Bây giờ, chúng ta nói đến đệ tử đầu tiên của Đạo giáo. Đạo giáo là từ Lão Tử, người Trung Hoa. Đây là câu chuyện về đệ tử đầu tiên của đạo giáo. Đệ tử đầu tiên của Lão Tử. Có một người tên là Văn Thủy. Lúc ông chào đời, có một đám mây tím hạ xuống phòng của mẹ ông, còn hoa sen thì nở trong vườn. Thuở ấu thơ, Văn Thủy đã thích triết lý của đạo giáo, thiên văn và tiên tri siêu phàm. Ông cố gắng thấm nhuần tinh hoa của Đạo từ mặt trời, mặt trăng và những vì tinh tú, trau giồi đạo đức và trí huệ của ông. Văn thủy làm nhà thiên văn cho triều đình nhà Chu. Một đêm nọ, ông đang làm đồ thị các vì sao vì ông là nhà thiên văn mà. Ông thấy một làn hơi tím bốc lên từ hướng đông. Nó xuyên qua bầu trời, ông để ý thấy nó đang di chuyến dần về hướng Tây. "Một hiền nhân đang du hành về hướng tây và không lâu sau sẽ đến biên thành tại Hàm Cốc Quan." Văn Thủy tự nhủ: "Ta muốn đi đến đó gặp vị nầy." Sáng hôm sau, Văn Thủy xin phép rời đài thiên văn ở triều đình và xin được bổ nhiệm đến đài thiên văn ở Hàm Cốc Quan. Khi đến chỗ mới, ông gọi thuộc hạ Từ Giáp lại nói: "Nếu ngươi thấy người nào khác thường vào thị trấn thì cho ta biết ngay." Quý vị phải biết rằng thời xưa, thiên văn hơi thần bí. Người ta tin vào lực lượng chuyển động của thiên thể. Ngày nay chúng ta quan sát bằng kính viển vọng. Nhưng thời xưa, những người này phải dùng mắt trí huệ mới thấy được. Dĩ nhiên họ có thể quan sát ngôi sao, mặt trăng và sự chuyển động của chúng trên bầu trời, nhưng họ cũng phải dùng những phương pháp khác để tính toán sự kiện thiên thể ảnh hưởng tới Địa Cầu. Họ cần có nhiều tài đức hơn, câu thông bên trong nhiều hơn thì mới biết được những điều này, không phải chỉ quan sát sự chuyển động trên bầu trời mà thôi. Quý vị thấy đó, vì thế ông chỉ mới thấy một làn hơi màu tím bay lên từ hướng đông và bay ngang qua bầu trời. Một làn hơi mà thôi, biết không? Thậm chí không phải ngôi sao hay cái gì đặc biệt mà ông đã biết là có một người đặc biệt từ phương đông, thậm chí đang đi đâu nữa. Tin nổi không? Bởi vì từ nhỏ, ông đã trưởng dưỡng đạo đức. Có nhớ trước đó không? Ông rất thích đọc giáo lý của các vị thánh hiền. Thời đó họ không gọi là "Đạo", nhưng bởi vì bây giờ chúng ta có đạo giáo rồi cho nên họ gọi như vậy. Ông rất thích đọc giáo lý về Đạo, nhưng có lẽ thời đó họ gọi là Đạo pháp, Giáo lý, Chân Lý, Phật tử... bất cứ gì. Bởi vì Đạo có nghĩa là con đường, con đường lên Thiên Đàng. Cho nên cái gì cũng có thể gọi là Đạo, thậm chí giáo lý Phật, giáo lý thánh thiện của bất cứ hiền nhân nào mình cũng có thể gọi là Đạo. Do đó ông không có kính viển vọng. Thời xưa, chúng ta không có kính viển vọng. Gần đây mới có thôi. Cho nên thời xưa, nhà thiên văn là một người phi phàm. Là người biết các vì sao mà không cần phải nhìn. Là người biết sự chuyển động của lực lượng vô hình mà không cần nhìn thấy, là người biết trước sự việc sẽ xảy ra. Đó là sự kết hợp thiên văn và tử vi cùng trí huệ nội tại tới mức độ nào đó. Mặc dù lúc đó ông chưa gặp Lão Tử, nhưng ông đã có một chút phẩm chất câu thông nội tại. Mọi quốc gia đều có những người có lẽ chưa tu Pháp Môn Quán Âm, nhưng họ đã có một chút phẩm chất, và tài năng còn sót lại từ kiếp trước mà họ đã tu hành hay gì đó mà họ đã học từ những vị thầy khác, cách tiên đoán tương lai, cách thấy trước sự kiện và cách phòng ngừa một vài rủi ro nhỏ, v.v. qua việc điều tiết phong thủy nầy kia. Ông là một trong những vị đó. Thành ra ông giỏi lắm vì ông rất đạo đức, do đó mà ông rất giỏi về chim tinh. Bởi vậy nhà vua mới bổ nhiệm ông làm nhà thiên văn cho triều đình. Không phải chỉ là nhà thiên văn cho vua mà cho cả triều đình. Dù vậy tâm ông khát khao Đạo. Tôi nói ông bỏ cả địa vị uy tín này để đi đến một vùng nhỏ nào đó ở thị trấn biên giới để canh gác một trạm ngoài biên giới hầu gặp được vị thầy phi phàm mà ông đã tiên đoán qua tài thiên văn phi thường của ông. Thế là ông đi, thậm chí còn bảo với một thuộc hạ: "Nếu có ai trông đặc biệt, trông phi phàm thì cho ta biết ngay." Đấy cũng là may rủi thôi. Biết không? Làm sao thấy được người nào là phi phàm? Có lẽ họ trông giống như những người khác. Nhưng có thể được, bởi vì thật tình mà nói, cho dù Văn Thủy biết ai là ai, nhưng ông không thể đứng trước cửa 24 tiếng một ngày tìm kiếm người phi phàm đó. Do đó có lẽ thuộc hạ của ông là một trong những người gọi là đồng nghiệp, cũng giỏi về lãnh vực thiên văn và chiêm tinh. Ông bảo thuộc hạ: "Nếu có ai trông đặc biệt, phi thường thì cho ta biết nhé." Nếu không, thì ông đã không nhờ đến, không phải ai cũng tin được. Cho nên thuộc hạ này chắc phải là người đáng tin cậy, người làm việc kề cận với ông về thiên văn và chiêm tinh, có lẽ là một trong những đệ tử thân cận có thể thấy được hào quang. Người phi phàm mình làm sao nhận ra một người phi phàm, trừ khi quý vị được huấn luyện thuật thấy hào quang của người khác hoặc có lẽ được thiên phú. Có người được thiên phú do tu hành từ tiền kiếp, cho nên họ có thể nhìn thấy hào quang của người khác và họ biết: "A, người nầy có hào quang sáng, là người tốt. Người đó trong như màu cà phê. Ổ, không thể kinh doanh được với người nầy. Còn người nầy màu đen như than, dẹp cho rồi". Khi tôi đến một khách sạn kia. Có một người được gọi là "người đậu xe". Người đi trông xe phải không? Khi đi vô, mình đưa chìa khóa xe cho họ, rồi họ đậu xe cho mình rồi khi trở ra, họ chạy xe ra cho mình đó? Thậm chí một người giữ xe đã thấy hào quang của tôi. Anh ta nói: "Hàng ngàn, hàng trăm ngàn người đi qua mới thấy có một người như vậy." Anh ta nói với tôi như vậy. Thế nên làm sao mà không thấy được. Tôi hỏi: "Sao anh biết tôi khác?" Anh ta nói: "Không, cái này khác lắm. Cái này không thấy đâu, không thường xuyên thấy đâu." Anh ta còn quỳ trước mặt tôi nữa chứ, trước cả khách sạn. Đó là một khách sạn lớn, khách sạn quốc tế. Tôi mắc cở quá nên nói: "Đứng lên! Đứng lên mau đi." Anh ta rất cao, anh ta không muốn từ trên mây nói xuống. Nên anh ta quỳ xuống để được đối mặt với tôi. Có khi cảnh sát cũng biết, đôi khi cảnh sát nhờ những người đặc biệt biết đọc hào quang để coi người đó tốt hay xấu. Bởi vì đôi khi họ sợ họ buộc tội lầm người, mặc dù tất cả bằng chứng đều cho thấy người đó là tội phạm, nhưng đôi khi không phải như vậy. Luôn xét xử theo bằng chứng chưa chắc đã đúng, phải không? Cho nên đôi khi cảnh sát thuê những người đặc biệt có khả năng siêu linh, những người đặc biệt biết đọc hào quang hoặc đọc được tâm của người khác. Họ gọi là "Tha tâm thông". Có nghĩa là đọc được ý nghĩ của người khác để chắc chắn rằng họ không buộc tội lầm người. Ước gì tất cả cảnh sát đều thuê những kiểu người nầy để tất cả những người bị kết tội sẽ được xét xử đàng hoàng, không chỉ những người vô tội. Ước gì mọi người đều biết đọc hào quang, lúc đó chúng ta sẽ biết ai là ai, lúc đó mọi người sẽ chỉ theo hào quang thôi thì sẽ không có chuyện theo lầm thầy. Phải không? Nhưng đây là khả năng hiếm có. Tôi ngạc nhiên về anh chàng đó, người làm nghề giữ xe biết đọc hào quang. Tôi có gặp những người như vậy. Thành ra, vị thuộc hạ này không phải là người tầm thường. Bởi vì đây là sứ mạng rất quan trọng mà viên quan này, Văn Thủy đã giao cho thuộc hạ. Đây không phải là công việc bình thường, như là đi ra mua khay cho mấy người ở đây. Bởi vì Văn Thủy đã từ bỏ địa vị uy tín nhất của mình, làm nhà thiên văn riêng cho vua để đi tới tận biên giới quốc gia. Quý vị biết đó là đâu rồi, phải không? Biên thành không phải lúc nào cũng tráng lệ, đâu thú vị gì, vậy mà ông đã buông bỏ tất cả, rời khỏi gia đình và địa vị để đi đến biên thành đó, chỉ để gặp vị thầy đặc biệt đó, bởi vì ông biết đây không phải người thường. Ông tự nhủ hoặc có lẽ nói với thuộc hạ: "Một hiền nhân đang du hành về hướng tây và không bao lâu sẽ đến biên thành tại Hàm Cốc Quan cho nên ta muốn đi đến đó gặp Ngài." Thành thử việc này đối với ông rất quan trọng. Ông biết đây là vị thánh mà cả đời mới có một lần, không phải một người thường mà ông muốn đến đó để cà kê dê ngỗng. Thành ra nếu ông giao cho thuộc hạ của ông trông chờ người đó thì viên thuộc hạ này cũng không phải là người tầm thường, bởi vì đây là sứ mệnh quá quan trọng, biết không? Dĩ nhiên, là viên chức ở trạm biên thành nầy, ông cũng bận rộn. Không thể nào đứng ở đó liên tục, trông ngóng hoài hay thậm chí nhìn lên trời để xem khói hoặc xem chuyển động của sao, bây giờ không thể nhìn hoài được. Bởi vì trước đó ở kinh thành thì đây là việc của ông, có thể làm như vậy cả ngày được, còn bây giờ thì không được và nhứt là mới được bổ nhiệm nữa. Ông có rất nhiều việc phải làm, phải xem nhiều giấy tờ, phải làm quen với mọi người. Phải làm chung với những nhân viên mới, phải nói chuyện với dân trong thị trấn này nọ, ông phải làm nhiều việc, nhất là công việc văn phòng, cho nên ông không thể ngồi đó hoài để mà theo dõi các vì sao, hoặc xem khi nào vị thánh hiền kia đến hay gì đó, hiểu không? Đây cũng là vấn đề của nhiều người chúng ta: Dù có lẽ chúng ta có khả năng này, nhưng quý vị thấy đó, nếu bận rộn, mình cũng không có dịp dùng đến. Văn Thủy là người rất phi phàm, và thuộc hạ của ông cũng phi phàm, có lẽ cũng là bạn thân nhất của ông hay thị giả của ông, thị giả riêng. Bây giờ, không lâu sau khi ông ổn định ở biên thành này, thì Lão Tử cưỡi chú trâu xanh đến. Cho nên Từ Giáp vội vàng đến nói với thượng cấp: "Một người lạ đang cưỡi trâu xanh đến thị trấn chúng ta." Nghe vậy, Văn Thủy vui mừng khôn tả, ông biết chính là vị nầy đây. Quý vị tin nổi không? Thời xưa cưỡi trâu là chuyện rất bình thường, không có gì lạ lẩm cả, bởi vì không có ngựa thì có lừa hoặc trâu. Đó là phương tiện để đi lại vào thời đó, thay vì phải đi bộ hoài, bởi vì có lẽ ông cũng có hành lý, dĩ nhiên rồi. Văn Thủy rất vui mừng, ông ra cổng thành, cúi chào Lão Tử rồi nói: "Hôm nay con thật vinh dự được gặp thánh hiền. Xin cho phép con nghênh đón Ngài trong thị trấn này." Người nầy vô cùng tinh thông về kiến thức ở cảnh giới A-tu-la. Ít ra ông ta cũng đang ở cấp đó. Hiểu không? Lão Từ cảm ơn Văn Thủy trước sự tiếp đón và lòng hiếu khách khiêm tốn của ông. Ngài nói với Văn Thủy: "Tôi chỉ là một ông lão chuyển từ nhà cũ ở phía đông sang nhà mới ở phía tây." Nhưng Văn Thủy nài nỉ: "Kính Ngài, khi con thấy làn hơi màu tím trên trời di chuyển từ đông sang tây, con biết rằng một vị thầy vĩ đại sẽ đến thị trấn nầy. Xin Ngài ở lại dạy Đạo cho con." Nghe vậy Lão Tử nói: "Sao ngươi nghĩ ta là người mà ngươi đang tìm?" Đa số thánh nhân họ không nghĩ họ là thánh, với lại họ khiêm nhường. Họ thật sự không biết. Có lẽ sau nầy khi họ có nhiều đệ tử rồi, Thiên đàng mới cho họ biết để khẳng định. Nếu họ hỏi Thiên đàng: "Tôi có thật là thầy không? Tôi làm như vậy có đúng không? Tôi đây như vậy có đúng không?" Thì lúc đó Thiên đàng sẽ cho họ dấu hiệu hoặc nói với họ rằng: "Phải, ngươi là như thế, cứ tiếp tục làm vậy", để bảo đảm với vị thánh đó rằng: "Đúng, ngươi làm đúng." Bằng không, họ không biết nhiều về bản thân. Có lẽ họ khai ngộ, họ biết điều này điều kia, nhưng họ không nghĩ họ có khả năng làm Minh Sư nào cả. Cho nên Lão Tử hỏi người kia như vậy. Rồi ông ta tiếp tục giải thích cho Lão Tử nghe: "Sau khi tính toán một lúc, con kết luận rằng vị đó sẽ đến đây tháng này." Ông còn biết Minh Sư sẽ đến vào lúc nào. "Tối qua con cũng thấy rồng rắn bay lượn trên Hàm Cốc Quan. Tất cả những dấu hiệu này cho con biết vị đại thánh này hôm nay sẽ đến." Ông ta đúng là chuyên nghiệp. Thảo nào nhà vua tôn kính yêu cầu ông làm nhà thiên văn và chiêm tinh riêng cho vua. Lão Tử, sau khi nghe xong, biết không nên xem thường người này. Ông ta đã biết tất cả mọi thứ. Thế là Lão Tử mỉm cười nói: “Ta có nghe đồn ngươi có khả năng giải điềm và bói toán.” Bói toán có nghĩa là tiên đoán tương lai. “Ngươi có khả năng hiểu Đạo và giúp người khác trên con đường Đạo.” Thế là một lần nữa Văn Thủy lại nói: "Cho con xin được vinh dự biết quý danh Ngài?" Ông ta thậm chí không biết tên của vị đó, nhưng biết Ngài sẽ đến tháng nầy. Lão Tử đáp: “Ta có nhiều tên gọi vì ta đã xuất hiện trong nhiều kiếp. Ta đã từng dạy Hoàng Đế, nghĩa là một trong những vị vua lâu đời nhất ở Trung Quốc: "Cũng như các vị vua Nghiêu, Thuấn và Vũ”. Đây là những vị thánh vương của Trung Quốc, những vị vua rất nổi tiếng về đạo đức chính trực và sự trị vì giỏi giang. Những người rất tốt. Dĩ nhiên là bây giờ chúng ta biết tại sao rồi. Lão Tử đã từng dạy họ vào những thời đại đó. “Trong kiếp này ta tên là Lý Nhĩ.” Tối hôm đó, Văn Thủy mở đại tiệc vinh danh Lão Tử. Sau bữa tiệc, ông phủ phục trước vị thánh hiền đó và chính thức xin được nhận làm đệ tử. Lão Tử ở lại biên thành 100 ngày và dạy Văn Thủy về thuật Đạo. Tới ngày thầy đi, Văn Thủy tuyên bố: "Con xin tháp tùng Ngài trên cuộc hành trình và phục vụ Ngài." Nghe xong, Lão Tử từ chối, nói rằng: "Mặc dù rể của ngươi rất sâu, người vẫn chưa sẵn sàng trèo lên mây cùng ta hoặc bay khắp bốn phương trời." Ý ngài nói là gì? Vượt ngoài Tam Giới. Có nghĩa là ông ta chưa tới đẳng cấp để mà tháp tùng Lão Tử. Đi du hành chỉ gây cực khổ cho thầy mà thôi. Nghe quen quá, bởi vậy tôi biết. Có thiện chí, nhưng đẳng cấp thấp. Lão Tư tiếp tục nói với Văn Thủy: "Người hiểu nhiều về giáo lý, nhưng vẫn còn thiếu kinh nghiệm. Khi nào ngươi có thể hợp nhất với Đạo, thì hãy đến Tứ Xuyên tìm một chú trâu xanh. Trâu sẽ chỉ đường cho người nên tìm ta ở đâu." Đây là chú trâu đặc biệt! Sau đó, Lão Tử đọc cho học trò của Ngài viết quyển sách 5.000 chữ. Sách này là Đạo Đức Kinh. Văn Thủy bèn xây một cái tháp ở Hàm Cốc Quan và tinh tấn tu hành theo những gì ông đã học từ Lão Tử. Một hôm, ông nhìn lên bầu trời trông thấy một áng mây nhiều màu bao quanh sao Bắc Đẩu. Khi những chùm sao sáng chiếu qua cửa sổ thiền của Văn Thủy, chiếu trên người ông, ông biết rằng đã đến lúc ông nên du hành đến Tứ Xuyên tìm thầy của mình. Khi Văn Thủy đến Tứ Xuyên, ông bắt đầu hỏi mọi người rằng có ai nhìn thấy trâu xanh không. Người dân ở Tứ Xuyên nói với nhau: "Ông nầy điên rồi. Có ai thấy trâu màu xanh bao giờ?" Đó là màu hào quang của chú trâu. Đây là một chú trâu đặc biệt, vì đó là một chúng sinh đặc biệt đầu thai xuống làm trâu cho Lão Từ cưỡi. Và chú trâu đó, bởi vì Lão Tử cưỡi mỗi ngày nên dĩ nhiên chú trâu cũng được thăng hoa tâm linh. Cho nên chú phát ra loại ánh sáng xanh nầy. Hiểu không? Đôi khi quý vị thấy vài vị Minh Sư cũng có ánh sáng xanh tỏa ra từ mắt. Như Vivekananda khi ở Hoa Kỳ, có người thấy ngài phát ra hào quang màu xanh. Có một em nhỏ sắp chết đuối, em thấy Vivekananda đến trong ánh sáng màu xanh và cứu em ra khỏi nước. Sau này em kể cho vài người nghe. Màu xanh là một trong những màu của minh sư, ánh sáng xanh từ mắt hoặc từ hào quang. Nhưng không phải là màu duy nhất, có người chỉ thấy màu trắng, có người chỉ thấy màu vàng kim, có người chỉ thấy màu hồng, có người chỉ thấy màu xanh, có người chỉ thấy màu tím. Thật ra, minh sư có đủ mọi màu. Tùy vào đẳng cấp mà họ thấy màu gì. Nào, bây giờ xanh là màu duy nhất mà họ thấy từ chú trâu. Có lẽ chú trâu đó chỉ có ánh sáng màu đó xung quanh. Có nhớ Krishna. Họ nói Krishna có màu xanh. Không phải vậy, da Ngài không phải màu xanh. Có lẽ người Ấn Độ có da hơi ngâm ngâm. Nhưng người Ấn Độ màu xanh thì quý vị không kiếm ra đâu. Dù vậy, ông không nản lòng. Ông không bỏ cuộc. Ông tiếp tục đi hết chỗ này đến chỗ khác, tiếp tục tìm kiếm. Rồi một hôm khi đang nghỉ chân bên lề đường, ông thấy một em nhỏ chăn trâu đang đi xuống đồi, dắt một chú trâu xanh. Thế là ông chạy đến hỏi cậu bé: "Cháu có thể cho ta biết ai là chủ nhân của chú trâu này không?" Cậu bé chăn trâu đáp: "Bà chủ cháu có người con thích chú trâu này lắm. Hai ngày trước trâu bỏ chạy mất. Từ hôm đó cậu chủ khóc hoài không thôi." Văn Thủy nghe vậy rất đỗi vui mừng, nói với cậu bé: "Vậy khi cháu gặp cậu chủ, cháu nhớ nói giùm là Văn Thủy đã đến." Một thiếu chủ, không phải một cụ già. Tôi đoán Lão Tử đã qua đời vào lúc đó. Bây giờ Ngài tái sinh thành một cậu bé và Ngài cũng có một chú trâu xanh khác. Lão Tử tiên đoán rằng sau khi qua đời, Ngài sẽ tái sinh ở đó. Quý vị nhớ khi ông ta gặp Lão Tử, Ngài đã già rồi. Có lẽ sau đó Ngài qua đời và bây giờ trở thành một cậu bé. Nhưng Văn Thủy biết đó là Sư Phụ của mình. Ông nói: "Khi nào cháu gặp thiếu chủ" nghĩa là cậu bé đó, xin nói là tôi đã đến rồi. Văn Thủy đã đến rồi ". Nghe vậy, cậu bé chăn trâu đem trâu về cho chủ và nói: "Văn Thủy có nhờ nhắn lại với cậu chủ rằng ông đã đến rồi." Cậu bé nhảy lên, vỗ tay và nói: "Cuối cùng ông ta đã đến. Mời ông ta vào ngay." Thậm chí cậu bé này cũng biết rồi. Kiểu thần kỳ này không ai tin nổi. Thế nên khi Văn Thủy bước vào dinh thự, cậu bé hóa thành Lão Tử. Hàng ngàn tia sáng màu vàng kim phát ra từ thân thể Ngài và hào quang tím cực sáng quanh đầu Ngài. Một mái vòm từ dưới đất hiện lên và bên trong mái đình là một tòa sen. Có lẽ không ai thấy như vậy đâu. Có lẽ chỉ có đệ tử của Ngài, Văn Thủy mới thấy. Vì ông ta thấy hình ảnh đó trong một cảnh giới khác. Không thấy cậu bé ở đó nữa mà thấy Chân Tướng của thầy mình. Cho nên ông lão đó, có nghĩa là Lão Tử, đi đến ghế ngồi xuống và nói với Văn Thủy: "Lúc ta chia tay con, con chỉ là tín đồ mới đến học." Con chỉ là tín đồ mới, nhưng khao khát tu hành. Hôm nay ta thấy một đấng nam nhi có khí phách của một người bất tử." Người đã vượt lên khỏi sinh tử, không có nghĩa là ông ta sẽ không chết. Nếu không, bây giờ mình đã tìm thấy ông rồi, tôi khỏi phải xuống đây. Nếu không, Lão Tử đã khỏi phải tái sinh thành một cậu bé khác. Bất tử ở đây có nghĩa là mình không chết nữa. Mình vượt lên khỏi luân hồi sinh tử và nghiệp quả. Có người không hiểu: "Thôi chúng ta đi tìm linh đơn trên Hy Mã Lạp Sơn gì đó rồi sẽ thành bất tử." Từ vô thủy, vua chúa hay đi đây đó và bảo mọi người: "Hãy đi khắp nơi tìm linh đơn bất tử cho ta." Làm sao được? Cho dù quý vị có sống lâu, răng cũng sẽ rụng, cái gì cũng khác. Đâu thế nào giải phẫu thẩm mỹ hoài. Ngài nói tiếp: "Linh hồn con đã tu hành đến gian phòng màu tím của Thiên Cung. Con đã hoà nhập với sao Bắc Đẩu và tên con đã được cho vào danh sách thần bất tử." Khi Lão Tử nói xong, căn phòng bỗng nhiên đầy những vị thần bất tử. Văn Thuỷ bước lên một cụm mây và được những thị giả riêng của các giáo chủ Thiên Đàng cao nhất hộ tống vào cõi trời. À, ông qua đời, phải không? Được, như vậy thì hay quá! Ở đây họ ghi chú: Văn Thủy cũng có tên là Văn Tổ, Văn Tử, sống vào cuối đời Nhà Chu. Đó là vào khoảng thế kỷ 11 trước Công Nguyên. Ông nổi tiếng là đệ tử đầu tiên của Lão Tử và là tác giả của bộ kinh Đạo giáo "Văn Thủy Chân Kinh".
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |