Ngày xưa, vua Ương Già cai trị vương quốc Ương Già, và vua Ma Kiệt Dà cai trị Vương quốc Ma Kiệt Dà. Hai vị vua tranh đấu liên miên với nhau. Đôi khi vua Ương Già thắng, và lúc khác vua Ma Kiệt Dà thắng. Bây giờ, tại một trận chiến, vua Ma Kiệt Dà bị vua Ương Già đánh bại. Ông leo lên ngựa trốn chạy khỏi chiến trường rồi bị quân sĩ của vua Ương Già rượt đuổi. Hai vương quốc được phân ranh giới bởi sông kiêm Ba, không phải Hằng Hà. Dưới dòng sông là một vương quốc rắn, do một xà vương cai trị tên là Kampaya. Vua Ma Kiệt Dà đến dòng sông này và thấy sông bị ngập lụt, không băng qua được. Ông quyết định tốt hơn là bị chết chìm trong dòng sông này hơn là chết trong tay kẻ thù. Cho nên ông nhảy vào dòng nước đang chảy xiết cùng với con ngựa. Dưới đáy sông, xà vương có xây một mái đình bằng ngọc. Và ông ngồi trên ngai uống trà giửa quần thần của ông. Vua Ma Kiệt Dà bị dòng nước kéo xuống và rơi ngay vào giữa mái đình. Xà vương khâm phục sắc thái vương giả của Ma Kiệt Dà và cảm thấy thích ông. Đứng lên từ ngai vàng, xà vương bảo nhà vua ngồi lên đó và hỏi ông làm sao rơi vào dòng sông. Vua Ma Kiệt Dà kể với xà vương câu chuyện buồn bị thua trận. Xà vương nói với ông: “Thưa đại vương, đừng lo gì cả. Tôi sẽ giúp ngài làm vua cả hai vương quốc.” Suốt bẩy ngày, Vua Ma Kiệt Dà lưu lại trong vương quốc rắn, và được tiếp đón vô cùng trọng thể. Sang ngày thứ bẩy, vua và xà vương rời con sông để trở lại nhân gian. Rồi, nhờ quyền năng pháp thuật của xà vương giúp đỡ, vua Ma Kiệt Dà rượt đuổi chiến đấu và giết chết vua Ương Già. Rồi ông lên làm vua của hai vương quốc, và từ đó trở đi, sự liên kết giữa đức vua và xà vương thắt chặt chẻ thân tình. Hàng năm, vua Ma Kiệt Dà thiết lập một mái đình bằng châu báu bên bờ sông Kiếm Ba và tổ chức lễ dâng nạp phẩm vật cho xà vương. Tháp tùng bởi các quần thần, xà vương ra khỏi sông lên đó nhận lễ vật và dân chúng Ma Kiệt Dà được dịp chứng kiến sư huy hoàng của xà vương. Đến tuổi già, xà vương qua đời, và một vị vua khác lên cai trị vương quốc rắn. Vị vua này vừa đạo đức lại sống khắc khổ và không mấy lưu tâm đến cảnh trí rực rỡ, lộng lẫy của triều đình rắn. Không lâu sau, ông nhàm chán cuộc sống phóng túng và thiếu kỷ luật của loài rắn và suy nghĩ: “Ta nên rời cung điện này và lên nhân gian để thực hiện các nguyện ước thiêng liêng thánh thiện của mình.” Đây giả sử là Phật Thích Ca Mâu Ni, không phải con rắn kia, con rắn thứ hai này. Vì vậy, trong những ngày chay tịnh, ông rời khỏi sông và tới nằm trên một tổ kiến cạnh con đường lớn không xa một ngôi làng biên cương. Nhà vua tự phát nguyện: “Nếu có ai thích lấy da của ta, ta sẽ không chống đối, ta sẽ không kháng cự. Nếu có ai muốn biến ta thành con rắn nhảy múa, ta sẽ cho phép họ làm vậy.” Nhiều người đi qua gần con đường để lễ bái xà vương và dâng cúng hương trầm trước Xà Vương. Dân chúng trong làng biên cương biết đó là vua rắn có quyền uy rất lớn cho nên xây một ngôi đền trên tổ kiến nơi ông nằm. Ông không thoát được. Ông bỏ trốn khỏi một cung điện và gặp một cái khác. Mỗi nữa tháng vào ngày mười bốn và rằm, xà vương thực hành lời nguyền và giữ chay tịnh. Và mỗi tháng ngày mồng một, nhà vua trở về cung điện. Rồi thời gian cứ thế trôi qua. Ngày nọ, rắn hoàng hậu Su Ma Na nói với nhà vua, chồng bà: “Thưa bệ hạ, vào những ngày chay tịnh, bệ hạ lên cõi nhân gian để thực hành lời nguyện. Nhưng thế giới trên đó tràn đầy nguy hiểm. Giả sử có chuyện không may xảy ra cho bệ hạ, làm sao thần thiếp biết được?” Xà vương đưa hoàng hậu đến hồ nước may mắn, bảo rằng: “Nếu có ai gây thương tích cho trẫm, nước hồ này sẽ trở thành bùn. Nếu cướp bắt trẫm mang đi, nước hồ sẽ khô cạn. Nếu người dụ rắn bắt trẫm, nước hồ sẽ biến thành màu huyết đỏ.” Sau khi giải thích ba dấu hiệu cho hoàng hậu, xà vương rời cung điện dưới sông Kiếm Ba và trở lại tổ Kiến. Thân hình của vua trông giống cuộn dây vàng ròng. Và lúc vừa nằm ở đó, vẩy của ngài lóng lánh dưới tia nắng mặt trời. Bấy giờ, một thanh niên bà la môn từ thành BA La Nại đến Tắc Xi La học với một danh sư trên thế giới. Từ vị này, chàng học được bùa phép có thể sai khiến mọi sinh vật. Trên đường về nhà, anh đi ngang qua ngôi làng biên cương và nhìn thấy xà vương nằm trên tổ kiến. Anh ta thầm nghĩ: “Ta sẽ bắt con rắn này và luyện tập rắn nhảy múa, rồi ta sẽ mang nó trình diễn khắp xóm làng, phố phường và sẽ kiếm được nhiều tiền.’’ Anh lấy ra vài ngọn cỏ yêu thuật và đọc bùa chú, anh tiến đến gần xà vương. Do ảnh hưởng của pháp thuật xà vương ngẩng đầu lên, nhìn người bà la môn dụ rắn, nhà vua thầm nghĩ: “Ta có thể dễ dàng dùng nọc độc giết tên này, nhưng nếu làm vậy, ta sẽ vi phạm lời nguyện của ta.” Do đó, xà vương hạ thấp đầu và nhắm mắt lại. Người Ba La ôn đến gần cầm đuôi và bắt xà vương bỏ vào trong giỏ rạ. Rồi anh ta mang chiếc giỏ đến làng biên cương và bắt xà vương nhảy múa trước một đám đông người. Mọi người rất thích thú xem rắn biểu diễn và họ ban thưởng người bà là môn 1000 đồng tiền bạc với nhiều phẩm vật trị giá 1000 đồng khác. Người bà là môn dự định phóng thích xà vương sau khi kiếm được 1000 đồng tiền bạc. Nhưng vì thấy kiếm tiền quá dễ, anh ta sanh lòng tham, cho nên muốn giữ con rắn và kiếm thêm tiền trong tương lai. Bây giờ, anh ta nghĩ sẽ kiếm thêm tiền nếu mang con rắn đi biểu diễn trước vua chúa và triều đình, nghĩa là các quan viên của vua. Người bà là môn mua một chiếc xe cho tất cả tài sản của anh và một toa xe khác để anh ngồi. Tháp tùng bởi số đông dân chúng, anh đi qua nhiều thôn xóm phố phường để trình diễn rắn nhảy múa. Anh quyết định cuối cùng mang rắn biểu diễn trước vua Út Ga Xê Na của xứ Ba La Nại. Anh quyết định sau khi biểu diễn cho vua xem, rồi anh sẽ thả con rắn tự do. Người bà là môn thường bắt nhái làm thức ăn cho xà vương nhưng xà vương từ chối không ăn. Rồi người bà la môn cố gắng dụ con rắn với mật ông và bắp rang nhưng vua rắn cũng không ăn gì cả. Xà vương nghỉ: “Nếu ta dùng bất cứ thức ăn gì ta sẽ bị nhốt mãi trong giỏ này cho đến chết.” Một tháng sau, người bà la môn đến thành Ba La Nại. Anh ta trình diễn rắn nhảy múa tại các làng bên ngoài cổng thành và thu được khá nhiều tiền. Nhà vua nghe tin về con rắn lạ biết khiêu vũ, cho nên mời vị bà la môn đến và ra lệnh sắp xếp một cuộc trình diễn. Khắp kinh thành người ta đánh trống để thông báo hôm sau một con rắn sẽ biểu diễn nhảy múa tại nơi sân cung điện và dân chúng trong thành nên tới dự xem. Sân cung điện được trang hoàng và người bà la môn được mời đến trước sự hiện diện của vua. Anh ta mang xà vương trong cái giỏ bằng vàng bạc, trải một tấm thảm màu xuống đất rồi đặt cái giỏ lên đó. Nhà vua ngồi trên ngai vàng giữa đám đông dân chúng. Người bà la môn lấy xà vương ra khỏi giỏ và điều khiển rắn nhảy múa. Nhip điệu lui tới của con rắn trông thật ngoạn mục, khiến khán giả không thể nào đứng yên. Hàng ngàn chiếc khăn tay đưa lên vẫy trên không trung và một trận mưa châu báu rơi xuống quanh xà vương, người ta thật thích xem. Một tháng đã qua. Kể từ ngày xà vương bị bắt và suốt thời gian đó xà vương chưa ăn uống gì. Tại hoàng cung dưới sông Kiếm Ba, hoàng hậu Su Ma Na bắt đầu thắc mắc và lo lắng: “Đã hơn một tháng, phu quân thân yêu của ta chưa trở về. Có điều gì xảy ra cho người chăng?” Cho nên hoàng hậu ra nhìn nơi hồ may mắn và thấy nước đã biến thành màu huyết đỏ. Bây giờ bà biết rằng nhà vua đã bị người dụ rắn bắt đi. Hoàng hậu rời cung điện tìm lên cõi nhân gian, đến nơi tổ kiến. Bà nhìn thấy chổ vua rắn bị bắt nên khóc nức nở. Rồi hoàng hậu đi đến ngôi làng biên cương và hay tin chúa công của bà đã bị đưa về thành Ba La Nại. Ở Ấn Độ, người ta kính trọng chồng và gọi chàng là “ Chúa công,” như thế ông là chúa của bà, chủ nhân của bà. Vì vậy, Chúa công nghĩa là chồng tôi. Người Ấn Độ đối với nhau như vậy. Hoàng hậu đến kinh thành và đi thẳng đến sân cung điện, tại đây bà thấy xà vương đang nhẩy múa làm trò vui chổ đám đông. Bà đứng lơ lửng trên không khóc than thảm thiết. Xà vương đang khiêu vũ, nhìn lên thấy hoàng hậu, cảm thấy hổ thẹn và bò vào giỏ ẩn trốn. Khôi hài chưa, tại sao? Tự ông ta chuốc phiền phức, phải không? Có phải không? Ông ta muốn làm anh hùng, phải không? Một Bồ Tát, một Xà thánh vương. Vậy tại sao ông ta phải thẹn thùng về sứ mạng ông cố gắng hoàn thành? Nhà vua thấy con rắn ngưng múa, bèn lên tiếng: “Tại sao vậy?” Nhìn lên, vua cũng thấy hoàng hậu rắn quanh quẩn trên không. Kinh ngạc trước cảnh tượng đó, ngài hỏi: “Ngươi là ai mà rực rỡ như ánh chớp, và chẳng khác gì ngôi sao sáng? Phải chăng ngươi là nữ thần, bởi ta thấy ngươi không phải là người?” Rắn hoàng hậu trả lời: “Tâu đại vương, tôi không là người hay nữ thần. Tôi là rắn hoàng hậu đến đây với mục đích lớn.” “Ngươi đang khóc và có vẻ đầy sự giận dữ. Hãy nói cho ta biết tại sao hoàng hậu lại đến đây?” “Thưa bệ hạ, con rắn múa trước mặt ngài đã bị người ta bắt để thu lợi. Rắn là chồng của tôi, và tôi đến để xin cho chồng tôi được thả ra.” Nhà vua hỏi: “Làm sao một người ốm yếu này bắt được rắn có sức mạnh như vậy? Kể cho trẫm nghe, hoàng hậu, chuyện xảy ra thế nào?” “Tâu đại vương, con rắn này rất mạnh, có thể thiêu đốt kinh thành nầy ra tro bụi. Nhưng ông đã tự nạp mình cho người ta bắt vì muốn giữ trọn lời nguyện đã phát.” “Và làm sao người này bắt được ông?” “Vào ngày chay tịnh, vua rắn thường nằm bên đại lộ. Người dụ rắn đã bắt ông tại đó. Ông ta là vua của 16.000 con rắn đang sống dưới sông Kiếm Ba. Hãy giúp cho ông được tự do, thưa đại vương. Xin ngài mua lại sự tự do từ người này, bằng tiền vàng, 100 con bò và một ngôi làng. Xin làm việc phúc đức này, thưa đại vương.” Nhà vua bằng lòng cho xà vương được trả tự do, và quay sang người bà la môn, vua nói với anh ta: “Trẫm sẽ mua sự phóng thích cho vua rắn. Trẫm sẽ ban cho ngươi châu báu, hoa tai và 100 đồng tiền vàng. Ta sẽ ban cho ngươi một chiếc ngai có nệm gối rất đẹp, ngoài 100 con bò, hai người vợ cùng tuổi với ngươi, cùng giai cấp.” Bây giờ, nhà vua ban cho người bà la môn nhiều vàng bạc quà tặng, và thê thiếp để mua sự tự do cho con rắn. Nhưng người bà la môn đáp lời vua: “Thần không muốn quà tặng, thưa hoàng thượng. Thần sẽ tự ý thả con rắn này.” Rồi anh ta lấy xà vương ra khỏi giỏ, xà vương bò vào trong một đóa hoa, và do trải qua nhiều khổ cực ông đã chịu đựng, rắn giờ đây có thể thoát kiếp lầm than bò sát và biến thành hình thể một thanh niên trẻ đẹp. Hoàng hậu rắn Su Ma Na từ không trung đi xuống và đứng bên cạnh chồng. Xà vương kính cẩn cúi đầu chào vua Út Ga Xê Na: “Thưa đại vương, tôi xin bày tỏ lòng tôn kính và hoàn toàn biết ơn ngài. Giờ đây một lần nữa tôi được trả tự do, tôi sẽ trở về cung điện của tôi.” “Cung điện ngài ở đâu, nầy xà vương? Tôi muốn viếng thăm. Xà vương đáp: “Ngài đã giúp tôi được tự do, thưa đại vương. Để trả ơn, tôi và thần dân nước tôi sẽ hết lòng phục vụ ngài. Hãy cùng tôi đến thăm xứ sở của tôi.” Tha thiết viếng thế giới rắn, vua Út Ga Xê Na truyền lệnh người đánh xe: “Hãy chuẩn bị sẵn sàng các cổ xe hoàng gia và buộc vào đó những con la. Hãy mang ra những con voi được trang hoàng rực rỡ vì chúng ta sẽ đi thăm vương quốc của loài rắn.” Trống lớn vang lên, trong nhỏ đánh lên, tù và được thổi, chiêng khánh khua vang. Khi vua Út Ga Xê Na và xà vương cùng với số đông quần thần theo sau rời khỏi kinh thành. Bằng quyền phép, xà vương dựng lên một bức thành làm bằng bảy loại quý kim quanh vương quốc dưới nước, và con đường dẫn tới cung điện được trang hoàng đẹp đẽ. Khi vua Út Ga Xê Na vào đến thế giới của loài rắn, ông trông thấy một quang cảnh vô cùng lộng lẫy. Lòng sông được bao bọc với cát vàng và xung quanh là san hô màu đỏ chói sáng. Mỗi góc đường có một tòa tháp bằng vàng. Cung điện của xà vương được che bóng mát bởi ngàn cây và chiếu ánh sáng vô hình rực rỡ. Khi vua Út Ga Xê Na bước vào hoàng cung, mùi thơm cửa hàng ngàn nước hoa khác nhau ngào ngạt không gian, đàn thụ cầm tấu lên những điệu nhạc êm dịu, và các thiếu nữ rắn múa hát trong đại điện. Nhà vua ngồi trên chiếc ngai vàng có lót gối lụa mềm, được ướp mùi hương gổ chiên đàn. Người ta mang đến cho vua thức ăn, thức uống tuyệt hảo. Suốt 7 ngày, vua Út Ga Xê Na và các triều thần được xà vương tiếp đãi niềm nở. Vô cùng ngạc nhiên trước sự giàu sang vô cùng của vương quốc loài rắn, đức vua nói với xà vương: “Thưa đại vương, tại sao ngài lại từ bỏ mọi sự huy hoàng ở đây để lên thế giới của tôi, và nằm nơi tổ kiến? Ngài có những lâu đài to lớn và hồ cá sâu rộng đẹp đẻ hơn ở trần thế. Nhiều loại cò, công, tu hú, và những hoa kèn mọc khắp nơi trong vương quốc của ngài. Mọi thứ ở đây đều tuyệt hảo hơn cõi nhân gian, thế mà ngài lại rời bỏ tất cả. Tại sao?” Xà vương đáp: “Tôi tìm đến thế giới của ngài, thưa đại vương, vì tôi rất muốn tái sinh làm người.” Cho nên con người quý hơn tất cả châu báu và cảnh trí đẹp đẻ nầy. Hãy nhớ đặc quyền của mình và tận dụng thời giờ của mình. Nhà vua tiếp tục hỏi ông: “Thưa xà vương, ngài có nhiều uy lực và quyền phép, xin cho tôi biết, điều gì ở nhân gian chúng tôi tốt hơn thế giới của ngài?” Xà vương đáp: “Sự tự chủ và giữ tâm thanh tịnh chỉ có thể thực hiện ở thế giới loài người.” Có nghe không? Đó là điều tôi đang mong cầu. Thế nên đức vua nói: "Tôi khâm phục trí huệ của ngài, đại xà vương. Tư tưởng của ngài thật cao quý. Tôi sẽ noi theo gương ngài và cố gắng làm các việc lành. Tôi đã ở đây khá lâu, và bây giờ đến lúc tôi xin cáo từ.” Xà vương chỉ vào những kho tàng châu báu của ông và nói với vua Út Ga Xê Na: “Hãy lấy những gì ngài ưa thích nơi đây. Tôi có vô số vàng, và những đống bạc cao bằng ngọn cây, hãy lấy về để xây tường bằng bạc, và nhà bằng vàng ở vương quốc ngài. Tôi có 5.000 rương chứa đầy ngọc trai và san hô, hãy lấy chúng về trải khắp mặt đất trong hoàng cung. Hãy xây các lâu dài lớn trong thành của ngài, thưa đại vương. Thành Ba La Nại sẽ giàu có. Hãy cai trị dân chúng ngài sáng suốt và nhân từ.” Vua Út Ga Xê Na chấp thuận nghe theo lời khuyên dặn của xà vương và từ biệt ông ta. Với hàng trăm cổ xe chở đầy châu báu. Giữa cảnh tưng bừng tiễn đưa, nhà vua rời vương quốc loài rắn để trở về thành Ba LA Nại. Có điều gì quý vị muốn biết không? Có điều gì không rõ ràng không? Mọi sự điều rõ ràng? Tôi nghĩ câu chuyện này chỉ để cho quý vị thấy rằng để thành Phật, một chúng sinh phải trải qua rất nhiều, rất nhiều huấn luyện, rất nhiều kỷ luật, rất nhiều bài học từ bi trước khi họ đến được giai đoạn toàn thiện và toàn mỷ bên trong mình. Để có được trí huệ viên mãn, kiến thức vẹn toàn về mọi việc, và hoàn toàn từ bi khoan hồng, và nhân ái, chúng ta phải trải qua nhiều thử thách và khảo nghiệm và tình nguyện hy sinh để trở thành một chúng sinh cao thượng như Đức Phật. Tôi chúc tất cả quý vị sẽ trở thành như vậy. The Reincarnations of Shakyamuni Buddha P2 5 May 16, 1996 Cambodia
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |