Sáng nay trước khi đi ra khỏi nhà, chúng tôi thấy một con chim. Chắc là nó bay lẹ quá nên đụng vào cửa kính, rồi rơi xuống chết ngay trước cửa nhà tôi. Đó là một chuyện buồn, nhưng có một chuyện khác còn thảm hơn. Bên cạnh nó còn có một con chim nữa, cứ đứng đó không nhúc nhích và đứng rất lâu, đứng hơn nữa tiếng đồng hồ cho tới khi chúng tôi phát hiện ra chúng. Nó đậu ở chỗ đó có lẽ vì nó muốn đợi con kia đứng lên rồi cùng bay với nó. Theo kiểu nó đứng như vậy thì đúng là bất động. Bình thường, loài chim nếu đứng một chỗ, cái đầu nó cũng động đậy bên này, bên kia. Nhưng con chim kia đứng lặng đó như đã chết rồi, cứ nhìn đăm vào xác con kia. Có lẽ nó quá khủng hoảng tới nổi bất động, hay cũng có thể là nó đang nghĩ: "Sao không đứng dậy bay với tôi?" Có lẽ nó cũng biết con kia chết rồi nhưng vẫn cứ đợi, rồi tự hỏi không biết con kia sẽ có bao giờ đứng dậy hay không. Trông nó như chết rồi, vì tôi bước qua bước lại bên cạnh nó lên tiếng gọi người khác, mà nó vẫn không nhúc nhích. Bởi vậy nên tôi gọi người kia: "Lại đây, chắc cả hai con chết rồi". Khi cô ấy đến gần, con kia mới chịu bay lên. Con chết vẫn nằm bất động. Thấy nó trung thành như vậy tôi cảm động quá. Con chết thì sung sướng rồi; nhưng con sống, chắc lúc đó đang đau lòng lắm, nhìn cách nó đậu chỗ đó đợi con kia bay như vậy. Chúng nó cùng nhau bay đến, tự nhiên một con bay xuống chết; con kia thì cứ ngồi đó đợi. Ôi! Tôi thật chịu không nổi hoàn cảnh đó. Cho nên, đừng cho rằng mấy câu quý vị hỏi là nhỏ; đối với tôi, nó không nhỏ, không có gì là nhỏ. Đối với cái nhìn của người trong cuộc, nó không nhỏ. Không biết con chim đó có tìm được bạn đồng hành khác không. Có lẽ nó sẽ bay lên, bay xuống chỗ đó coi con kia có đi mất chưa. Nhưng mấy nữ thường trú đã chôn nó. Còn một câu chuyện khác xảy ra hồi tôi còn ở bên Ấn Độ. Hai tháng trước tôi đi Ấn Độ nghĩ hè. Tôi trở về Hy Mã Lạp Sơn, nhưng lần này tôi thất vọng quá. Chỗ nào cũng dơ bẩn, mất vệ sinh. Người ta làm nhà vệ sinh dọc theo suốt bờ sông, tôi không kiếm được một chỗ nào sạch sẽ mà ngồi thiền. Kinh quá! Chỗ nào cũng vậy; rồi còn ồn ào nữa. Hàng ngàn người đến đó hành hương, tôi nghe đủ các loại nhạc rẻ tiền. Tôi cũng đã ở lại đó thiền một hồi; vì đã đến đó rồi nên tôi đành ở lại, chỉ có vậy thôi. Một hôm tôi đến nhà hàng kiếm một chút gì để ăn. Dĩ nhiên vì tôi chỉ có một mình nên không nấu nướng gì cả. Và ở chỗ đó thì, ồ! không thành vấn đề, chỗ nào cũng có thức ăn chay. Trong nhà hàng, tôi thấy một con ruồi đang bị mắc vào mạng nhện bên ngoài một cửa sổ bằng kính. Thấy nó vùng vẫy, tôi đau lòng quá, và dĩ nhiên là tôi cố gắng để cứu nó. Cửa sổ làm theo kiểu Ấn Độ, bị đóng đinh chặt quá nên tôi không mở được. Tôi cố dùng dao, nĩa mở ra, nhưng không có kết quả. Tôi cố mở suốt nửa tiếng đồng hồ như vậy. Lúc đó, người ngồi bên cạnh tôi là một ông khách người Ý tôi mới quen trong một dịp tình cờ, ông nói với tôi: "Mặc kệ nó đi. Có gì quan trọng đâu nào! Một con ruồi thôi mà ăn nhằm gì!" Tôi nói: "Không ăn nhằm đối với ông, nhưng đối với tôi nó có ăn nhằm. Sao ông phải xen vào làm gì?" Ông ta lắc đầu. Ông cố gắng thuyết phục tôi rằng đời sống của một con ruồi không có gì là quan trọng, nhưng cũng chẳng có kết quả gì. Hai chúng tôi nói chuyện một hồi lâu, trong khi đó tôi vẫn tiếp tục cố gắng với niềm hy vọng mong manh là có thể cứu được con ruồi. Trong khi trò chuyện, ông ta cứ bảo tôi mặc kệ nó. Nhưng tôi trả lời: "Con ruồi có thể là không quan trọng, nhưng vấn đề là nó đang vùng vẫy trước mặt tôi, và tôi trông thấy. Nếu tôi có thể giúp được thì tôi nên giúp. Dù nó là một con ruồi hay một con người, thật ra có gì khác đâu? Điểm quan trọng là sự vùng vẫy, nỗi đau khổ cần phải được giải quyết. Ông cũng đừng bận tâm gì đến chuyện này. Tôi làm vậy là để giúp con ruồi và cả chính tôi nữa; vì thấy nó đau khổ quá tôi cũng không chịu nổi". Khi chúng tôi đang nói chuyện, thì một người đàn ông Ấn Độ tiến tới. Ông ta xin phép được ngồi bên tôi. Tôi đáp: "Được chứ, đây là nhà hàng, ai cũng ngồi được. Sao phải hỏi tôi?" Ông nói: "Vì tôi muốn nói chuyện với cô". Tôi hỏi: "À, có chuyện gì?" Ông ta cố gắng giảng cho tôi hiểu rằng cuộc đời của một con ruồi không có gì là quan trọng. Biện luận của ông có lý lắm, không nghi ngờ gì cả. Ông nói: "Xin lỗi cô, nhưng cô nên nhớ rằng ngay bây giờ, ngoài kia, khắp mọi nơi trên thế giới, hàng ngàn, hàng triệu con ruồi đang chết, như vậy tại sao cô lại để ý tới một con ruồi nhỏ xíu này?" Tôi trả lời: "Bởi vì nó sắp chết trước mắt tôi, còn hàng ngàn chúng sinh khác thì tôi không thấy. Tôi không thể giúp cho hàng ngàn chúng sinh mà tôi không biết, nhưng ngay đây tôi giúp được những con mà tôi biết. Nếu nói như ông thì cũng có hàng ngàn, hàng triệu người chết đi mỗi ngày. Sao còn phải lo gì nữa? Ngay cả cuộc đời của mình, sao chúng ta phải lo? Nếu nói như vậy thì cứ nhịn ăn đến chết cho rồi. Hoặc cũng đừng nuôi nấng con cái mình nữa, vì có hàng ngàn trẻ em đang chết đói ở Phi Châu kìa. Theo lý luận đó, tại sao chúng ta phải lo cho một hoặc hai đứa trẻ ở đây?" Nhưng ông ta không được vui lắm. Ông cứ ráng giảng nghĩa thêm cho tôi. Không biết tại sao. Tôi vô cùng khổ tâm nhìn con ruồi phải vùng vẫy để sống còn như vậy. Rồi người ấy lại nói với tôi: "Nhưng cứu con ruồi đó là cô lấy đi thức ăn của con nhện". Tôi nói: "Phải, phải, nhưng con nhện đó đi rồi. Con nhện không còn ở đó nữa". Ông ta nói: "Sao cô biết?" Tôi đáp: "Bởi vì ông thấy đó, màng nhện gần hư hết rồi, và còn có mấy cái xác hãy còn nguyên vẹn, không có con nào ăn. Ông thấy không, chỗ đó rất nhiều gió và nhện không thể ở chỗ ấy được lâu. Nó đã đi rồi. Ở đó có nhiều màng nhện, nhiều xác, nhưng không ai được lợi ích gì. Cho nên, nếu tôi cứu con ruồi đó, không có hại gì cho con nhện. Dù nó hãy còn ở đó đi nữa, nó cũng vẫn còn nhiều lương thực, quá nhiều cho nó rồi, không cần thêm một nạn nhân nữa. Chúng ta chỉ nên ăn khi đói và lấy khi cần". Cuối cùng họ đành phải mặc tôi một mình. Thế rồi họ bỏ đi, và như vậy là hết chuyện. Quý vị thấy không, tôi đâu phải là người không có tình cảm. Điều đó làm cho công việc của tôi càng khó hơn, nhưng tôi vẫn sống sót được. Có lẽ chỉ là chết mới một nửa, chứ chưa chết hết. Tôi có tất cả những tình cảm mà quý vị có. Hơn nữa tôi biết đó chỉ là những cảm xúc nhất thời bị khơi dậy của đầu óc. Tùy vào tình huống, đôi khi tôi giữ nó để sống còn trong thế giới này, đôi khi tôi đè nén nó, đôi khi tôi lờ nó đi. Tôi phải giữ tất cả những tình cảm của con người. Tôi phải ở cả hai chỗ, trái đất và thiên đàng. Nếu tôi ở cao quá, quý vị sẽ không thể đến với tôi được, và tôi cũng không thể hiểu được quý vị. Trong Phật Giáo, có một cuốn kinh gọi là Kinh A Di Đà. Trong kinh đó, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mô tả cái đẹp của cõi Tịnh Độ. Trong cõi Tịnh Độ này, ngoài khung cảnh đẹp đẽ, nhà cửa quý giá (bằng pha lê, kim cương, đủ loại đá quý), đủ thứ bông hoa quý và đẹp, đủ loại người lộng lẫy, quý phái sống ở đó, còn có nhiều những thứ khác. Tất cả đều tuyệt vời. Nhưng có một điều vô cùng đặc biệt rất đáng đề cập đến. Đó là, trong cõi đó, người ta không bao giờ nghe tới tiếng "khổ", chưa hề có cái chữ "khổ", huống chi biết khổ là gì. Nếu những người đó hoặc vị Phật đó muốn hiểu nỗi đau khổ của thế giới này, thì chính họ phải trải qua sự đau khổ. Nếu cảnh giới của họ luôn luôn ở nơi Tịnh Độ, thì họ sẽ không bao giờ nghe tới chữ "khổ", huống chi là biết khổ. Cho nên nếu người nào nói với quý vị là Phật vượt trên sự đau khổ, vượt trên tình cảm, thật sự họ không biết Phật là gì.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |