Hồi xưa, xưa, cách đây rất lâu, có một bà lão. Bà sống ẩn dật một mình ở Tây Tạng... gần Tây Tạng tại biên giới Trung quốc và tây Tạng, ở kế bên nhau. Không phải vì không ai muốn bà, bà rốt cuộc sống một mình. Bà đã có chồng và cũng sinh một bé trai. Nhưng cả hai đã đi, đâu? Thiên đàng! Lên thiên đàng. Bởi vậy bà ở một mình, đêm khuya đơn chiếc một mình. Bà có một mảnh đất nhỏ. Bà có thể sống nhờ mảnh đất nhỏ đó. Bà trồng ngũ cốc để có thể bán hầu kiếm sống. Vì bà đã trải qua nhiều gian khổ và nhiều thử thách và những hoàn cảnh rất khó khăn trong đời từ lúc còn trẻ, ba cảm thấy có lẽ nghiệp quả của bà quá nặng. Do đó bà luôn luôn rất thành tâm trong việc tìm một vị Minh Sư để tu hành, mặc dù bà không tìm được ai. Bà hỏi mọi người trong làng. Bà hỏi mọi người quen biết có cách nào để rửa nghiệp quả của bà. Cuối cùng một người hành hương trở về, cảm thấy tội nghiệp cho bà và chỉ bà một phương pháp. Ông nói trong chuyến hành hương có một vị lạt ma dạy ông một câu chú truyền xuống từ Quan Thế Âm Bồ Tát. Nếu bà niệm câu chú đó, nghiệp quả của bà sẽ chắc chắn được rửa sạch. Bà thật vui mừng. Câu chú đó là "Ôm Ma Ni Bát Mê Hồng." Bà thật vui mừng học được câu này. Bà là một phụ nữ nơi thôn quê. Bà không biết chữ và chưa bao giờ đi học. Hơn nữa, phái nữ không được phép đi học vào ngày xưa. Quý vị đều biết điều này. Trong xã hội ngày nay, nam giới vẫn được xem trọng hơn nữ giới. Nhưng hồi xưa, cách đây rất, rất lâu, còn hơn vậy nữa. Nếu một người nam và một người nữ có thể lực và trọng lượng bằng nhau được đặt lên cân, cán cân chắc chắn sẽ nghiêng về phía người nam đàn ông "trọng" hơn. Nam giới được xem trọng hơn. Quá nặng cho nên họ sẽ chìm xuống. Nam giới được xem "trọng" hơn nữ giới vì vậy bà không được đi học và không biết chữ. Đó là bà chỉ niệm bất cứ gì người khác dạy bà. Bởi vì bà không biết chữ và già nua. Cho nên rất khổ cho bà. Khi bà được dạy "Ôm Ma Ni Bát Mê Hồng," bà lập lại là "Ôm Ma Ni Bát Mê Khô," hoặc "Ôm Ma Ni Bát Mê gì đó,"v.v. Bà tiếp tục niệm như thế nầy. "ÔM Ma Ni Bát Mê Khô," Ôm Ma Ni Bát Mê Hồng Khô... Có lẽ đó là thổ ngữ ở đó, một ngoại ngữ. Khi tôi đến Formosa (Đài Loan) lần đầu tiên, tôi đi chùa và xem họ thiền hành. Họ bước thành vòng tròn và niệm "A Di Đà, A Di Đà, A Di Đà. Cuối cùng biến thành " Di Đa, Di Đa, Di Đa..." Quý vị đều biết. Bởi vì họ niệm rất nhanh hầu để lập lại nhiều lần hơn, họ cứ rút ngắn danh hiệu của Phật. Đó là "A Di Đà, A Di Đà Phật." Nhưng, niệm càng nhiều càng có nhiều công đức. Người ta nói như vậy. Cho nên họ rút ngắn lại và biến thành "Di Đà." Đó Là "A Di Đà Phật." Tiếng Formosa (Đài Loan.) hoặc tiếng Phúc kiến, nó được phát âm là "A Di Đà, A Di Đà, Di Đà." Rồi càng niệm nhanh, nó càng biến thành "Di Đà, Di Đà..." Khi tôi mới đến đó, tôi thậm chí không hiểu tiếng Quan Thoại, nói chi tiếng Formosa (Đài Loan.) Tôi thăm ngôi chùa nơi người ta nói tiếng Formosa (Đài Loan.) Và họ mời tôi ăn ở đó. Chúng tôi cùng uống trà và những điều đó. Khi chúng tôi ăn, vị sư hỏi tôi có ngon không. Lúc đó tôi chỉ biết "hô cha" có nghĩa là "uống trà" tiếng Quan thoại. Uống trà. Cho nên tôi nói: "Có, tôi có uống." Tôi chỉ nói một chữ. Tôi không thể nói gì khác. Rồi ông ta nói: "Không, không. Trà có ngon không?" Tôi nói: "Uống trà, tôi có, tôi có." Và tôi chỉ cho ông ly trà và uống vào để cho ông thấy. Tôi nói: "Tôi đã uống trà rồi." Ông ta lắc đầu, rồi chúng tôi đều cười. Chúng tôi cũng tốt thôi. Chắc phải tốt thôi bởi vì cả hai chúng tôi điều cười. Tôi tưởng ông ta hỏi tôi có muốn uống trà không. "Hô jla" nghĩa là "trà có ngon không?" Hô jia Bố" là tiếng Formosa (Đài Loan). Tôi chỉ hiểu phân nửa. Cho nên tôi nói: “Có, có, tôi có uống trà rồi." Ngôn ngữ rất vui. Bà lão chúng ta đang nói đến, bà niệm "Ôm Ma Ni Bát Mê Khô," phát âm sai, nhưng không sao bởi vì bà muốn theo nhịp của bà, và đồng thời cũng là cách để khích lệ chính mình. Thông thường đa số tín đồ phật giáo. Công giáo và những tôn giáo khác cò tràng hạt. Nhưng vì bà là phụ nữ miền quê chưa bao giờ đi đến nơi nào khác, và vị khách hành hương chỉ có một chuỗi hạt cho riêng ông, ông dù gì cũng không cho bà. Đã rất tử tế là ông dạy bà câu chú rồi. Quý vị vốn phải tự đi học lấy. Giống như quý vị phải tự đi thọ Tâm ấn, không ai khác có thể lấy chỗ của quý vị. Cho nên bà không có tràng hạt để niệm chú nên bà dùng đậu. Bất kể đó là đậu nành hay đậu đen đều là đậu cả. Cho nên bà để hai tách hai bên, hoặc hai cái chén một chén không, một chén đầy. Rồi mỗi lần bà niệm chú, bà cho một hạt đậu vào cái chén không. Ba tiếp tục làm vậy, và niệm "Ôm Mà Ni Bát Mê Khô, Ôm Mà Ni Bát Mê Khô." Đậu hủ, đậu hủ, đậu hủ..." Ôm Mà Ni Bát Mê Khô ..." Bà cứ niệm như vậy ngày đêm. Cách này, bà có thể đếm bao nhiêu lần bà đã niệm. Nếu quý vị tu Phật giáo Mật Tông với các vị sư Tây Tạng quý vị sẽ biết. Vị sư sẽ dạy quý vị niệm mấy trăm lần hoặc mấy ngàn lần. Chỉ có cách này quý vị mới biết quý vị có niệm hay không. Bằng không quý vị sẽ nói: "Được rồi, tôi về nhà sẽ niệm." Nhưng quý vị không niệm chi. Chỉ khi quý vị niệm và đếm, thì quý vị mới biết mình thật sự đã niệm. Như vậy quý vị sẽ có một mục tiêu để phấn đấu: "Ồ! Tôi muốn niệm 100 lần hôm nay, rồi ngày mai tôi sẽ niệm 200 lần. Sau vài ngày, tôi sẽ niệm 1000 hay 10 ngàn lần." Niệm quá nhiều cũng mệt, cho nên họ chế ra pháp luân. Quý vị niệm chỉ một lần, nhưng nếu quay bánh xe rất nhanh thì như thể quý vị đã niệm ít nhất 10 lần. Thật tiện lợi! Quý vị cũng có thể làm vậy. Đa số Phật tử Tây Tạng đều có pháp luân. Nếu họ không có tràng hạt, họ có pháp luân. Điều đó cũng rất tốt. Cách này, tâm trí quý vị sẽ không có thời gian để suy nghĩ vẩn vơ. Điều đó cũng rất hữu ích. Vì bà không có những dụng cụ đó, bà dùng đậu nành để bỏ vào đầy chén khi niệm, cho đến khi chén thứ nhất cạn đi. Rồi bà sẽ quay lại và làm đầy chén thứ nhất. Cách này, làm đi làm lại, Bà tiếp tục niệm. Bà rất, rất thành tâm. Bà niệm sai nhưng bà rất thành tâm. Bà niệm như vậy mỗi ngày, và những hạt đậu...Bà niệm suốt 30 năm. Đã 30 năm rồi. Sau một thời gian, vì bà rất thành tâm, khi bà niệm nửa chừng câu chú, mấy hạt đậu sẽ tự chúng nhảy qua chén bên kia, mà bà không cần nhặt lên. Sau khi bà niệm một câu chú, một hạt đậu sẽ nhảy qua một cách tự động. Thật đáng ngạc nhiên. Có lẽ những hạt đậu chạy bằng pin. Bà thành tâm đến mức như vậy. Thật cảm động. Vì nhìn thấy mấy hạt đậu tự chúng nhảy qua nhảy lại, ba cảm thấy có lẽ bà đã khá giỏi trong việc tu hành, cho nên bà cũng vui mừng và tiếp tục niệm chú, vì vậy những hạt đậu đó cũng tiếp tục nhảy. Bà và những hạt đậu đồng hành với nhau rất thoải mái. Một ngày nọ, một vị cao tăng từ Tây Tạng đi ngang chỗ ở của bà. Trước khi đến căn chòi của bà, ông thấy ánh sáng phát ra từ nhà của bà, và rực sáng trên nóc nhà. Vị sư nầy nhất định là một người tu hành giỏi mới có thể thấy được ánh sáng như vậy. Cho nên ông nghĩ đó nhất định có một cao tăng đại lạt ma, Rinpoche, hoặc Phật sống cư ngụ trong căn nhà, cho nên ông vội vào thăm. Bà lão thấy vị cao tăng này, và nghĩ rằng bà thật may mắn và diễm phúc có một vị đại lạt ma như vậy đi vào nhà để thăm. Cho nên bà cúi chào ông, và mời ông trà và thức ăn. Trong lúc cúi chào ông, bà vẫn niệm " Ôm Ma Ni Bát Mê Khô." Lúc đó vị cao tăng nầy cảm thấy rất ngạc nhiên. Ông không biết ánh sáng từ đâu tới vì ông không ngờ đó là từ bà lão khiêm tốn nầy. Ông cứ nhìn quanh; nhìn khắp nơi nhưng căn chòi rất nhỏ, và nhìn đâu cũng trống trơn. Và bà lão thật nghèo, và không có gì cất giấu bên trong. Ông nhìn quanh và không thấy ai cho nên cảm thấy rất lạ và trò chuyện với bà: "Bà niệm gì vậy? Bà có tu hành không?" Bà nói: "Tôi niệm câu chú này. Tôi đã tu được 30 năm." Ông vẫn còn hoài nghi. Ông nói: "Còn ai khác ở đây trong gia đình bà không?" Bà nói: "Không, tôi vẫn ở một mình suốt 30 năm." Rồi vị đại lạt ma hỏi bà: "Sống một mình như vậy, bà chắc rất cô đơn. Bà chắc cảm thấy rất cô đơn không ai hầu bạn." Lúc đó, bà lão nói: "Không, không. Mặc dù tôi ở một mình, tôi niệm chú mỗi ngày và tu hành. Tôi tịnh hóa thân khẩu ý và sám hối mỗi ngày. Cho nên tôi ước rằng khi trở lại kiếp sau, tôi sẽ không đau khổ hơn kiếp này. Như vậy sẽ tốt hơn." Bà không dám nghĩ đến việc đạt cảnh giới cao hơn. Ý bà là nếu có thể trở lại làm người kiếp sau, nhưng không đau khổ nhiều như kiếp này, bà đã cảm thấy rất hài lòng rồi. "Cho nên tôi không có thời giờ để nghĩ là mình có cô đơn hay không, nhất là sau khi một người hành hương rất tử tế trở về dạy tôi câu chú này. Ồ! Tôi còn vui hơn nữa. Tôi bận rộn niệm mỗi ngày. Tôi không nghĩ ngợi về cuộc đời tôi như thế nào. Cho nên tôi vô cùng vui vẻ." Rồi vị cao tăng hỏi bà đang niệm câu gì. Bà nói: "Ôm Ma Ni Bát Mê Khô." Ồ, lúc đó vị cao tăng cảm thấy thương hại bà. Ông nói: "Ôi, Thật đáng tiếc. Bà lãng phí 30 năm niệm sai câu chú. Niệm vậy là vô dụng." Bà lão chợt hiểu ra và cảm thấy mình đã phí 30 năm niệm sai câu chú. Cho nên bà hỏi vị cao tăng dạy bà để sửa lại. Dĩ nhiên vị cao tăng lập tức sửa chữa cho bà. Bà vô cùng tri ân. Nhưng bà cũng rất nản lòng vì đã phí công 30 năm. Dù vậy, ba cúi chào ông và hết lời cảm kích. Từ đó trở đi, bà bắt đầu niệm "Ôm Mà Ni Bắt Mê Hồng." Khi đó bà rất tri ân vị sư và cúi chào ông mấy chục lần. Bà nói: "Cảm ơn ông. Thật tốt là ông đã sửa cho tôi. Tôi vẫn còn thời gian. Bằng không, nếu tôi chết, tôi có lẽ lãng phí cả cuộc đời. Và khi trở lại làm người, tôi sẽ gặp nhiều gian khổ." Rồi vị cao tăng từ giã bà, và khuyến khích bà tiếp tục niệm chú và tu hành. Rồi chính ông phải đi đến những nơi khác. Từ đó trở đi, bà bắt đầu niệm "Ôm Mà Ni Bắt Mê Hồng." Nhưng tâm bà không tập trung như vậy nữa, bởi vì bà cảm thấy đã lãng phí thời giờ và cảm thấy tủi hổ, hối hận và rất nản lòng. Nên bà không tập trung được. Rồi bà bắt đầu niệm đúng cách. Nhưng bà không thoải mái và không vui vẻ. Rồi thì những hạt đậu cũng không vui. Chúng mất đi năng lực để nhảy. Cho nên khi bà niệm, mấy hạt đậu cứ nằm đó bất động. Cho nên bà phải nhặt chúng lên bằng tay rồi bỏ chúng xuống. Rồi khi niệm, ba nghĩ đến nỗ lực vô ích 30 năm, và rất, rất buồn nản. Rồi sau khi vị cao tăng đi được một lúc, ông quay lại nhìn căn chòi của bà lão. Tất cả ánh sáng biến mất. Ủa? Căn chòi trông mờ và tối, buồn nản và lo lắng. Ông chợt nhận thức rằng ý định của ông là tốt, nhưng thật sự không tốt đối với bà lão. Ông khiến cho bà lão không thể tập trung. Bà bị phân tâm cho nên không thể tập trung. Thế là ông lập tức vội vã trở lại để gặp bà lão. Ông mỉm cười và nói: "Tôi chỉ nói đùa với bà. Cách bà niệm là đúng rồi. Bà nên tiếp tục niệm như trước kia." Khi đó bà lão nói: "Tại sao ông dối gạt tôi? Vị lạt ma không còn cách nào, cho nên nói: "Tôi chỉ thử lòng thành của bà! Hãy tiếp tục niệm như trước kia. " Ôm Ma Ni Bát Mê Khô, Ôm Ma Ni Bát Mê Khô, nhớ không? Dĩ nhiên bà lão rất vui mừng và nói: "Ổ! Cảm tạ Phật Trời, cảm ơn Phật Trời. Tôi cứ tưởng tôi đã lãng phí công lao 30 năm. Cho nên tôi rất buồn nản. Cảm ơn lời khuyên của ông, thượng tọa." Nói xong vị sư đi. Rồi bà lão tiếp tục niệm "Ôm Ma Ni Bát Mê Khô." Rồi những hạt đậu tiếp tục nhảy tới nhảy lui một cách vui vẻ. Rồi vị cao tăng sau khi đi một lúc, ông quay đầu lại nhìn lại căn chòi của bà. Ánh sáng rực rỡ trở lại. Thậm chí sáng hơn trước kia, bởi vì bây giờ bà càng thấy khích lệ hơn. Với sự khích lệ, bà có tự tin. Cho nên, ánh sáng rất sáng. Cho nên, dĩ nhiên hòa thượng lạt ma cũng cảm thấy rất vui. Ông mỉm cười và rồi tiếp tục đi.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
January 2023
Categories |