy thêm, bữa nay thêm hai cái làn nhăn nữa là thôi hết muốn nói chuyện với chồng con gì nữa hết rồi. Thường thường, ông rất là vui vẻ, nói chuyện cười cợt là tại vì ông không có dòm trong gương. Mà tại vì hoà thượng đâu có dùng gương. Tu hành cạo đầu trọc lóc, dòm gì đâu mất công. Quần áo thì tối ngày cũng chỉ một bộ màu nâu thôi. Dòm tới dòm lui cũng vậy, khỏi có gương mất công. Thành ra hồi đó tới giờ anh không có gương. Anh đi chọc cười thiên hạ chơi. Bữa đó họa cái bức hình có giống y như hệt luôn. Trời, ai mà thèm lãnh cái hình đó để lên trên coi, coi mình như vậy đó sao. Đập bể bao nhiêu cái gương rồi. Nó đem cái hình nó để trên đó. Có người không biết điều. Có tài họa nhưng mà không có tài ngoại giao. Muốn vẻ cái hình của ông thì lấy cái hình ông chụp lúc 20 tuổi đó, vẻ lại phải không? Thì may ra ông mới nhận, người ta đã 110 tuổi rồi sắp lên thiên rồi, sắp lên mây rồi, mà vẻ cái hình người ta, ai mà chịu cho được, phải không? Thường thường, cái gì mình không thấy thì không sao. Thấy cái bực lắm, phải không? Thí dụ nhiều khi chồng vợ đi ở ngoài làm việc thì ông cũng vậy thôi. Ở ngoài làm việc cũng bê bối vậy. Nhưng mà nếu ở chung 2 người mỗi ngày dòm hoài, thấy chuyện gì bê bối thấy ra hết trọi bực mình dễ sợ. Mà ông đi làm thôi thì không sao. Phải không? Hể lâu lâu về gặp không sao. Thì cũng y như người đó à, miễn không thấy ông làm tầm bậy tầm bạ thì thôi, không sao. Mà thấy cái chịu không nổi. Cũng như Sư Phụ vậy. Nhiều khi mà gặp mấy tấm gương mờ mờ đó nhà. Dòm tới dòm lui thấy cũng coi cũng còn được gái lắm. Tưởng đâu mình ngon nhé. Đi ra ngoài trời sáng trưng đó. Ngang của tiệm, của khách sạn mà nó có cái tấm gương thiệt bự bả dòm vô, bả giật mình. Bà không có dám nhìn nửa. Bà nhìn một lần bà đi luôn. Bả nói: Ai vậy kià? Sao không giống tui hồi nẩy trong phòng tắm? Phòng tắm đèn mờ mờ, Biết không? kiếng thì lâu lâu không có chùi. Cho nên ổng cũng vậy, cho nên nói giởn để ông kia đem đốt đi cho rồi. Thường thường Triệu Châu hòa thượng dùng cách bỡn cợt để mà khai ngộ cho người khác. Một hôm kia, có một ni cô tìm đến để thỉnh giáo của mật mật ý, tức là chân lý bên trong đó mà. Kêu mật mật ý hay là Pháp Quán Âm hay là quán nội tại hay là quán tự tâm hay là quán Phật tánh gì đó. Cũng giống như nước trong chai, nước thiên nhiên, nước khoáng ấy mà. Nhiều khi cũng nguyên cả cái nguồn đó để tên khác mà, công ty khác thôi. Một hôm đó có cô ni đến thỉnh giáo. Cũng giống như là muốn truyền Tâm Ấn, chắc vậy mà. Triệu Châu thừa dịp nhéo vào vị ni cô một cái. Ni cô tái xanh mày mặt, giận lu bù, la lên: “Không ngờ cái lão hòa thượng đắc đạo này mà trong lòng còn có cái đó.” Cái đó là cái gì? Triệu Châu trả lời liền : “Chính ni cô mới có cái đó đó.” Cho nên không có ai hiểu nỗi ông này đâu. Nhưng mà cái lối giáo dục này thật là đặc biệt há. Cũng là rất nghiêm khắc, phải không? Rõ ràng làm cho bà ni cô hiểu liền cái tâm địa của mình. Thấy không? Rõ ràng một cái nhéo thôi biết bà đẳng cấp tới đâu rồi. Tự bà phải biết liền. Lòng dạ còn chưa có trong sạch vẫn còn cái đó đó. Nhớ chuyện thiền khác không? Có 2 vị thiền sư qua sông. Rồi có 1 vị thiền sư ẵm dùm cô gái yếu đuối. Cô đi qua sông không nổi, sợ trôi đó; ông ẵm đưa qua sông. Rồi ông thảy cô bên bờ sông đó rồi ông đi. Hai ngày sau cái vị thiền sư thứ nhì kia còn ấm ức trong lòng nói: “Tại sao ông dám ôm ẵm đàn bà?” Ông kia nói:" Tôi bỏ bả ở bờ sông bên kia 2 ngày trước rồi, sao ông còn ôm bà tới đây?” Là sao? Trong lòng còn ôm áp cái hình dáng đó. Trong lòng còn nghĩ bậy bạ, thấy không? Đem từ đó đem tới bên này. Còn ông kia ông chỉ là cái hành động thôi, ông cứu người thôi, giúp người thôi trong lòng không có gì mà vương vấn cả! Đem qua, bỏ đó, đi. Mà bỏ luôn đó, không có nghĩ tới nữa. Còn ông kia tuy rằng không đụng chạm nhưng mà cái lòng ôm ẵm, ôm tới 2 ngày kia; ôm qua tuốt bờ sông bên kia, còn ôm hoài. Cho nên nhứt thiết vi tâm tạo mà. Mọi sự đều do cái đầu óc của mình hết. Chứ nhiều khi mình thấy những cái hành động nào đó mình nghĩ rằng không phải, nhưng thật ra cái tâm mình là không phải. Ý là những vị thiền sư muốn nói vậy đó. Thì bây giờ tại sao mà vị nầy thử thách cô này quá sức vậy? Để cho cô đó biết tấm lòng của mình có thái độ hơi còn kiêu nghĩ rằng đã là nữ mà đi tu như vậy thì tới đó thế nào hòa thượng cũng truyền pháp cho tôi ngay lập tức, khen tặng này kia nữa. Có một vị hòa thượng khác ở xa đến nhờ Triệu Châu giải nghĩa đại ý của thiền. Triệu Châu không nói không rằng gì hết. Đứng dậy đi tới nhà vệ sinh. Tới đó vọng lại nói: “Cái chuyện nhỏ xúi này mà mình cũng phải tự làm lấy, không có nhờ ai được hết trơn.” Ý nói là cái chuyện nhỏ xúi như vậy mà không hiểu, còn phải tới đây hỏi. Tu hành tới hòa thượng rồi, mà không hiểu chi hết, còn chạy đi hỏi giống như người ta đi vệ sinh mỗi ngày vậy đó. Cái chuyện tầm thường, ý nói vậy đó. Ý có nghĩa nữa là cái chuyện thiền định đâu có phải ai giải thích bằng lời mà mình hiểu được đâu. Phải tự mình chứng ngộ lấy mới được chứ, phải không? Đâu có phải tới đó rồi người ta đọc cho mình nghe. Hoặc là viết ra cho mình chép lại mà mình hiểu được cái bí mật của thiền tông đâu, phải không? Hay là của trời đất đâu, ý ngài nói là như vậy. Chuyện của tự mình làm, mình không thể nhờ ai làm được cả. Có ai mà đi vệ sinh giùm mình được không? Thì giống y như vậy, ngồi thiền cũng vậy thôi. Đúng rồi, đâu có ai mà ăn giùm mình được, phải không? Đâu có ai đi nhà tiêu cho mình được. Thì chuyện thiền cũng như vậy, ý ngài nói như vậy. Cái câu đó là cái câu trả lời của ngài với cái ông hòa thượng kia vậy đó. Chuyện thiền làm sao mà giải thích ra được? Phải không? Có một bữa kia nữa, thấy một vị hòa thượng tu ở trong chùa đang ngồi đọc kinh. Thiền sư Triệu Châu mới đến gần hỏi rằng: “Mỗi ngày ông đọc bao nhiêu kinh vậy? Hòa thượng nói rằng: “Lúc mà rỗi rảnh thì tôi đọc được 9, 10 quyển. Lúc bận rộn thì đọc được 7, 8 quyển thôi”. Triệu Châu lắc đầu nói: “Nếu mà vậy, thì ông chưa phải là người biết đọc kinh.” Hòa thượng bèn hỏi ngược lại rằng: “Dám hỏi Sư Phụ đọc bao nhiêu kinh sách mỗi ngày?” Triệu Châu mới vuốt râu nói rằng: “Lão tăng mỗi ngày chỉ đọc có một chữ thôi.” Tức là quán âm. Có một hôm nọ nữa, có một vị soái công dẫn 2 người con của ông đến tham vấn Triệu Châu. Cái lúc mà tiếp kiến vị đại soái nầy, ông vẫn chễm chệ ngồi lì ở trên thiền sàn, không chịu bước xuống mà hỏi ngược lại soái công rằng: “Đại vương! có biết lễ nghĩa của đạo hay là không?” Công đây có nghĩa là công hầu đây chớ không phải cái tên của ông. Soái công mới đáp lại Triệu Châu rằng: “Thưa ngài tôi không biết, xin nhờ ngài chỉ dạy.” Thì Triệu Châu mới nói rằng: “Lão tăng thọ trai từ hồi nhỏ, cho đến bây giờ đã già rồi, cho nên không đủ sức bước xuống giường để nghinh tiếp ngài.” Soái công càng tỏ vẻ tôn kính bội phần. Ngày hôm sau Soái công sai một tùy tướng mang thư tay đến thì Triều Châu bước xuống giường, chạy liền xuống lấy tay ra tiếp đón cái bức thư rất là lễ phép, long trọng. Những đệ tử thân cận của ông thấy làm lạ bèn hỏi rằng: “Soái công tự mình đến đây, thì sư phụ không có chịu bước xuống giường. Ngày hôm nay, chỉ có 1 vị võ quan nho nhỏ xíu thì ngải lại xuống giường mà đảnh lễ nửa? Lại đại lễ nửa, mà đãi nữa.” Tức là rất là cung kính. Xuống, chắc là chấp tay bái một cái rồi mới đưa lãnh thơ vậy đó. Triệu Châu mới cười nói rằng: “Các con không biết gì hết. Khi mà tiếp kiến bậc thượng khách đó thì ta phải giữ lễ mà tiếp trên giường. Khi mà tiếp khách hàng thứ thì phải bước xuống giường mà nghênh tiếp. Khi mà tiếp khách hạng bét thì phải bước ra cửa để mà chào đón. Tức là hạ cấp thì mình phải ra ngoài. Tại vì ông hiểu Soái công đã là người khai ngộ rồi. Nên ông hiểu và càng kính trọng hơn vì biết Triệu Châu không phải là người thích nịnh bợ những quan lớn. Còn những quan nhỏ thì phải ra tiếp đón như vậy để người ta cảm thấy được tôn trọng. Hoặc là sợ họ giận dỗi, có thể như vậy, họ hiểu lầm. Còn nếu hai nữa là để làm cho họ được mát lòng mát dạ. Còn những người cùng đinh, mạt hạng nữa thì phải tiếp đãi càng tốt hơn nữa. Để cho họ không có mặc cảm. Thường thường, người đời đối đãi với những người cao cấp thì họ đối đãi rất tôn kính. Còn những người nào mà không có địa vị thì họ rẻ rúng. Những người mà không có nhà cửa nữa thì dĩ nhiên khỏi nói rồi. Không có được tới nhà tao. Thí dụ vậy. Cho nên vị thiền sư là khác, đối đãi với ai cũng bình đẳng cả. Bình đẳng nghĩa là cái lòng bên trong của ngài đối với tất cả mọi người đều giống nhau. Xuống giường hay không xuống giường cái đó đối với lòng tôn trọng bên trong không có ăn nhằm gì với nhau hết, thấy không? Gathering, sept 10, 2008
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |